intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường Đại học Bạc Liêu

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:95

29
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm đề xuất giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại Trường Đại học Bạc Liêu, đáp ứng yêu cầu phát triển nhà trường trong thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường Đại học Bạc Liêu

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  ĐÀO ANH DUY GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO HỆ CHÍNH QUY TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2013
  2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  ĐÀO ANH DUY GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO HỆ CHÍNH QUY TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU Chuyên ngành : Quản lý giáo dục Mã số : 60 14 01 14 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS NGUYỄN VĂN PHÁN HÀ NỘI - 2013
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ ................................................................................................................................................3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC......................................................................................................... 13 1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài.....................................................17 1.2. Nội dung cơ bản (các yếu tố) đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy trường đại học.............................................................................................................................26 Chương 2 THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO HỆ CHÍNH QUY TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU.............................................................................38 2.1. Khái quát về Trường Đại học Bạc liêu.................................................................38 2.2. Thực trạng đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường Đại học Bạc Liêu.................................................................................................................................41 Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO HỆ CHÍNH QUY TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU...................................................................................63 3.1. Nguyên tắc đề xuất các giải pháp..........................................................................70 3.2. Hệ thống giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường Đại học Bạc Liêu...................................................................................................................72 3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp...........................90 KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ .......................................85 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................87 PHỤ LỤC .................................90
  4. BẢNG QUY ƯỚC CÁC TỪ VIẾT TẮT %: Phần trăm BGH: Ban Giám hiệu Bộ GD&ĐT: Bộ Giáo dục và Đào tạo CB-GV: Cán bộ giảng viên CBQL: Cán bộ quản lý CĐ: Cao đẳng CLGDĐH: Chất lượng giáo dục đại học CNH-HĐH: Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa CNTT: Công nghệ thông tin CSVC: Cơ sở vật chất ĐBCL: Đảm bảo chất lượng ĐBCLGD: Đảm bảo chất lượng giáo dục ĐH: Đại học ĐHBL: Đại học Bạc Liêu GDĐH: Giáo dục đại học GDMN: Giáo dục mầm non GV: Giảng viên KHCN: Khoa học công nghệ KH-TC: Kế hoạch – Tài chánh KT&KĐCLGD: Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục KTX: Ký túc xá KT-XH: Kinh tế xã hội m2: Mét vuông NCKH: Nghiên cứu khoa học PCCC: Phòng cháy chữa cháy QLKH-HTQT: Quản lý khoa học – Hợp tác Quốc tế QTKD: Quản trị kinh doanh SV: Sinh viên TB: Trung bình TDTT: Thể dục thể thao THSP: Trung học sư phạm TNXK: Thanh niên xung kích UBND: Ủy ban nhân dân UNESCO: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đại hội XI của Đảng xác định "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội" Tuy nhiên, chất lượng đào tạo đại học vẫn chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động; chưa đáp ứng được những đòi hỏi bức thiết từ nhu cầu của xã hội, nhất là trong các ngành kỹ thuật. Đào tạo chưa thật sự gắn giữa nhu cầu với sử dụng; vẫn còn khoảng cách lớn giữa trình độ của sinh viên ra trường và yêu cầu của các đơn vị sử dụng lao động. Do đó hiện nay đang tồn tại một nghịch lý là “cung - thừa” “cầu – thiếu”, trong khi các trường tìm cách để duy trì và mở rộng quy mô đào tạo, số lượng tốt nghiệp đại học chưa có việc làm ngày càng tăng nhưng các cơ quan, doanh nghiệp đều khó tuyển dụng được những lao động đáp ứng được yêu cầu của công việc, hoặc tuyển dụng được thì cũng phải bồi dưỡng, đào tạo lại thì mới có thể sử dụng được. Nhiều ý kiến cho rằng: trong những nguyên nhân quan trọng là các trường đại học chỉ đào tạo “cái mình có” mà chưa chú trọng đến đào tạo “cái xã hội cần” tức là chưa thực hiện tốt quy luật “cung – cầu” của thị trường lao động. Điều này dẫn đến sự mất cân đối cung – cầu đào tạo cả về quy mô, cơ cấu và đặc biệt là chất lượng, gây ra lãng phí lớn và giảm hiệu quả đào tạo. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo và đảm bảo các điều kiện cho nó đang được các nhà trường đại học cũng như toàn xã hội quan tâm; và là vấn đề cấp thiết hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
  6. Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học thể hiện ở những yếu tố tạo nên chất lượng sản phẩm đào tạo, đó chính là chất lượng nguồn nhân lực được qua đào tạo. Việc đảm bảo chất lượng đào tạo trong các trường đại học cũng như chất lượng đào tạo nghề nghiệp nói chung đang là một yêu cầu bức thiết hiện nay trong việc phát triển nguồn nhân lực cả trước mắt và lâu dài. Hiện nay, Bộ GD&ĐT đang triển khai kiểm định chất lượng giáo dục theo mô hình được nhiều nước trên thế giới sử dụng, đã triển khai công tác đảm bảo chất lượng và đã thu được một số kết quả nhất định. Nhiều trường đại học đã và đang triển khai có hiệu quả công tác đảm bảo chất lượng theo tập huấn hàng năm của Bộ GD&ĐT. Đối với trường Đại học Bạc Liêu, qua hơn 5 năm (2006-2012) xây dựng và phát triển đã từng bước phấn đấu xây dựng và trưởng thành. Nhà trường là nơi đào tạo nhiều ngành nghề với nhiều loại hình đào tạo từ ngắn hạn, dài hạn, chính quy, tại chức, liên thông từ trung cấp đến cao đẳng, lên đại học, nhằm tạo mọi cơ hội học tập cho sinh viên. Chất lượng đào tạo của nhà trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố, có yếu tố thuộc phạm vi bên ngoài, hoặc do liên kết mà có, do vậy ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng sản phẩm đào tạo. Tuy nhiên, là một trường Đại học mới thành lập nên Đại học Bạc Liêu vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo, trong đó nhiều yếu tố của đảm bảo chất lượng còn thiếu như: nguồn tài chính, cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, chất lượng đầu vào. Đặc biệt công tác tổ chức, quản lý đào tạo hệ thống các bậc học, ngành học đan xen nhau; và đào tạo hệ chính quy bậc đại học còn nhiều hạn chế, vì còn ít kinh nghiệm do mới thành lập và còn thiếu những giải pháp phù hợp. Vì vậy, việc nghiên cứu và đề xuất những giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo nhất là hệ chính quy là hết sức cấp thiết đối với nhà trường trong giai đoạn hiện nay; bởi nó đáp ứng đòi hỏi sự phát triển về chất lượng nguồn nhân lực lao động của các ngành nghề trên các tỉnh thuộc bản đảo Cà Mau. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề nghiên cứu “Giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường Đại học Bạc
  7. Liêu” nhằm góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 trường Đại học Bạc Liêu trở thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực và chuyển giao khoa học công nghệ cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Những năm qua, giáo dục đại học đã có nhiều đổi mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhân lực có trình độ đại học để phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội; công tác đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng đào tạo giáo dục chuyên nghiệp đã đạt được những kết quả nhất định, nhân lực trình độ đại học ngày càng đáp ứng được yêu cầu thị trường lao động. Đây là hiệu quả của việc đầu tư về nhân lực, vật lực và sự đổi mới quản lý của các trường đại học. Nỗ lực nâng cao chất lượng đào tạo của các trường trong xu thế cạnh tranh hứa hẹn sẽ tạo ra những “sản phẩm” có chất lượng, đáp ứng yêu cầu xã hội. Để giải quyết hiệu quả bài toán giữa duy trì và phát triển quy mô, ngành nghề đào tạo vừa đảm bảo chất lượng và hiệu quả đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, cần phải tiến hành nhiều giải pháp một cách đồng bộ. Trong đó các giải pháp quản lý là mang tính bao trùm và có ý nghĩa quyết định đến việc đảm bảo chất lượng đào tạo ở các trường đại học là rất quan trọng và cần thiết. Bởi vì, thông qua quản lý xác định được những cách thức tổ chức, điều khiển toàn bộ quá trình hoạt động hướng vào việc tạo ra những biến đổi về chất của người học trong quá trình đào tạo để có được đội ngũ lao động có năng lực chuyên môn nghề nghiệp, năng lực thích nghi được với môi trường xã hội luôn luôn biến đổi, phát triển thì công tác quản lý nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học là rất quan trọng và cần thiết. Để có thể đánh giá chính xác chất lượng, hiệu quả hoạt động của một hệ thống hay một tổ chức giáo dục, giới nghiên cứu hết sức quan tâm đến việc xây dựng một bộ thước đo bao gồm các tiêu chuẩn, tiêu chí và các chỉ số làm căn cứ chủ yếu để xem xét chất lượng giáo dục gắn với mục tiêu theo những yêu cầu và trong những lĩnh vực, điều kiện thực tế khác nhau. Vấn đề đảm bảo chất lượng đào tạo đến nay đã nhận được sự quan tâm đúng mực của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
  8. Theo Phạm Xuân Thanh (2005), trên thế giới hiện nay có hơn 100 nước có hệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục đại học. Phần lớn các hệ thống này được hình thành trong những năm 90 (thế kỷ 20). Các hệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục đại học được lập ra là nhằm để thích ứng với sự phát triển về quy mô đào tạo của giáo dục đại học. Cũng theo tác giả này, việc đảm bảo chất lượng được nhận thức và thực hiện rất khác nhau giữa các quốc gia. Chẳng hạn như: Tại Mỹ, đảm bảo chất lượng là một quy trình đánh giá một cơ sở hay một chương trình nhằm xác định xem các tiêu chuẩn về giáo dục đại học, học thuật và cơ sở hạ tầng có được duy trì và tăng cường không (CHEA, 2001). Tại Australia, đảm bảo chất lượng bao gồm các chính sách, thái độ, hành động và quy trình cần thiết để đảm bảo rằng chất lượng đang được duy trì và nâng cao (AUQA, 2002). Tại Anh, đảm bảo chất lượng là một công cụ qua đó cơ sở giáo dục đại học khẳng định rằng các điều kiện dành cho sinh viên đã đạt được các tiêu chuẩn do nhà trường hay cơ quan có thẩm quyền đề ra (CHEA, 2001). Trong nhiều nước châu Âu trước đây, đảm bảo chất lượng được sử dụng như một hệ thống đánh giá bên ngoài mà không cần phải có một sự công nhận chính thức các kết quả đạt được. Tuy nhiên, một xu hướng mới được hình thành là xúc tiến xây dựng hệ thống kiểm định trong mỗi quốc gia châu Âu. Ở các nước Đông Nam Á, việc đảm bảo chất lượng cũng rất khác nhau. Ở Thái Lan, nhằm vào các mục tiêu giáo dục đại học, sự thực hiện, các kết quả học tập hay các chỉ số và sự phát triển, việc đảm bảo chất lượng được giới thiệu qua hệ thống kiểm tra chất lượng nhà trường, kiểm toán chất lượng bên ngoài và kiểm định công nhận (BHES, 2002). Ở Indonesia, đảm bảo chất lượng được xác định thông qua kiểm tra nội bộ các chương trình học, các quy định của chính phủ, cơ chế thị trường và kiểm định công nhận (Tajudin, 2001). Một số nước Đông Nam Á cũng đã thành lập cơ quan kiểm định quốc gia như: BADC (Brunei), BAN-PT (Indonesia), LAN (Malaysia), FAAP
  9. (Philipines), ONESQA (Thái Lan). Trọng tâm kiểm định của mỗi quốc gia có sự khác nhau. Chẳng hạn như: Indonesia thực hiện kiểm định ở cấp chương trình; các nước như: Malaysia, Brunei, Thái Lan thực hiện kiểm định ở cấp trường. Ở Việt Nam, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế tri thức đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước. Nhiệm vụ chính của giáo dục và đào tạo là cung cấp nguồn nhân lực đó. Để thực hiện nhiệm vụ này, giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp của nước ta nói riêng, không những phải mở rộng quy mô mà còn phải không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Vấn đề đảm bảo chất lượng đào tạo, xây dựng các biện pháp khả thi để thực hiện nhiệm vụ này đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Có thể kể đến một số sách, công trình nghiên cứu tiêu biểu đã đề cập đến vấn đề này ở nhiều mức độ, nhiều cách tiếp cận khác nhau: Nguyễn Hữu Châu (chủ biên), (2008), Chất lượng giáo dục, những vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB Giáo dục. Nguyễn Đức Chính (chủ biên), (2002), Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Lê Vinh Danh (2006), Một số vấn đề lí luận về đảm bảo chất lượng đào tạo trong giáo dục đại học, Kỷ yếu Hội thảo “Đảm bảo chất lượng trong đổi mới giáo dục đại học”, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Trần Khánh Đức (2004), Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân lực, NXB Giáo dục. Nguyễn Công Giáp (1997), Bàn về phạm trù chất lượng và hiệu quả giáo dục, Tạp chí Phát triển giáo dục, số 10. Lê Đức Phúc (1997), Chất lượng và hiệu quả giáo dục, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 5. Phạm Xuân Thanh (2005), Kiểm định chất lượng giáo dục đại học, Tạp chí Giáo dục, số 115.
  10. Qua những công trình nghiên cứu nêu trên, các vấn đề xoay quanh hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo đã dần sáng tỏ; và có thể dựa vào mô hình đánh giá chất lượng giáo dục cơ bản ở một cơ sở giáo dục có các hệ tiêu chí đánh giá sau: Thứ nhất: các tiêu chí thể hiện bối cảnh chung của cơ sở giáo dục (các chuẩn mực được thiết lập bởi cơ quan quản lý cấp trên, hoàn cảnh kinh tế - xã hội địa phương, sự hỗ trợ của cộng đồng…); Thứ hai: các tiêu chí đầu vào (nguồn lực tài chính, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của đội ngũ giáo viên, nguồn tuyển sinh, kích cỡ lớp học, trang thiết bị của nhà trường, cơ sở vật chất…); Thứ ba: các tiêu chí đánh giá quá trình (các chủ trương, chính sách, sự lãnh đạo của nhà trường, đội ngũ giáo viên, môi trường sư phạm, phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập…) Thứ tư: các chỉ số về đầu ra (sản phẩm) (kết quả đạt được của sinh viên về các môn học cơ bản, tỉ lệ lên lớp, bỏ học, tiếp tục theo học bậc cao hơn và tỉ lệ sinh viên tìm được việc làm phù hợp sau khi tốt nghiệp…). Tiếp tục phát triển các hệ tiêu chí đánh giá này, ĐBCLGD sẽ tiến hành xây dựng các quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục cho từng loại hình trường và dùng quy định tiêu chuẩn đó làm công cụ để đánh giá mức độ yêu cầu và điều kiện mà các cơ sở của từng loại hình trường phải đáp ứng để được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục. Các tiêu chuẩn (gồm nhiều tiêu chí) kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phải quán triệt quan điểm tiếp cận tổng thể, đánh giá toàn bộ các lĩnh vực hoạt động giáo dục của nhà trường. Các yếu tố được đánh giá có mối quan hệ biện chứng với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, có tác động ảnh hưởng qua lại với nhau và với chất lượng sản phẩm giáo dục của nhà trường. Mô hình đảm bảo chất lượng giáo dục ở Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều nước trên thế giới có kinh nghiệm triển khai các hoạt động này. Trước hết, nó chịu ảnh hưởng của mô hình đảm bảo chất lượng của Hoa Kỳ và các nước Bắc Mỹ; chịu ảnh hưởng của các mô hình đảm bảo chất lượng của các nước
  11. Châu Âu là những nước đi trước Việt Nam trong khá nhiều năm để triển khai xây dựng mô hình đảm bảo chất lượng giáo dục; đặc biệt chịu ảnh hưởng của các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do có nhiều nét tương đồng trong văn hóa nên dễ chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn. Những ảnh hưởng của các nước khác đến mô hình đảm bảo chất lượng của Việt Nam chủ yếu thông qua sự hỗ trợ hợp tác song phương và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Ngân hàng thế giới. Mạng lưới chất lượng Châu Á - Thái Bình Dương (APQN), SEAMEO và của một số nước như Hoa Kỳ, Australia, Hà Lan. Trong quá trình tiếp cận với nhiều mô hình đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục trên thế giới, mô hình đảm bảo chất lượng giáo dục ở Việt Nam đang từng bước được hình thành, phù hợp với mô hình đảm bảo chất lượng của nhiều nước trên thế giới, nhất là mô hình của Châu Âu, Châu Á - Thái Bình Dương, AUN, những mô hình được tiếp tục phát triển trên mô hình chung của Châu Âu. Mô hình đảm bảo chất lượng giáo dục của Việt Nam cơ bản bao gồm: Hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của nhà trường; Hệ thống đảm bảo chất lượng bên ngoài nhà trường (hệ thống đánh giá ngoài bao gồm các chủ trương, quy trình và công cụ đánh giá); Hệ thống các tổ chức đảm bảo chất lượng (các tổ chức đánh giá ngoài và các tổ chức kiểm định độc lập, đang đề nghị cho phép thành lập). Đảm bảo chất lượng giáo dục là một lĩnh vực còn khá mới ở Việt Nam. Có thể nói, ở cấp hệ thống, nó được bắt đầu từ khi Phòng kiểm định chất lượng Đào tạo trong vụ Đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) được thành lập từ tháng 01/2002, sau đó được mở rộng cho các cấp học và trình độ đào tạo khác kể từ năm 2003, sau khi Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục (KT&KĐCLGD) được thành lập. Kiểm định chất lượng được đẩy mạnh từ tháng 12/2004 khi Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học được ban hành và được tiếp tục củng cố và phát triển gắn với việc ban hành các quy trình và các tiêu chuẩn kiểm định khác. Tuy nhiên, sự hiểu biết của cán bộ
  12. quản lý, giảng viên nói riêng và của xã hội nói chung về kiểm định còn rất hạn chế; nhiều người đang hiểu về vấn đề này theo nhiều cách khác nhau. Nhìn chung, vấn đề đảm bảo chất lượng đào tạo đại học đã được quan tâm đúng mức; nhiều bài viết, công trình khoa học, nhiều hội thảo, tọa đàm đã được tổ chức luận bàn xoay quanh vấn đề này, thể hiện tầm quan trọng của nó liên quan đến chất lượng đào tạo ở các cơ sở giáo dục đại học. Những cuốn sách, công trình nghiên cứu trên, là nguồn tài liệu lý luận hết sức phong phú, giúp tác giả nghiên cứu kế thừa phục vụ cho quá trình xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Từ nghiên cứu lý luận và thực trạng đảm bảo chất lượng, luận văn hướng tới đề xuất giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại Trường Đại học Bạc Liêu, đáp ứng yêu cầu phát triển nhà trường trong thời gian tới. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận về đảm bảo chất lượng đào tạo đại học. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường Đại học Bạc Liêu. Đề xuất một số giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường Đại học Bạc Liêu. 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khách thể nghiên cứu Hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo tại trường Đại học Bạc Liêu. Đối tượng nghiên cứu Giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường Đại học Bạc Liêu. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu trong phạm vi hệ đào tạo chính quy bậc cao đẳng và đại học tại trường Đại học Bạc Liêu; đồng thời các báo cáo tổng kết và số liệu khảo sát phục vụ nhiệm vụ nghiên cứu từ năm 2010 đến nay.
  13. 5. Giả thuyết khoa học Đảm bảo chất lượng đào tạo đại học, có vai trò quan trọng, quyết định trực tiếp đến chất lượng sản phẩm đào tạo và uy tín của trường đối với xã hội. Vì vậy, trường đại học Bạc Liêu chỉ có thể nâng cao chất lượng đào tạo hệ chính quy khi thực hiện tốt những vấn đề như: đổi mới hoạt động tổ chức quản lý đào tạo và thường xuyên tự đánh giá chất lượng; nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, xây dựng chuẩn đầu ra và chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu; tạo điều kiện tốt cho sinh viên phát triển toàn diện; phát triển công nghệ thông tin và tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, nghiên cứu khoa học; tăng cường cơ sở vật chất và chủ động, đa dạng hóa nguồn tài chính phục vụ hiệu quả giáo dục đào tạo… 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm tư tưởng về giáo dục đào tạo của Đảng, Nhà nước và Ngành Giáo dục - Đào tạo, nhất là chủ trương đổi mới quản lý giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo hệ chính quy của các trường đại học. Trong quá trình nghiên cứu, đề tài quán triệt và vận dụng các quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc, lôgic - lịch sử và quan điểm thực tiễn. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành đề tài, tác giả luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục như: Các phương pháp nghiên cứu lý luận gồm: Phương pháp phân tích - tổng hợp, phân loại - hệ thống hóa, khái quát hóa những tài liệu có liên quan để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm: Quan sát hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo đại học hệ chính quy của trường đại học Bạc Liêu. Điều tra bằng bảng hỏi ý kiến để tìm hiểu, thu thập thông tin thực tiễn liên quan đến đề tài. Nghiên cứu các sản phẩm đánh giá chất lượng đào tạo và tổng kết kinh nghiệm đảm bảo chất lượng đào tạo.
  14. Tiến hành tham khảo ý kiến của chuyên gia về những vấn đề liên quan đến đề tài. Tổ chức tiến hành khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của biện pháp đề xuất. Sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu từ các kết quả nghiên cứu. 7. Ý nghĩa của luận văn Đề tài góp phần làm sáng tỏ những quan điểm về đảm bảo chất lượng đào tạo đại học hệ chính quy và thực trạng vấn đề đảm bảo chất lượng ở trường ĐHBL; từ đó đưa ra những giải pháp khả thi, hiệu quả hơn giúp nhà trường ngày càng nâng cao chất lượng đào tạo. Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm nguồn tham khảo cho cán bộ quản lý giáo dục, giảng viên trong tìm hiểu về lĩnh vực hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy ở trường đại học vùng đồng bằng sông Cửu Long. 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm có 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
  15. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC 1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài 1.1.1. Chất lượng đào tạo Chất lượng Từ chất lượng (quality) bắt nguồn từ từ ‘qualis’ trong tiếng Latin, có nghĩa là “loại gì”. Đây là một từ đa nghĩa và nhiều hàm ý, một khái niệm khó nắm bắt (Pfeffer and Coote, 1991). Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng. Bên cạnh sự thay đổi về thời gian thì từ những cách tiếp cận khác nhau cũng dẫn đến những khái niệm khác nhau về chất lượng. Như vậy, chất lượng được xem như là đích tới luôn thay đổi và luôn có tính lịch sử cụ thể; vì vậy xin nêu một số khái niệm tiêu biểu về chất lượng như sau: Viện tiêu chuẩn Anh Quốc (British Standards Institution, viết tắt là BSI) định nghĩa chất lượng là “toàn bộ các đặc trưng cũng như tính chất của một sản phẩm hoặc một dịch vụ giúp nó có khả năng đáp ứng những yêu cầu được xác định rõ hoặc ngầm hiểu” (BSI, 1991). Điều này có nghĩa, chất lượng là tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu người sử dụng. Và cũng có thể nói, chất lượng là cái làm nên phẩm chất, giá trị của sự vật hoặc là “cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác sự vật kia”. Chất lượng là mức độ đáp ứng các yêu cầu của một tập hợp các đặc tính vốn có, trong đó yêu cầu cần được hiểu là các nhu cầu hay mong đợi đã được công bố, ngầm hiểu hay bắt buộc. Theo Từ điển tiếng Việt: “Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật phân biệt nó với sự vật khác, chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật”.
  16. Theo ISO 9000 (năm 2000): “Chất lượng là mức độ mà một tập hợp các đặc trưng vốn có đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng và những người khác có quan tâm”. Theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN – ISO 8402 – 86): Chất lượng của sản phẩm là tổng thể những đặc điểm, những đặc trưng của sản phẩm thể hiện được sự thỏa mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định và phù hợp với công cụ, tên gọi sản phẩm. Theo tiêu chuẩn Việt Nam 5814 – 94: Chất lượng là sự tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể đối tượng có khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn. Chất lượng được hiểu theo khía cạnh (Theo Harvey & Green; 1993) đó là: “Chất lượng tuyệt đối” được hiểu là “sự xuất chúng, tuyệt vời, ưu tú. Xuất sắc; sự hoàn hảo; sự phù hợp, thích hợp; sự thể hiện giá trị; sự biến đổi về chất”. Đó là cái mà hầu hết chúng ta muốn có, và chỉ một số ít có thể có được. “Chất lượng tương đối” dùng để chỉ một số thuộc tính mà người ta gán cho sản phẩm. Theo quan niệm này thì một vật, một sản phẩm hoặc một dịch vụ được xem là có chất lượng khi nó đáp ứng được các mong muốn do người sản xuất định ra và các yêu cầu mà người sử dụng đòi hỏi. Như vậy: “chất lượng tương đối” có hai khía cạnh: Thứ nhất, chất lượng là đạt được mục tiêu (phù hợp với tiêu chuẩn) do người sản xuất đề ra, ở khía cạnh này được xem là “chất lượng bên trong”. Thứ hai, chất lượng được xem là sự thỏa mãn tốt nhất những đòi hỏi của người sử dụng, ở khía cạnh này được xem là “chất lượng bên ngoài". Vậy chất lượng là những thuộc tính phản ánh bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật phân biệt nó với sự vật khác, chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Có thể nhận thấy rằng khái niệm chất lượng là một khái niệm khó xác định và phụ thuộc vào ngữ cảnh. Nó có một phổ nghĩa từ “chuẩn mực” đến “xuất sắc”. “Chuẩn mực có thể được hiểu bằng khái niệm ‘ngưỡng’ tối thiểu mà theo đó hiệu quả của công việc sẽ được đánh giá (Ashcroft & Foreman- Peck, 1996). Trong bối cảnh này, chất lượng đồng nghĩa với hoạt động đánh
  17. giá, được hiểu theo nghĩa nó là tập hợp các tiêu chuẩn dựa trên quy chiếu nhóm chuẩn (norm-referenced standards). Ở phía bên kia của phổ nghĩa là quan điểm xem chất lượng là sự xuất sắc (tương tự như những gì Green và Harvey gọi là vượt trội). Xuất sắc là trạng thái thành tích đặc biệt, vượt trội, không có lỗi và đạt mức hài lòng cao nhất từ các bên có liên quan. Trong giáo dục đại học, mục tiêu của chúng ta là đạt được các “chuẩn mực” và tiến gần hơn về sự “xuất sắc”. Để đánh giá chất lượng của một hoạt động, thông thường người ta so sánh kết quả đạt được với mục tiêu đặt ra. Với cách tiếp cận này, hiệu quả của hoạt động đào tạo cũng cần phải được xem xét trong mối tương quan giữa kết quả và chi phí (theo nghĩa rộng), đồng thời có tính tới hiệu quả xã hội. Hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam, ‘Chất lượng’ được xem là ‘phù hợp với mục tiêu’ – đáp ứng hoặc xác nhận các tiêu chuẩn đã được công nhận nói chung theo định nghĩa của một cơ quan kiểm định chất lượng hoặc một cơ quan đảm bảo chất lượng. Do đó, chất lượng (giáo dục trường đại học) ở Việt Nam được hiểu: Là sự đáp ứng mục tiêu do nhà trường đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu giáo dục đại học của Luật Giáo dục, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước. Chất lượng đào tạo Theo tác giả Nguyễn Minh Đường: “Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ… để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân để tạo điều kiện cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả”. Như vậy, đào tạo là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và quá trình có hệ thống các tri thức, kỹ năng, thái độ một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được một công việc nhất định. Đào tạo là một loại công việc xã hội, một hoạt động đặc trưng của giáo dục (nghĩa rộng) nhằm chuyển giao kinh nghiệm hoạt động từ thế hệ này qua thế hệ khác. Quá trình đào tạo có thể diễn ra trong nhà trường hoặc ngoài cơ sở sản xuất kinh doanh theo
  18. một ngành nghề cụ thể nhằm giúp cho người học đạt được một trình độ nhất định trong lao động nghề nghiệp. Người ta thấy rằng các định nghĩa chất lượng nói chung và chất lượng đào tạo nói riêng luôn được thay đổi theo thời gian. Hiện nay, khái niệm về chất lượng đào tạo còn nhiều điểm khác nhau, do từ “chất lượng” được dùng chung cho cả hai quan niệm: Chất lượng tuyệt đối và chất lượng tương đối. Với quan niệm chất lượng tuyệt đối thì từ “chất lượng” được dùng cho những sản phẩm, những đồ vật hàm chứa trong nó những phẩm chất, những tiêu chuẩn cao nhất khó có thể vượt qua được. Nó được dùng với nghĩa chất lượng cao, hoặc chất lượng hàng đầu. Với quan niệm chất lượng tương đối thì được hiểu theo hai khía cạnh: Thứ nhất là đạt được mục tiêu (phù hợp với tiêu chuẩn) do người sản xuất đề ra, ở khía cạnh này chất lượng được xem là “chất lượng bên trong”. Thứ hai, chất lượng được xem là sự thỏa mãn tốt nhất những đòi hỏi của người tiêu dùng, ở khía cạnh này chất lượng được xem là “chất lượng bên ngoài”. Ở mỗi cơ sở đào tạo luôn có một nhiệm vụ ủy thác, nhiệm vụ này thường do các chủ sở hữu quy định, điều này chi phối mọi hoạt động của nhà trường. Từ nhiệm vụ được ủy thác này, nhà trường xác định các mục tiêu đào tạo của mình sao cho phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội để đạt được “chất lượng bên ngoài”; và các hoạt động của nhà trường sẽ được hướng vào nhằm đạt mục tiêu đào tạo đó, đạt “chất lượng bên trong”. Do đó, hiện nay cũng có nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng đào tạo: Theo tác giả Lê Đức Ngọc và Lâm Quang Thiệp (Đại học quốc gia Hà Nội) chất lượng đào tạo được đánh giá qua mức độ đạt được mục tiêu đào tạo đã đề ra đối với một chương trình đào tạo. Theo tác giả Trần Khánh Đức, chất lượng giáo dục là kết quả của quá trình đào tạo được phản ánh ở các đặc trưng về phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu, chương trình đào tạo theo các ngành nghề cụ thể. Theo cách tiếp cận quản lý chất lượng thì: Chất lượng đào tạo được coi là sự phù hợp và đáp ứng yêu cầu. Chất lượng đào tạo có hai phần: phần cứng
  19. là bộ ba kiến thức, kỹ năng, thái độ người học tiếp thu trong quá trình đào tạo; phần mềm là năng lực sáng tạo và thích ứng. Chất lượng đào tạo phụ thuộc vào ba yếu tố: Hoạch định (thiết kế và xây dựng mục tiêu); Tổ chức đào tạo; Sử dụng; miền chất lượng là vùng giao nhau của ba yếu tố trên; miền chất lượng càng lớn chứng tỏ cơ sở đào tạo đã tổ chức tốt quá trình đào tạo phù hợp với mục tiêu thiết kế ban đầu đạt hiệu quả và có khả năng cạnh tranh với các cơ sở đào tạo khác. Xét dưới góc độ hệ thống các trường đại học, thì chất lượng đào tạo được hiểu là một trong các thành phần đầu ra của các trường đại học, nó được xã hội đặt hàng thông qua luật giáo dục. Xét dưới góc độ trường đại học, chất lượng giáo dục trường đại học là sự đáp ứng mục tiêu do nhà trường đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu giáo dục đại học của luật giáo dục, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và của ngành. Với quan điểm tiếp cận thị trường: “Chất lượng đào tạo là mức độ đạt được so với các chuẩn của mục tiêu đào tạo và mức độ thỏa mãn yêu cầu của khách hàng”. Có thể coi các tiêu chí nêu trên thể hiện nội hàm của khái niệm chất lượng đào tạo, là mục tiêu mà các cơ sở đào tạo cần hướng tới. Và từ quan niệm về chất lượng đào tạo nêu trên, tác giả Trần Khánh Đức cho rằng hệ thống các tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo (sản phẩm đào tạo) tương ứng đối với từng ngành đào tạo nhất định. Từ những phân tích trên, có thể hiểu chất lượng đào tạo chính là sự tổng hòa những phẩm chất và năng lực được tạo nên trong quá trình đào tạo so với thang chuẩn quốc gia của nhà nước hoặc xã hội nhất định. Chất lượng đào tạo ngày nay không chỉ đơn thuần là trình độ, khả năng học tập, rèn luyện ở nhà trường được đánh giá bằng điểm số của các môn thi, môn kiểm tra, mà quan trọng hơn là bằng những kết quả thực tế và bằng hiệu quả sử dụng những phẩm chất và năng lực của sinh viên trong hoạt động thực tiễn ở nhà trường, gia đình và xã hội.
  20. Mặc dù có nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau nhưng có thể khái quát: Chất lượng đào tạo là sự phù hợp với mục tiêu đề ra qua sự đánh giá của người dạy, người học, người quản lý và người sử dụng sản phẩm đào tạo. Chất lượng đào tạo luôn là vấn đề quan trọng nhất của các cơ sở đào tạo, và là mục tiêu mà tất cả các nhà trường cần hướng tới. Việc phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo bao giờ cũng được xem là nhiệm vụ quan trọng nhất trong công tác quản lý của các cơ sở đào tạo nói chung và trường đại học nói riêng. 1.1.2. Đánh giá chất lượng trong giáo dục đại học Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về đánh giá chất lượng trong giáo dục đại học, song nhiều tài liệu thống nhất khái quát về đánh giá chất lượng trong giáo dục đại học: Là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả giáo dục, dựa trên sự phân tích những thông tin thu được đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn, tiêu chí đã đề ra nhằm đề xuất những ý kiến thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo. Do cách tiếp cận khác nhau về đánh giá chất lượng giáo dục đại học, nên hiện có 6 quan điểm (6 cách tiếp cận) tương đối phổ biến hiện nay về đánh giá chất lượng giáo dục đại học đó là: Chất lượng được đánh giá bằng “Đầu vào” Một số nước phương Tây có quan điểm cho rằng “Chất lượng một trường đại học phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng đầu vào của trường đó”. Chất lượng một trường phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng đầu vào (quan điểm nguồn lực). Theo quan điểm này, một trường đại học tuyển được sinh viên giỏi, có đội ngũ cán bộ giảng dạy uy tín, có nguồn tài chính cần thiết để trang bị các phòng thí nghiệm, giảng đường, các thiết bị tốt nhất được xem là trường có chất lượng cao. Quan điểm này đã bỏ qua sự tác động, vai trò của quá trình đào tạo diễn ra rất đa dạng và liên tục trong suốt quá trình đào tạo. Thực tế, theo cách đánh giá này, chỉ dựa vào sự đánh giá “đầu vào” và phỏng đoán chất lượng “đầu ra”. Nó sẽ khó giải thích trường hợp một trường đại học có nguồn lực “đầu vào” dồi dào nhưng chỉ có những hoạt động đào
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2