Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm đề xuất hệ thống biện pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
- BỘ QUỐC PHÒNG BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ TỐNG PHI KHANH TỐNG PHI KHANH BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠ BINGỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG NHÂN LỰC PHÒNG XÉT NGHIỆM Ở CÁC BỆNH VIỆN NHÂN LỰC PHÒNG XÉT NGHIỆM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY Ở CÁC BỆNH VIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC MÃ SỐ: 60 14 01 14 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC Người Hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HỌC TỪ HÀ NỘI 2013
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ TỐNG PHI KHANH BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG NHÂN LỰC PHÒNG XÉT NGHIỆM Ở CÁC BỆNH VIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY Chuyên ngành : QUẢN LÝ GIÁO DỤC Mã số: 60 14 01 14 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HỌC TỪ
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG NHÂN LỰC PHÒNG XÉT NGHIỆM Ở CÁC BỆNH VIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 15 15 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.2. Nội dung quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng 24 xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh 1.3. Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng 33 xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh Chương 2 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG NHÂN LỰC PHÒNG XÉT NGHIỆM Ở CÁC BỆNH VIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 52 2.1. Yêu cầu xây dựng biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh 52 2.2. Các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí 56 2.3. Minh Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các 73 biện pháp
- KẾTLUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 81 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83 PHỤ LỤC 87
- 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Theo số liệu của Cục Thống kê, tình hình dân số Việt Nam hiện nay đã tăng lên ở mức khá cao (năm 2012, khoảng 88 triệu người và riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh là 7,2 triệu) . Điều này đã dẫn đến tình trạng nhu cầu khám và chữa bệnh tăng cao, nhu cầu xét nghiệm hỗ trợ cho chẩn đoán và điều trị vì vậy cũng tăng lên rất cao; tổng chi phí cho các xét nghiệm Y học tính ra sẽ là rất lớn. Và, nếu như chất lượng các xét nghiệm không đảm bảo yêu cầu như mong đợi, thì điều đó không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng chẩn đoán, khám, chữa bệnh, lòng tin vào ngành Y, mà còn gây lãng phí lớn cho bệnh nhân, xã hội. Chất lượng các xét nghiệm phụ thuộc vào nhiều yếu tố; trong đó, tay nghề của những con người làm ra các kết quả xét nghiệm đó giữ vai trò quyết định; nói cách khác là, phụ thuộc vào chất lượng nguồn nhân lực phòng xét nghiệm các bệnh viện. Ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, đang tồn tại một thực trạng, bên cạnh một đội ngũ kỹ thuật viên, nhân viên phòng xét nghiệm các bệnh viện có năng lực và phẩm chất chuyên môn nghề nghiệp vững, vẫn tồn tại một số trình độ tay nghề yếu, chưa đạt chuẩn về nghề nghiệp và thiếu tâm huyết với công việc. Điều đó có nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan. Về mặt khách quan, đội ngũ kỹ thuật viên, nhân viên phòng xét nghiệm các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau: trường công, trường tư… theo các chương trình đào tạo không giống nhau (Trường Đại học Y dược, Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Nông lâm, Đại học Bách khoa ở Thành phố Hồ Chí Minh,
- 4 Huế, Hà Nội...), nên chất lượng tay nghề của họ cũng rất khác nhau. Mặt khác, việc các bệnh viện hiện nay được trang bị ngày càng nhiều máy móc, trang thiết bị hiện đại,… đã dẫn đến xu hướng, hoặc là ỷ lại vào kỹ thuật, phương tiện; nhà quản lý thì không đề cao trách nhiệm trong việc bồi dưỡng nhân lực; cán bộ, kỹ thuật viên, nhân viên các phòng xét nghiệm cũng không có ý thức tự vươn lên làm chủ kỹ thuật, phương tiện; hoặc là, không chịu cập nhật kiến thức, trang bị những hiểu biết mới về tính năng, tác dụng, cách vận hành,… các loại kỹ thuật, phương tiện đó, nên bị lạc hậu với thực tiễn,v.v. Về mặt chủ quan, việc bồi dưỡng nguồn nhân lực phòng xét nghiệm các bệnh viện cũng chưa được các cấp, các ngành, trực tiếp là ngành Y tế, trong đó có các bệnh viện quan tâm đúng mức. Những năm qua, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực phòng xét nghiệm các bệnh viện trên địa bàn Thành phố cũng đã có một số chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Bản thân các bệnh viện cũng đã có những nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ kỹ thuật viên, nhân viên xét nghiệm, như: tổ chức cho cán bộ đi đào tạo, học việc, tự bồi dưỡng lẫn nhau trong công việc,… Tuy nhiên, so với yêu cầu, vấn đề này còn rất khiêm tốn. Nổi lên là, việc quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm các bệnh viện còn có những hạn chế từ nhận thức đến tổ chức thực hiện. Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu, đề xuất những biện pháp có tính khả thi, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh là
- 5 một vấn đề vừa mang tính cơ bản, lâu dài, vừa đáp ứng yêu cầu cấp bách, trước mắt. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: “Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình; với mong mỏi góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng hệ thống xét nghiệm Y học tại Thành phố, giúp cho hệ thống xét nghiệm Y học Thành phố cùng với hệ thống xét nghiệm chung của cả nước phát triển tốt hơn, tiến lên ngang tầm khu vực và thế giới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tình hình ngoài nước Phát triển nghề nghiệp là một vấn đề lớn mà các nhà quản lý nhân sự của các cơ quan, công ty ở các nước phát triển luôn được đặc biệt quan tâm. Thông thường, không riêng gì nhân viên của một phòng xét nghiệm, trong hồ sơ hợp đồng lao động ở mọi ngành nghề kỹ thuật của các cơ quan, doanh nghiệp, đều có lưu một bản mô tả vị trí việc làm, có cam kết thỏa thuận thống nhất giữa người lao động và chủ thể quản lý. Hồ sơ đó thường kèm theo một bản ghi nhớ về kế hoạch học tập nâng cao trình độ và nguyện vọng thăng tiến của người lao động. Căn cứ vào nội dung công việc đã được mô tả cụ thể trong hợp đồng, người lao động phải tự phấn đấu nâng cao trình độ để hoàn thành nhiệm vụ như đã cam kết. Về phía người quản lý, nếu đó là một người quản lý tốt, trong quá trình làm việc của nhân viên, họ sẽ xem xét, đối chiếu năng lực thật sự của người lao động với nhiệm vụ được giao trong hợp đồng; từ đó, đề ra kế hoạch bồi dưỡng hay đào tạo nâng cao năng lực cho phù hợp. Quy trình quản lý và bồi dưỡng nhân sự như thế được thực hiện thành nền nếp và luôn được cập
- 6 nhật trước yêu cầu mới. Công tác giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng mỗi cán bộ, nhân viên được xem là việc làm thường ngày, không bao giờ bị lãng quên, để nhằm xây dựng một lực lượng công chức có đủ trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp và bản lĩnh để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Các trường dạy nghề xét nghiệm, nơi đào tạo chính cho nhân lực phòng xét nghiệm ở các nước phát triển đều có chương trình đào tạo nghề xét nghiệm khá hoàn chỉnh và ổn định. Các chương trình này thường đã được kiểm định chất lượng, mang tính quốc tế và được áp dụng rộng rãi, nhất quán cho tất cả các trường. Cơ sở vật chất, máy móc, trang thiết bị phòng thí nghiệm, tài liệu, sách vở đầy đủ và hiện đại. Một số nước ở châu Á, như: Thái Lan, Xingapo, Malaixia, Hàn Quốc,… có hệ thống đào tạo xét nghiệm khá hoàn chỉnh, kể cả đào tạo đến bậc học tiến sĩ và sau tiến sĩ. Trường đào tạo xét nghiệm ở các nước này, ngoài công tác đào tạo nhân lực trong nước, họ còn mở rộng chiêu sinh đào tạo cấp bằng hoặc cấp chứng chỉ bồi dưỡng đủ mọi trình độ, cho các sinh viên, học viên quốc tế. Việc quản lý chất lượng nhân lực phòng xét nghiệm bệnh viện chủ yếu là dựa vào hệ thống quản lý chất lượng phòng xét nghiệm theo chuẩn quốc tế ISO 15189 [15]. Các hoạt động bồi dưỡng nhân lực được lồng ghép khéo léo và thực hiện nghiêm ngặt trong quá trình phấn đấu đạt chuẩn ISO của các phòng xét nghiệm. Do quy trình quản lý, vận hành hệ thống phòng xét nghiệm như đã nêu ở trên khá hoàn hảo, nên các hoạt động bồi dưỡng ở các nước ngoài thường diễn ra suôn sẻ; vì vậy, hiếm thấy các đề tài nghiên cứu riêng biệt về quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm các bệnh viện.
- 7 Tình hình trong nước Ở Việt Nam, chưa có một mô hình tổng thể hoàn chỉnh về đào tạo nhân lực phòng xét nghiệm Y học; chưa có mã ngành đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ xét nghiệm như các nước khác. Do vậy, hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm là một vấn đề cấp bách, cần phải đầu tư lớn. Hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm là một lĩnh vực của hoạt động giáo dục và đào tạo. Đầu tư cho hoạt động đó là đầu tư về giáo dục. Quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm cũng chính là công tác quản lý giáo dục, nhắm tới đối tượng là chuyên viên, kỹ thuật viên làm việc trong các phòng xét nghiệm của các bệnh viện. Để có được một đội ngũ chuyên viên, kỹ thuật viên xét nghiệm lành nghề, phát triển theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, cũng như quản lý các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm Y học tại các bệnh viện rất được Bộ Y tế, Bộ Giáo dục Đào tạo quan tâm và coi trọng. Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã ban hành các chỉ thị, thông tư và Chương trình hành động quốc gia về nâng cao năng lực quản lý phòng xét nghiệm Y học; đã phân quyền, giao quyền tổ chức các hoạt động bồi dưỡng cho nhiều bệnh viện lớn, để các nơi này cùng hợp sức với hệ thống nhà trường đẩy mạnh công tác bồi dưỡng. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các bộ phận có quyền hạn tổ chức còn hạn chế; sản phẩm đào tạo bồi dưỡng chưa được nâng cấp theo từng thang bậc đồng bộ, đồng nhất về chuyên môn; công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm Y học vẫn chưa được thực hiện chặt chẽ, mỗi nơi triển khai mỗi kiểu; có nơi, các hoạt
- 8 động xét nghiệm đã vượt ngoài tầm kiểm soát và đã gây ra nhiều tiếng xấu cho nghề Xét nghiệm. Trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp Xét nghiệm Y học, muốn nâng cao chất lượng kiến thức và kỹ năng nghề, tiếp theo sau những kiến thức và kỹ năng cơ bản đã được học tại trường, người kỹ thuật viên xét nghiệm cũng rất cần được cung cấp bổ sung những kiến thức và kỹ năng còn khiếm khuyết khi bắt đầu hành nghề tại các phòng xét nghiệm bệnh viện. Việc đầu tư giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ kỹ thuật viên xét nghiệm cũng thật cần thiết, không thua kém gì so với đầu tư cho giáo dục phổ thông. Trong hoàn cảnh đất nước sau chiến tranh, chúng ta đã đưa vào hoạt động khá nhiều trường dạy nghề xét nghiệm từ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và đại học, cả công lập lẫn tư thục. Chính vì có nhiều trường, trong khi chưa có bộ máy đủ mạnh để kiểm định chất lượng các trường về cơ sở, trang thiết bị, chương trình học, chất lượng giáo viên, nên chất lượng học sinh tốt nghiệp từ các trường khác nhau sẽ là không giống nhau. Từ đây, một vấn đề mới đã phát sinh, đó là nhu cầu bồi dưỡng, và yêu cầu chuẩn hóa nâng cao tay nghề xét nghiệm. Nói cách khác, cần phải tiến hành hoạt động bồi dưỡng nghề Xét nghiệm thật rộng khắp cho tất cả các phòng xét nghiệm. Đây là một hoạt động tương đối mới, nên rất cần có nhiều đề tài nghiên cứu về chuyên đề hoạt động bồi dưỡng này để tham mưu, đóng góp ý kiến, dẫn đường xây dựng và phát triển nghề Xét nghiệm. Tuy nhiên, hiện nay, mới chỉ có các công trình nghiên cứu khảo sát thực trạng chất lượng phòng xét nghiệm, để chỉ ra rằng công tác đào tạo, bồi dưỡng là yêu cầu cấp bách cần triển khai thực hiện. Các đề tài nghiên cứu nhằm xây dựng một hệ thống quản lý các cấp độ bồi dưỡng hoàn chỉnh, là nỗi trăn trở về quản lý nghề Xét nghiệm vẫn còn đang bỏ ngỏ.
- 9 Xin đơn cử các công trình nghiên cứu có liên quan sau: + Tại Thành phố Hồ Chí Minh, được sự giúp đỡ của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) do TS. David Browning hướng dẫn, từ ngày 09 đến 207 2007, Trung tâm Kiểm chuẩn Xét nghiệm Thành phố đã tiến hành khảo sát toàn diện các phòng xét nghiệm trên địa bàn Thành phố. Sau khi phát phiếu trả lời và kiểm tra thực tế trên 30 phòng xét nghiệm, Đoàn khảo sát đã tổng kết, đánh giá và chỉ ra rất nhiều vấn đề còn tồn tại cần khắc phục; trong đó, phải kể đến là sự cách biệt khá lớn về chuyên môn, kỹ thuật, trình độ, chất lượng,… giữa các phòng xét nghiệm và theo Kết luận của Đoàn khảo sát, cần phải được những nhà quản lý quan tâm khắc phục thông qua đào tạo [32]. + Ở phía Bắc, có Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Đánh giá thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực kỹ thuật viên Y tế (trong đó có xét nghiệm) tại các bệnh viện thuộc 28 tỉnh phía Bắc” của Thầy thuốc nhân dân, PGS, TS. Vũ Đình Chính (2005). Nội dung đề tài cũng đã được PGS, TS. Vũ Đình Chính và TS.Trần Thị Minh Tâm báo cáo tại “Hội thảo Quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực Y Dược” vào ngày 27122008 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Báo cáo cho biết, một số đơn vị Y tế đã cử nhân viên điều dưỡng đi đào tạo thêm theo hình thức kèm cặp, bổ túc ngắn hạn, rồi phân công làm công việc của kỹ thuật viên. Cách làm này theo PGS, TS. Chính là điều bất cập lớn, vì vẫn chưa đủ lực để đảm bảo chuẩn chất lượng chuyên môn của một kỹ thuật viên. Để đáp ứng nhanh với sự phát triển của các trang thiết bị hiện đại về chẩn đoán, xét nghiệm... cũng theo PGS, TS. Chính, đội ngũ kỹ thuật viên Y tế rất cần phải được đào tạo lại, đào tạo liên tục về kiến thức chuyên ngành; vấn đề cập nhật những thông tin kỹ thuật mới là vô cùng quan trọng .
- 10 + Về các nghiên cứu thực trạng chung các phòng xét nghiệm trong cả nước, ngày 19122010, Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh (Bộ Y tế) Lương Ngọc Khuê cho hay: cơ quan này đang thực hiện cuộc khảo sát thực trạng phòng xét nghiệm quy mô toàn quốc đầu tiên ở Việt Nam. Theo ông, trước đây, Bộ Y tế từng triển khai một khảo sát tương tự, nhưng chưa có kết quả cuối cùng [27]. + Về Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực quản lý phòng xét nghiệm theo kết quả nghiên cứu của Bộ Y tế đã nêu trong: “Chương trình hành động quốc gia về nâng cao năng lực quản lý phòng xét nghiệm Y học từ nay đến năm 2020”, mục 1 có ghi rõ: Chuyên ngành về quản lý phòng xét nghiệm Y học là một chuyên ngành sâu. Tuy nhiên, công tác đào tạo cho chuyên ngành này chưa được chú trọng và phát triển tại các cơ sở đào tạo đội ngũ cán bộ y tế. [6 tr.14]. Nhận định này xác nhận 1 hệ quả kèm theo, đó là hoạt động bồi dưỡng còn yếu kém. + Các nghiên cứu khác liên quan đến bồi dưỡng nhân lực xét nghiệm: có các đề tài: “ Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực, trang thiết bị, nhu cầu đào tạo sau đại học của các phòng xét nghiệm tuyến tỉnh Việt Nam” của Nguyễn Thị Hà và cộng sự (2006) [18]. Đề tài cấp Bộ Y tế (2004 – 2006). Cho thấy, những nơi nhân lực yếu kém, càng cần có cán bộ có trình độ cao để xây dựng và phát triển. Đề tài: “Thực trạng qua nghiên cứu đặc điểm phát hiện khi đánh giá phòng xét nghiệm y khoa đăng ký công nhận đạt tiêu chuẩn ISO 15189” của Vũ Quang Huy (2010) [25], đã chỉ ra rằng: đặc điểm được phát hiện không trùng khớp với chuẩn duyệt xét, ở mức độ khá nặng (không đạt chuẩn) thường gặp, là chuẩn về yêu cầu nhân sự. Như vậy, vấn đề rút ra ở đây là: Công tác quản lý, thu thập thông tin số liệu về thực trạng (đặc biệt là hoạt động bồi dưỡng) từ tất cả các
- 11 phòng xét nghiệm trên diện rộng là rất khó khăn, số đề tài nghiên cứu có liên quan trực tiếp về hoạt động bồi dưỡng là rất ít vì đây là một hoạt động còn yếu kém; và nhận định về sự chênh lệch năng lực khá lớn trong đội ngũ kỹ thuật viên xét nghiệm, sự yếu kém thuộc khâu đào tạo ở cả phía Nam lẫn phía Bắc là có thật. Do vậy, yêu cầu cần tăng cường quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm là một việc làm cấp bách, cần phải tiến hành thực hiện càng sớm càng tốt. Trong thời gian qua, Bộ Y tế Việt Nam cũng đã ban hành các văn bản pháp lý để chỉ đạo chấn chỉnh. Tuy nhiên, để có thể biến các chủ trương trên thành hiện thực, cần phải có thêm nhiều công trình nghiên cứu khoa học thiết thực về biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng. Các dữ liệu nghiên cứu tổng hợp được sẽ giúp Bộ có cơ sở chỉ đạo triển khai các bước đi thật cụ thể về hoạt động bồi dưỡng và quản lý hoạt động bồi dưỡng, nhằm nâng cao năng lực cho nhân viên các phòng xét nghiệm bệnh viện. Luận văn tốt nghiệp: “Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” của tác giả hy vọng đem đến một cách nhìn mới, với mong mỏi kế thừa được những kết quả nghiên cứu trước đó; đồng thời, được góp phần của mình vào việc nâng cao chất lượng hoạt động của các phòng xét nghiệm bệnh viện, trước mắt là tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm các bệnh viện. Đề tài của tác giả là hoàn toàn mới. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu
- 12 Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm, đề xuất hệ thống biện pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đánh giá đúng thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu Khách thể nghiên cứu Hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Phạm vi nghiên cứu Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý nguồn nhân lực công tác tại các khoa, phòng xét nghiệm ở một số bệnh viện nhà nước và tư nhân tiêu biểu tại Thành phố Hồ Chí Minh; bao gồm các bệnh viện thuộc quyền quản lý của Bộ Y tế và Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh. Các số liệu điều tra, khảo sát được tính từ năm 2007 đến nay.
- 13 5. Giả thuyết khoa học Hiệu quả quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu chúng ta coi trọng: Nâng cao nhận thức cho cán bộ các cấp và nhân viên phòng xét nghiệm; thành lập hệ thống chuyên trách công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng; xây dựng và triển khai thực hiện các kế hoạch bồi dưỡng bảo đảm tính khoa học, khả thi; chăm lo bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp và khả năng sư phạm cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo phòng xét nghiệm; đẩy mạnh liên kết, phối hợp bệnh viện – nhà trường với các tổ chức, hiệp hội chuyên ngành cùng thực hiện kế hoạch bồi dưỡng; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ, kỹ thuật viên, nhân viên phòng xét nghiệm nỗ lực phấn đấu tự học tập, tự bồi dưỡng, tự phát triển nghề nghiệp tại chỗ, tại chức; thực hiện có nền nếp công tác kiểm tra, đánh giá, nhận ý kiến phản hồi về hiệu quả các hoạt động bồi dưỡng nhân lực và rút kinh nghiệm , thì chất lượng nhân lực phòng xét nghiệm của các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh sẽ được nâng cao. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục, quản lý giáo dục; trong đó, trực tiếp là những quan điểm, phương pháp luận về công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Cách tiếp cận nghiên cứu của đề tài: theo quan điểm hệ thống – cấu trúc – hoạt động; kết hợp giữa lịch sử và lôgic.
- 14 Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp sau: Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết : Phân tích các tài liệu, văn bản để tìm hiểu các khái niệm, thuật ngữ, các vấn đề lý luận có liên quan đến việc quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm; tìm hiểu các văn bản pháp luật, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Y tế về chủ trương nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; trong đó có Chương trình hành động quốc gia về nâng cao năng lực quản lý phòng xét nghiệm Y học do Bộ Y tế ban hành. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: + Phương pháp điều tra: Điều tra bằng phiếu nhằm khảo sát chất lượng nguồn nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh và việc quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh, làm căn cứ để đánh giá thực trạng, tìm ra những ưu, nhược điểm, khó khăn cần khắc phục; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phù hợp. + Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động của các phòng xét nghiệm, từ khâu tổ chức phân công, quy trình làm việc, phương thức tương tác giữa phòng xét nghiệm, nhân viên phòng xét nghiệm với bệnh nhân, với y, bác sĩ điều trị và các phòng chức năng có liên quan trong bệnh viện; thu nhận các ý kiến phản hồi về chất lượng của cán bộ lãnh đạo, quản lý, kỹ thuật viên, nhân viên phòng xét nghiệm, từ đó rút ra các kết luận về nội dung nghiên cứu. + Phương pháp tọa đàm: Trao đổi với các nhân viên phòng xét nghiệm, các cán bộ quản lý phòng xét nghiệm, học sinh, sinh viên để tìm
- 15 hiểu sâu sát hơn tâm tư, nguyện vọng các nguồn nhân lực xét nghiệm, để rút ra những kết luận cho nhiệm vụ nghiên cứu. + Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu từ những vấn đề đã và đang diễn ra nhằm đúc kết thành những kinh nghiệm trong công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh. + Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của một số nhà khoa học, nhà sư phạm, nhà quản lý, các chuyên viên trong và ngoài nước về lĩnh vực xét nghiệm, để thu thập các thông tin cần thiết có liên quan đến đề tài. + Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê để tổng hợp các kết quả điều tra. 7. Ý nghĩa của đề tài Đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm các bệnh viện; Đề xuất những biện pháp khả thi để quản lý tốt hoạt động bồi dưỡng nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh. 8. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm: Mở đầu; 2 chương (6 tiết); Kết luận và kiến nghị; Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.
- 16 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG NHÂN LỰC PHÒNG XÉT NGHIỆM Ở CÁC BỆNH VIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh Để hiểu rõ khái niệm về nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh, cần làm rõ khái niệm về nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực (Human Resource) là một khái niệm ra đời muộn hơn so với khái niệm “Vốn con người” hay “Tư bản người” (Human Capital). Khái niệm nguồn nhân lực bổ sung cho khái niệm Vốn con người để giúp nhà quản lý điều hành quá trình tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội theo hướng bền vững. Hiện nay, tùy theo mục đích nghiên cứu, có rất nhiều quan niệm không hoàn toàn giống nhau về nguồn nhân lực. Có ý kiến cho rằng, nguồn nhân lực là toàn bộ khả năng về sức lực, trí tuệ của mọi cá nhân trong tổ chức (không kể đó là ai), được biểu hiện ra ở sức óc, sức bắp thịt, thần kinh của cá nhân đó (trạng thái tĩnh). Có ý kiến quan niệm, nguồn nhân lực là tổng hợp các cá nhân những con người cụ thể (bao gồm cả các yếu tố về vật chất và tinh thần) tham gia vào quá trình lao động (trạng thái động). Ngoài ra, cũng có ý kiến nhấn mạnh về khía cạnh trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khi nói về nguồn nhân lực hoặc tiếp cận ở tầm vĩ mô như Giáo sư Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước, một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc nào đó” [20]. Tác giả Văn Đình Tấn, quan niệm: “Nguồn nhân lực là tổng
- 17 hòa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước” [34]. Còn tác giả Vũ Xuân Tiến đưa ra khái niệm: “Nguồn nhân lực là tổng thể những tiềm năng của con người (trước hết và cơ bản nhất là tiềm năng lao động), gồm: thể lực, trí lực, nhân cách của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của một tổ chức hoặc một cơ cấu kinh tế xã hội nhất định [35]. Qua các khái niệm trên cho thấy, nói đến nguồn nhân lực là phải thỏa mãn các điều kiện: Nguồn nhân lực là nguồn lực con người; Nguồn nhân lực bao giờ cũng đặt trong một tổ chức xã hội nhất định. Mỗi một tổ chức muốn tồn tại và phát triển đều phải có sự chi phối của rất nhiều yếu tố; trong đó, yếu tố quan trọng nhất là con người; con người là nhân tố giữ vị trí trung tâm đối với các nhân tố khác trong sự phát triển của tổ chức. Nói cách khác, nguồn nhân lực của một tổ chức là tất cả người lao động làm việc trong tổ chức đó; Nói đến nguồn nhân lực là đề cập đến số lượng, chất lượng con người, bao gồm: thể chất, tinh thần, sức khỏe, trí tuệ, năng lực và phẩm chất của người lao động. Theo đó, có thể hiểu, nguồn nhân lực là tổng thể tiềm năng của tất cả những con người hoạt động trong một tổ chức, một cơ cấu xã hội nhất định, được biểu hiện thông qua sức khỏe, tinh thần, trí tuệ, phẩm chất, năng lực hoạt động của họ. Từ khái niệm về nguồn nhân lực, xem xét nhân lực phòng xét nghiệm ở các bệnh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh, có thể thấy:
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non - hệ Cao đẳng, Trường Đại học Đồng Nai
126 p | 300 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý văn bản điện tử tại Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
88 p | 227 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Phát triền nguồn nhân lực hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
113 p | 97 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình
118 p | 120 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
104 p | 149 | 22
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa
26 p | 127 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
116 p | 97 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
102 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
21 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, Nghệ An
26 p | 130 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động của thư viện tỉnh Bạc Liêu
114 p | 17 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa
100 p | 14 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý xăng dầu của Cục Trang bị và Kho vận, Bộ Công an
85 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
126 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn phường Trường Sơn, Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
127 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
119 p | 15 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Thực thi chính sách văn hóa trong quản lý di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ
195 p | 8 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về công tác gia đình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
145 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn