intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Phong vị An Nam trong thơ Tản Đà

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:152

63
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích đi sâu tìm hiểu phong vị An Nam trong thơ Tản Đà; Từ đó làm nổi bật màu sắc dân tộc, bản sắc An Nam qua cảnh sắc thiên nhiên, phong tục tập quán, lối giao tiếp, ứng xử của người An Nam và ngôn ngữ, thể loại thơ của tác giả. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Phong vị An Nam trong thơ Tản Đà

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN PHONG VỊ AN NAM TRONG THƠ TẢN ĐÀ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Thái Nguyên – 2019
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN PHONG VỊ AN NAM TRONG THƠ TẢN ĐÀ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS PHẠM THỊ PHƯƠNG THÁI Thái Nguyên – 2019
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Phạm Thị Phương Thái. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kì hình thức nào. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hồng Yến
  4. ii LỜI CẢM ƠN Hoàn thành luận văn tốt nghiệp thạc sĩ này, tác giả xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô giáo trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên đã truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn. Đặc biệt, với tất cả tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất, tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Phạm Thị Phương Thái, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, giúp đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tác giả cũng gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Ban giám hiệu trường THPT Nguyễn Huệ, Đại Từ, Thái Nguyên - nơi tác giả công tác; cùng bạn bè đồng nghiệp, gia đình đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để tác giả hoàn thành luận văn nghiên cứu của mình. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hồng Yến
  5. iii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN……………………………………………………….……i LỜI CẢM ƠN………………………………………………………...………ii MỤC LỤC……………………………………………………………………iii MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................................ 1 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................................................. 2 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................................... 6 4. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ................................................... 6 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................................................................. 7 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ................................................................... 8 7. KẾT CẤU ĐỀ TÀI........................................................................................ 8 NỘI DUNG ....................................................................................................... 9 CHƯƠNG 1: PHONG VỊ AN NAM TRONG THƠ TẢN ĐÀ QUA CẢNH SẮC THIÊN NHIÊN VÀ ĐỜI SỐNG XÃ HỘI ............................................... 9 1.1. Tản Đà và sự nghiệp sáng tác…………………………………………..………..9 1.2. Khái lược về “phong vị” và “phong vị” trong thơ ca .............................. 11 1.3. Phong vị An Nam trong thơ Tản Đà qua cảnh sắc thiên nhiên................ 14 1.3.1. Địa danh An Nam .................................................................................. 14 1.3.2. Cảnh sắc bốn mùa ................................................................................. 21 1.4. Phong vị An Nam trong thơ Tản Đà qua đời sống xã hội ....................... 31 1.4.1. Ẩm thực An Nam ................................................................................... 31 1.4.2. Phong tục, tập quán .............................................................................. 39 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.................................................................................. 47 CHƯƠNG 2: PHONG VỊ AN NAM TRONG THƠ TẢN ĐÀ QUA VĂN HÓA ỨNG XỬ ............................................................................................... 48 2.1. Bức tranh xã hội An Nam buổi giao thời ................................................. 48
  6. iv 2.2. Văn hóa ứng xử của người An Nam ........................................................ 57 2.2.1. Ứng xử với gia đình, người thân ........................................................... 58 2.2.2. Ứng xử với bạn bè………………………………………………………...…59 2.2.3. Ứng xử với xã hội .................................................................................. 74 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.................................................................................. 84 CHƯƠNG 3: PHONG VỊ AN NAM QUA NGHỆ THUẬT THƠ TẢN ĐÀ 86 3.1. Ngôn ngữ thơ Tản Đà............................................................................... 86 3.1.1. Từ ngữ ................................................................................................... 86 3.1.2. Cách diễn đạt ........................................................................................ 92 3.1.3. Giọng điệu ............................................................................................. 96 3.2. Thể thơ ................................................................................................... 103 3.2.1. Thể thất ngôn Đường luật ................................................................... 104 3.2.2. Thể lục bát và song thất lục bát .......................................................... 106 3.3. Biểu tượng .............................................................................................. 115 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3................................................................................ 121 KẾT LUẬN ................................................................................................... 122 THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 124 PHỤ LỤC ...................................................................................................... 128
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Tản Đà (1889 - 1939) là gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông có ảnh hưởng lớn tới nhiều nhà văn, nhà thơ khác. Với vai trò là cầu nối hai thế kỉ thơ văn; người báo tin xuân cho phong trào Thơ Mới, là nốt nhạc dạo đầu cho thơ ca Việt Nam hiện đại [44]. Tản Đà đã ghi dấu ấn trên thi đàn với một phong cách sáng tác đặc biệt. Sáng tác của Tản Đà rất phong phú (bao gồm thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, luận thuyết, du kí), nhưng thơ ca mới là lĩnh vực đưa ông lên vị trí ngôi sao sáng trên thi đàn Việt Nam đầu thế kỉ XX. Là nhà nho đi tiên phong trong việc thay đổi diện mạo của lối thơ cũ, Tản Đà đã thể hiện cái tôi phóng khoáng, lãng mạn của một hồn thơ tài năng, tâm huyết. Mỗi vần thơ của Tản Đà là nỗi niềm chan chứa trong ông. Tản Đà làm rung động lòng người bằng những vần thơ tứ nhiều, tràn đầy cảm xúc. Chất liệu làm nên thơ ca Tản Đà được chắt lọc từ chính cuộc sống bản thân, với tất cả cái ngông, cái mộng, cái đa tình và xê dịch... đầy bản lĩnh. Đồng thời, nó toát lên từ tâm hồn phong phú, nhạy cảm trước những biến đổi tinh vi của thiên nhiên, vũ trụ, con người, bằng cả những trải nghiệm vừa hiện thực, vừa thi vị của cuộc đời thi sĩ. Thơ Tản Đà là thứ thơ có bản sắc riêng, không giống ai. Ông là người đặt những viên gạch đầu tiên trong quá trình xây dựng nền văn thơ đầu thế kỷ. Dù chưa phải là một nhà thơ mới, Tản Đà vẫn có những đóng góp đáng kể cho quá trình cách tân thơ ca. Thơ ông vừa có phong vị cổ thi vừa có cảm xúc hiện đại, vừa truyền thống, vừa mới mẻ. Tư tưởng đổi mới của ông có ảnh hưởng sâu sắc tới lớp nhà thơ cùng thời và những nhà thơ thế hệ sau.
  8. 2 1.2. Đọc thơ Tản Đà, ta thấy phảng phất màu sắc rất riêng của sông núi, quê hương. Với Tản Đà, nơi đâu trên dải đất chữ S ông đã đến, đã qua, cũng là quê hương, xứ sở. Ta dễ dàng bắt gặp một nét quê hương, đất nước ngay trên những trang thơ Tản Đà. Tất cả như hiện hữu, thân thuộc, gần gũi xiết bao. Mỗi đóa hoa, mỗi cánh chim, mỗi dòng sông, bến nước, mỗi khoảng trời đầy sắc xuân hay cái heo may chớm thu... đều gợi một ý vị đặc biệt. Phải chăng cái bản sắc riêng có của ông đã góp phần làm nên những màu sắc mới lạ, độc đáo mang cốt cách và bản lĩnh An Nam. 1.3. Bản thân tôi là một giáo viên dạy Ngữ văn, trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu, tôi rất tâm đắc và có niềm yêu thích, đam mê đặc biệt với cuộc đời, con người và sự nghiệp thơ ca của Tản Đà, nhất là mảng thơ ca mang phong vị làng quê của ông. Tôi nhận thấy, mỗi tên đất, tên làng, mỗi nét đẹp ẩm thực, mỗi phong tục, tập quán đậm chất An Nam đều được bộc lộ rõ nét qua thơ ca Tản Đà bằng một giọng điệu và ngôn ngữ vừa quen thuộc, truyền thống, vừa cá tính và hiện đại. Vì những lý do trên, tôi mạnh dạn đi sâu tìm hiểu “phong vị An Nam” trong thơ Tản Đà. Tuy hiểu biết và năng lực còn nhiều hạn chế, song tôi hi vọng, bằng tấm lòng yêu thơ, ý thức giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, cùng khát khao học hỏi, cá nhân tôi sẽ góp thêm một tiếng nói vào công trình nghiên cứu về thơ ca Tản Đà, để thêm một lần nữa, khẳng định tài năng, phong cách thơ ca ông. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Có thể nói, trong số các tác giả của văn học Việt Nam hiện đại, Tản Đà có một vị trí đặc biệt, tầm ảnh hưởng vô cùng sâu sắc, rộng lớn. Tản Đà mang dáng dấp của một tâm hồn tài tử, có tư tưởng cách tân, hiện đại hóa táo bạo. Cuộc đời, con người và di sản văn học của ông trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình khoa học đồ sộ.
  9. 3 Đã có hàng trăm bài viết, đề tài khoa học, luận văn nghiên cứu, đánh giá về cuộc đời, con người và sự nghiệp thơ văn Tản Đà, có thể kể đến một số bài viết: Bàn về phong cách nghệ thuật thơ văn Tản Đà [50]; Hình ảnh và nhạc điệu trong thơ Tản Đà [30]; Cảm hứng thế sự trong thơ Tản Đà [2]; Ẩm thực với Tản Đà [40]; Các kiểu giọng điệu trong thơ Tản Đà [41]; Tình yêu quê hương đất nước trong thơ Tản Đà [19]; Tính hiện đại và truyền thống trong thơ Tản Đà [53]; Thơ chơi của Tản Đà từ góc nhìn tư duy nghệ thuật [20]; Hình ảnh con đường trong thơ Tản Đà [14]; Quan niệm văn chương của Tản Đà [48]. Như vậy, cuộc đời, con người và sự nghiệp thơ văn của Tản Đà là địa hạt quan trọng, thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều học giả. Không thể thống kê trọn vẹn và đầy đủ các bài viết, công trình nghiên cứu lớn, nhỏ về Tản Đà, đặc biệt là về sự nghiệp thơ văn của ông; Song có thể nhận thấy điểm chung trong hầu hết các bài viết là sự đánh giá và ghi nhận những nét phẩm chất cao quý trong con người Tản Đà, giá trị văn chương đặc sắc, cũng như những đóng góp to lớn của ông cho quá trình hiện đại hóa văn học nói riêng, cho nền văn học dân tộc nói chung. Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Diễm trong bài viết Địa vị thi ca Tản Đà với nền văn chương nước nhà nhận định: “Về phần tư tưởng, thơ ca của Tản Đà rất mực phong phú. Là một nhà Nho, tuy lỡ thời nhưng vì đã hấp thụ những tư tưởng duy tân của Đông kinh Nghĩa thục, của Lương Khải Siêu cũng như tư tưởng của một số nhà văn cách mạng Pháp... Tiên sinh luôn tỏ ra thiết tha với sự văn minh, tiến bộ. Cũng vì Tiên sinh là môn đệ của Nho giáo nên Tiên sinh ôm ấp chủ trương đem hết tài lực ra để làm công việc ích quốc lợi dân, dẫn con người vào đường lương thiện, ngõ hầu làm tròn cái sứ mệnh hành đạo của mình...” [32, tr.727]. Trong bài Cung chiêu anh hồn Tản Đà, Hoài Thanh khẳng định: “Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp
  10. 4 sửa. Với chúng tôi, tiên sinh vẫn là một bậc đàn anh. Tiên sinh còn giữ được của thời trước cái phong thái vững vàng, cái cốt cách ung dung. Tiên sinh đã đi qua giữa cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20 với tấm lòng bình thản của một người thời trước. Những cảnh éo le thường phô bày ra trước mặt không làm bợn được linh hồn cao khiết của tiên sinh. Cái dáng điệu ngang tàng chúng tôi thường thấy ở các nhà thơ xưa, ở tiên sinh không có vẻ vay mượn. Cái buồn chán của tiên sinh cũng là cái buồn chán của một người trượng phu…” [44, tr.11]. Cho dù cái không khí khai hội Tao Đàn có náo nhiệt đến đâu thì cũng không vì thế mà Hoài Thanh quá cao hứng để dành cho Tản Đà những lời khen tặng danh giá nhất, gọi ông là con người của hai thế kỷ và trích đăng tới hai bài thơ của Tản Đà để mở màn cho Hội Tao Đàn Thơ Mới, đó là bài Thề non nước và bài Tống biệt! Quả là Hoài Thanh có “con mắt xanh” khi đánh giá thơ Tản Đà. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương trong bài viết Tính dân tộc và tính hiện đại, truyền thống và cách tân qua nhà thơ Tản Đà, nhận định: “Nhìn tổng quát, Tản Đà đã nối tiếp loạt chủ đề, đề tài truyền thống, đồng thời mở rộng ra, đưa thêm vào đó những tình huống mới, những sắc thái mới và luôn luôn tìm ra một cách nói mới, vừa có sự gần gũi với các tác giả nổi danh trong truyền thống, nhưng cũng phát hiện nhiều giọng điệu, sắc thái cách tân” [53]. Nhà nghiên cứu Trương Tửu từng nhận định: “Tản Đà điều khiển cái máy từ ngữ Việt Nam với một tự chủ đứng trên tất cả các lời khen. Tiên sinh hiểu kĩ then chốt bí mật của nó, hơn tất cả các thi sĩ hiện đại. Thơ Tản Đà là một toán pháp mà con số là những chữ hình tượng và âm điệu. Trong thơ Tản Đà, có nhiều chữ mà tôi muốn gọi là chữ thần. Những chữ đó là thần lực của bài thơ” [43]. Về vấn đề ẩm thực của Tản Đà, tác giả Hồ Sỹ Tá, trên báo Dulich.net.vn viết: “Nói đến sự ăn, đối với Tản Ðà không phải là gặp sao ăn vậy như ta vẫn
  11. 5 làm. Ông không những đã nâng ăn lên thành nghệ thuật mà còn kèm theo triết lý “Ăn là cả một nghệ thuật, mà nghệ thuật ăn nhiều khi lại khó hơn nghệ thuật viết văn”. Ngoài việc viết văn ông luôn nghĩ cách chế biến, gia giảm thế nào cho các món ăn được tinh xảo hơn” [40]. Bài viết kể lại một số giai thoại về chuyện ẩm thực của thi sĩ Tản Đà, từ đó, giúp độc giả làm phong phú thêm hương vị cuộc sống và cũng hiểu sâu thêm “cái sự ăn” của các cụ ta xưa. Bàn về ngôn ngữ trong thơ Tản Đà, tác giả Nguyễn Thị Thủy trong đề tài nghiên cứu Phong cách thơ Tản Đà, nhấn mạnh: “Trong thơ Tản Đà, ngôn ngữ dân tộc, giọng điệu dân tộc được thể hiện đậm nét. Nhà thơ dùng nhiều từ đa nghĩa, phát huy nhạc tính, âm điệu của ca dao... tạo thành những tác phẩm đỉnh cao nghệ thuật. Tản Đà đã kết hợp được hai nền văn chương bác học và bình dân, tạo nên nét hấp dẫn riêng biệt. Ông là cây bút vừa hiện thực vừa lãng mạn” [50]. Nói về tính giao thời trong thơ Tản Đà, tác giả Nguyễn Thị Ly A nhấn mạnh: “Là nhà thơ trưởng thành trong buổi giao thời, Tản Đà chịu không ít những chi phối của hoàn cảnh xã hội. Vì thế trong thơ ông đã có những biểu hiện rõ rệt của tính giao thời. Trong sáng tác của mình, Tản Đà đã thể hiện cùng lúc hai yếu tố cũ và mới, cổ điển và hiện đại, Đông và Tây. Điều đó được thể hiện ở hai khía cạnh: nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Sự kết hợp nhuần nhuyễn ấy đã làm nên phong cách Tản Đà” [1]. Điểm qua một vài bài viết và công trình nghiên cứu về Tản Đà cũng như sự nghiệp thơ văn của ông để khẳng định thêm tầm ảnh hưởng và sức sống lâu bền của một đời người, một đời thơ đến nền văn học hiện đại của dân tộc. Có thể thấy hầu hết các bài viết trên đều khẳng định vị trí tiên phong của Tản Đà trong nền văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, cũng như tầm ảnh hưởng của ông tới thi pháp sáng tác của các tác giả khác. Mặc dù nhận định Tản Đà là nhà cách tân, người dẫn đầu trong xu thế cái mới lạ, độc đáo, nhưng các nhà
  12. 6 nghiên cứu không thể phủ nhận thơ văn Tản Đà vẫn kế thừa một cách sâu sắc những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, từ nội dung cảm hứng đến đề tài, thi liệu. Tuy vậy chúng tôi nhận thấy, các công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập đến một vài biểu hiện của màu sắc An Nam trong thơ Tản Đà một cách mờ nhạt, còn rất chung chung, chưa thành hệ thống. Bởi vậy, trong khuôn khổ của luận văn khoa học này, chúng tôi mong muốn được đi sâu tìm hiểu thêm về Tản Đà và vấn đề phong vị An Nam trong thơ ông, với hi vọng sẽ góp thêm một góc nhìn về giá trị phong phú, đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật thơ văn Tản Đà. 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Phong vị An Nam trong thơ Tản Đà. Các biểu hiện của phong vị An Nam trong thơ Tản Đà trên các phương diện: Về nội dung: làm rõ biểu hiện của phong vị An Nam qua địa danh đất Việt, cảnh sắc bốn mùa, nét văn hóa ẩm thực, phong tục tập quán, lối giao tiếp, ứng xử của người An Nam với bạn bè, gia đình và xã hội. Về nghệ thuật: Phong vị An Nam biểu hiện qua ngôn ngữ thơ và thể thơ. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: “Tuyển tập Tản Đà” (Nhà xuất bản Hội nhà văn, HN 2001); “Tản Đà vận văn” toàn tập (NXB Hương Sơn, 1949). Trong đó, đặc biệt chú ý mảng thơ viết về quê hương đất nước, cảnh sắc thiên nhiên và tâm tình làng quê của tác giả. 4. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 4.1. Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích đi sâu tìm hiểu phong vị An Nam trong thơ Tản Đà; Từ đó làm nổi bật màu sắc dân tộc, bản sắc An Nam qua cảnh sắc thiên nhiên, phong tục tập quán, lối giao tiếp, ứng xử của người An Nam và ngôn ngữ, thể loại thơ của tác giả.
  13. 7 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu + Sưu tầm, tổng hợp tư liệu tham khảo; thu thập các ngữ liệu phục vụ quá trình nghiên cứu. + Phân tích, so sánh làm nổi bật các biểu hiện của phong vị An Nam trong thơ Tản Đà. + Qua kết quả nghiên cứu, giúp người đọc hiểu sâu sắc thêm về đặc điểm nội dung, nghệ thuật và phong cách thơ Tản Đà. + Giúp bản thân và người đọc bồi đắp lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, ý thức gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: 5.1. Nghiên cứu liên ngành Đặt vấn đề phong vị An Nam trong thơ Tản Đà trong mối quan hệ liên ngành với các lĩnh vực khác như: lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, ẩm thực... của người Việt. 5.2. Nghiên cứu dưới góc nhìn văn hóa Tôi áp dụng phương pháp này trong quá trình nghiên cứu, nhằm khai thác một cách toàn diện các biểu hiện của phong vị An Nam trong thơ Tản Đà. 5.3. Thống kê, phân loại Tôi sử dụng phương pháp này để khảo sát một cách đầy đủ, hệ thống các ngữ liệu liên quan đến biểu hiện của phong vị An Nam trong thơ Tản Đà. 5.4. Phân tích, tổng hợp
  14. 8 Từ những ngữ liệu thu thập, được thống kê và phân loại, tôi tiến hành phân tích, tổng hợp và rút ra kết luận về vấn đề nghiên cứu. 5.5. So sánh, đối chiếu Tôi sử dụng phương pháp này để mở rộng vấn đề nghiên cứu, đặt những biểu hiện của phong vị An Nam trong thơ Tản Đà bên cạnh màu sắc dân tộc trong thơ văn của những tác giả khác. Từ đó, giúp người đọc thấy được vị trí, vai trò và đóng góp của Tản Đà trong nền văn hóa, văn học dân tộc. 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi hi vọng, thêm một lần nữa khẳng định tài năng, cá tính sáng tạo - một phương diện trong đặc điểm sáng tác thơ của Tản Đà, đặc biệt là mảng thơ trữ tình viết về quê hương đất nước và tâm tình làng quê. Qua đó, góp phần thiết thực trong công tác giảng dạy của cá nhân và đồng nghiệp tại các nhà trường phổ thông. 7. KẾT CẤU ĐỀ TÀI Ngoài phần mục lục, phụ lục và thư mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba phần chính: Phần mở đầu Phần nội dung Chương 1: Phong vị An Nam qua cảnh sắc thiên nhiên và đời sống xã hội. Chương 2: Phong vị An Nam qua văn hóa ứng xử. Chương 3: Phong vị An Nam qua nghệ thuật thơ. Phần kết luận
  15. 9 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: PHONG VỊ AN NAM TRONG THƠ TẢN ĐÀ QUA CẢNH SẮC THIÊN NHIÊN VÀ ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 1.1. Tản Đà và sự nghiệp sáng tác Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu (1889 - 1939), người làng Khê Thượng, xã Sơn Đà (Ba Vì, Hà Tây, nay là Hà Nội). Trong nền văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn giao thời, Tản Đà là một hiện tượng đặc biệt. Thuở nhỏ, Tản Đà từng theo học chữ Nho, bởi vậy, ông mang tâm tư và thần thái của một nhà Nho nặng lòng với đất nước. Trước luồng văn hóa phương Tây ồ ạt Trong bối cảnh đất nước nhiều dâu bể biến thiên, Tản Đà không tránh khỏi cảm giác buồn chán, cô đơn, tuy nhiên, cái buồn đó ở ông không hề bi lụy, không đối lập lại với thực tại, ngược lại đó là nỗi buồn nhập thế, ông trải lòng mình với tất cả mọi biến thái tinh vi của con người và cuộc đời. Khác với hầu hết những nhà nho xưa, Tản Đà không chọn con đường an hưởng cảnh nhàn hay làm ngơ trước sự đời giả dối, lật lọng. Ở ông có một cá tính độc đáo, ông thả hồn mình trong “giấc mộng con”, “giấc mộng lớn”, làm một cuộc viễn du vòng quanh thế giới để tìm hiểu tận cội rễ cái mới mẻ của nền tân học. Tản Đà đã làm một cuộc cách mạng trong tâm hồn, tư tưởng liền biến đổi, thu ngắn khoảng cách trước bước tiến của lớp trẻ; tiếng lòng thi nhân được diễn đạt thành tiếng tơ réo rắt giữa cái tân kì của lớp người mới [35, tr 131]. Nói đến phong cách thơ của Tản Đà, ta thường nói nhiều đến cái “say”, cái “mộng” và cái “ngông”. Với những bài thơ có tư tưởng cách tân, vượt ra ngoài lối thơ niêm luật gò bó, Tản Đà được coi là người mở đầu cho thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ ông thể hiện lòng yêu nước kín đáo mà sâu sắc, nồng nàn, thấm đượm phong vị làng quê.
  16. 10 Tác giả Kiều Thu Hoạch trong bài viết “Tản Đà, người mở đầu thơ Việt Nam hiện đại” có viết: “Tác phẩm đầu tiên của Tản Đà được công bố trước công chúng là những bài tản văn đăng ở tạp chí Đông Dương năm 1915. Ngay từ đó, thơ Tản Đà đã trở nên nổi tiếng, đến mức Đông Dương tạp chí phải mở riêng một mục Tản Đà văn tập chuyên đăng tải văn của ông. Tòa soạn đã ghi nhận xét rằng: Bản quán duyệt qua tập văn ấy thì thấy ông Nguyễn Khắc Hiếu cũng là một văn sĩ có biệt tài, có lý tưởng riêng, ngắm cảnh vật một cách kì khôi, lạ thay cho một bậc thiếu niên!” [35]. Đời người và đời thơ Tản Đà không dài nhưng có thể thấy, kể từ khi cho ra đời những tác phẩm đầu tay, đến khi từ biệt trần thế, Tản Đà sáng tác liên tục, không mệt mỏi, với một khối lượng tác phẩm đồ sộ, có giá trị đặc sắc ở nhiều thể loại như thơ, văn, ca kịch, truyện, dân ca, từ khúc, diễn ca... Có thể điểm qua một số tác phẩm tiêu biểu của thi sĩ: văn Giấc mộng con I (1917), Giấc mộng con II (1932), Giấc mộng lớn (1932), Thề non nước (1922), Tản Đà văn tập (1932), thơ Khối tình con I (1916), Khối tình con II (1918), Tản Đà xuân sắc (1918), Khối tình con III (1932), kịch Tây Thi (1922), Tống biệt (1922), dịch thuật: Liêu trai chí dị (1934), nghiên cứu Vương Thuý Kiều chú giải (1938) và nhiều bài báo khác. Thơ văn Tản Đà vừa giàu giá trị hiện thực, vừa chan chứa tình cảm nhân đạo chủ nghĩa, thể hiện niềm cảm thương sâu sắc với nỗi thống khổ của nhân dân ta dưới gót giày thực dân. Tất cả được thể hiện bằng lối văn giàu nghệ thuật với nhiều sáng tạo mới lạ, ngôn ngữ thơ giản dị mà trong sáng, gợi cảm, hết sức điêu luyện, sắc sảo, mang bản lĩnh và bản sắc riêng của tác giả. Bởi những đóng góp không thể phủ nhận cho nền văn học nước nhà giai đoạn giao thời, Tản Đà xứng đáng được tôn vinh là nhà thơ, nhà văn của hai thế kỉ, người mở đầu cho văn học Việt Nam hiện đại, có tầm ảnh hưởng vô
  17. 11 cùng sâu sắc và to lớn đối với lớp nhà văn đương thời và hậu thế. Nhiều văn sĩ như Nguyễn Công Hoan, Xuân Diệu, Tú Mỡ, Nguyễn Tuân, Nguyễn Triệu Luật (nhà viết tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng) đều thừa nhận mình chịu ảnh hưởng nhiều từ Tản Đà [35, tr 151]. “Cơn gió lạ Tản Đà” [53] thực sự đã mang đến cho thi đàn văn học cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX một không khí tươi mới, giàu sức sống. 1.2. Khái lược về “phong vị” và “phong vị” trong thơ ca “Phong vị” (風味)vốn là một từ Hán Việt. Theo Từ điển của tác giả Nguyễn Quốc Hùng, “phong vị” chỉ sự thích thú và ý nghĩa cao đẹp của một sự việc nào đó. Truyện “Hoa Tiên” có câu: “Nói chi phong vị lâu đài, vả trong khách huống lữ hoài biết sao”. Trong trường hợp khác, “phong” được hiểu là gió; “vị” là mùi, mùi thơm: “Nam Trung quất cam, thái chi phong vị chiếu toạ” (Nam trung quýt ngọt, hái xuống hương thơm ngào ngạt cả chỗ ngồi ). “Phong vị” lại có nghĩa người phong lưu học thức rộng. Tống thơ: “Bá Ngọc ôn nhã hữu phong vị, hòa nhi năng biện, dự nhân cộng sự giai vi thâm giao”(Bá Ngọc người ôn hòa, thanh nhã, có phong vị, người hòa nhã có tài biện luận, cùng cộng sự với ai đều trở nên thâm giao cả) [56]. Theo từ điển Tiếng Việt [51]“phong vị” là nét sắc thái riêng, đặc sắc, có thể cảm nhận được, ví dụ “phong vị làng quê”, “phong vị Tết cổ truyền”, “phong vị ca dao” [51, tr.783]. Từ đó, có thể hiểu: “phong vị” là màu sắc, dáng vẻ, hương vị độc đáo, khác lạ, tạo thành bản sắc của một đối tượng nào đó. Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn cách định nghĩa theo Từ điển Tiếng Việt [51] để lý giải và bàn luận về “phong vị” trong sáng tác của các tác giả văn học, đặc biệt là “phong vị An Nam” trong thơ ca Tản Đà. Văn học cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX phát triển trong sự kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của văn học dân tộc, đồng thời các tác giả
  18. 12 chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây đã tìm cho mình một phương thức sáng tác mới lạ khi chuyển tải những đề tài xưa cũ. Trong cuộc cách tân ấy, mỗi tác giả lại lựa chọn một phương thức diễn đạt, một giọng điệu riêng, tạo nên bản sắc của mỗi người. Phan Bội Châu - lãnh tụ của phong trào Duy tân có những trang thơ văn yêu nước cùng những cách tân văn chương độc đáo, đã trở thành khuôn thước cho một giai đoạn sáng tác. Các nhà thơ khác như Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Thiện Kế, Kép Trà,... lại lựa chọn thơ trào phúng cùng những hình thức biểu hiện mới để dự góp vào sự phát triển của nền văn học nghệ thuật nước nhà trong bối cảnh xã hội mới. Họ thực sự đã làm một cuộc cách tân trong thơ ca, tạo tiền đề cho sự phát triển như vũ bão của phong trào Thơ Mới đầu thế kỉ XX với những tên tuổi nổi danh như: Xuân Diệu, Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Song, điều đáng nói, cho dù lựa chọn hình thức diễn đạt mới mẻ, khác lạ như thế nào thì mỗi nhà thơ đều có ý thức gìn giữ “phong vị” dân tộc - điều làm nên bản sắc riêng có của quê hương xứ sở. Trong thơ ca truyền thống từ cổ chí kim, “phong vị” dân tộc được thể hiện rất rõ trong sáng tác của nhiều nhà thơ như Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tản Đà hay Tố Hữu. Tác giả Nguyễn Khuyến, người được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, nổi tiếng với nhiều bài thơ thấm đẫm phong vị quê hương, xứ sở, đặc biệt là chùm thơ thu ba bài Thu điếu (Mùa thu câu cá), Thu ẩm (Thu uống rượu), Thu vịnh (Vịnh thu). Màu sắc làng quê đồng bằng Bắc Bộ hiện lên mộc mạc, chân thực, sinh động, rất đỗi quen thuộc qua hình ảnh: ao thu, chiếc thuyền câu bé tẻo teo, ngõ trúc quanh co... Người đọc ấn tượng với màu xanh rợn ngợp (xanh nước, xanh trời, xanh lá, xanh bèo, xanh trúc, ...), điểm vào đó là sắc vàng của chiếc lá thu rơi (Thu điếu). Đó là “Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt/ Làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm); là bầu trời thu cao rộng thăm thẳm:
  19. 13 Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao/ Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu (Thu vịnh). Khung cảnh làng quê hiện lên với những nét chấm phá thực đơn giản mà hài hòa, toàn bích; từ đường nét, hình ảnh, màu sắc, âm thanh đều sinh động, giàu sức sống, gần gũi với mỗi người thôn quê. Trên nền không gian ấy, con người xuất hiện với nỗi niềm thế sự. Cảnh thu đẹp nhưng buồn. Song điều đáng nói, nỗi buồn ấy không bi lụy, sầu thảm, ngược lại, đó là nỗi buồn của một con người có trí tuệ, nhân cách và phẩm chất cao đẹp. Cảnh thu và tình thu ấy là đặc trưng riêng có của xứ An Nam ta. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta cũng bắt gặp phong vị làng quê qua những hình ảnh đời thường, gần gũi. Vốn là một nhà nho, sống giữa thời loạn lạc, chứng kiến những giá trị đạo đức truyền thống bị đảo lộn, Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn cuộc sống nơi điền viên sơn thủy, thuận theo tự nhiên và gắn bó với tự nhiên. Đó là không gian sinh hoạt làng quê với những công việc lao động hằng ngày: Một mai, một cuốc, một cần câu; những món ăn bình dị nhưng không kém phần thanh cao: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá; những thú vui không thể tìm thấy ở chốn phồn hoa, bon chen: Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao (“Nhàn”). Trở về với thôn quê cũng chính là sự lựa chọn cách sống gạn đục, khơi trong; chọn lối sống nhàn để lánh xa những ô hợp. Đó là thái độ xử thế cầu nhàn, không cầu danh lợi, thể hiện sâu sắc triết lý sống: vinh hoa phú quý chỉ là phù du, mộng ảo; rời xa chốn hư danh, giữ khí tiết trong sạch, đó mới là bậc đại tài, đại trí, đại nghĩa. Tố Hữu là nhà thơ trữ tình cách mạng. Thơ ông là cuốn “biên niên sử” ghi lại những chặng đường cách mạng của đất nước. Điều khiến chúng ta ấn tượng trong phong cách sáng tác của Tố Hữu là tính dân tộc đậm đà, thấm nhuần trong thơ ông. Có thể thấy rõ điều đó trong hầu hết tác phẩm của Tố Hữu, đặc biệt là bài thơ “Việt Bắc”. “Việt Bắc” là nỗi nhớ dài, nhớ cảnh, nhớ người, nhớ chiến khu, nhớ những kỉ niệm kháng chiến... Nỗi nhớ ấy xuất phát
  20. 14 từ lối sống nghĩa tình của người Việt Nam ta từ bao đời nay. Những tên đất, tên làng gắn bó máu thịt với con người kháng chiến, trở thành tình cảm thiêng liêng với quê hương, đất nước, con người Việt Nam: Nhớ gì như nhớ người yêu, Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương. Nhớ từng bản khói cùng sương, Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Ta bắt gặp tình cảm ấy trong thơ ca truyền thống, trong ca dao dân ca, tất cả như quen như lạ, vô cùng gần gũi, thân thuộc. Màu sắc dân gian trong “Việt Bắc” của Tố Hữu còn được biểu hiện ở thể thơ lục bát 6/8 thuần dân tộc, cùng lối kết cấu đối đáp, giao duyên thường thấy trong ca dao, dân ca; cách dùng đại từ xưng hô mình - ta tạo cảm giác vừa gần gũi, vừa trang trọng; đặc biệt là âm điệu ngọt ngào, trữ tình, tha thiết, quyến luyến, đưa người đọc vào thế giới của những kỉ niệm. Chính phong vị dân tộc đó đã làm nên sức sống lâu bền của tác phẩm trong lòng người đọc Việt Nam bao thế hệ. Riêng về Tản Đà, có thể thấy gia tài văn chương đồ sộ của thi sĩ thấm đượm phong vị An Nam. Nói phong vị An Nam trong thơ Tản Đà là nói đến hương vị, màu sắc riêng biệt, độc đáo, riêng có của xứ An Nam được Tản Đà mô tả, phân biệt với các không gian, vùng miền, khu vực khác. Phong vị ấy được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên và đời sống xã hội; qua văn hóa ứng xử của con người An Nam, đặc biệt là qua nghệ thuật thơ ca Tản Đà. 1.3. Phong vị An Nam trong thơ Tản Đà qua cảnh sắc thiên nhiên 1.3.1. Địa danh An Nam
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2