![](images/graphics/blank.gif)
Luận văn Thạc sĩ Tài chính Ngân hàng: Nghiên cứu nợ công và an toàn nợ công ở Việt Nam
lượt xem 7
download
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/images/down16x21.png)
Mục đích cơ bản của luận văn này là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tình hình nợ công, an toàn nợ công và đánh giá xu hướng nợ công trong thời gian tới, luận văn đề xuất các phương hướng và kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và đảm bảo an toàn nợ công của Việt Nam trong thời gian tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tài chính Ngân hàng: Nghiên cứu nợ công và an toàn nợ công ở Việt Nam
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Nghiên cứu nợ công và an toàn nợ công ở Việt Nam Ngành : Tài chính – Ngân hàng Bảo hiểm Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng Mã số : 60340201 Họ và tên: Phan Thị Phương Dung NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Vũ Thị Thanh Xuân Hà Nội 2017
- 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các đoạn trích dẫn, số liệu sử dụng, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, nguồn gốc trích dẫn rõ ràng, có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi. Hà Nội, ngày … tháng 5 năm 2017 Học viên Phan Thị Phương Dung
- 3 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Chương trình giảng dạy sau đại học Tài chính – Ngân hàng, khoa Sau đại học, các Quý Thầy Cô giáo trường Đại học Ngoại Thương đã giúp tôi trang bị kiến thức, tạo môi trường điều kiện thuận lợi nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn tới TS. Vũ Thị Thanh Xuân đã khuyến khích, chỉ dẫn tận tình cho tôi trong suốt thời gian thực hiện công trình nghiên cứu này. Hà Nội, ngày … tháng 5 năm 2017 Học viên Phan Thị Phương Dung
- 4 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC SƠ ĐỒ HÌNH VẼ BẢNG BIỂU TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
- 5 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT STT Ký hiệu viết tắt Nguyên nghĩa 1 ABD Ngân hàng phát triển Châu Á 2 BTC Bộ Tài chính 3 CPBL Chính phủ bảo lãnh 4 CQĐP Chính quyền địa phương 5 DNNN Doanh nghiệp nhà nước 6 FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài 7 GDP Tổng sản phẩm quốc nội 8 GSO Tổng cục Thống Kê 9 IMF Quỹ tiền tệ quốc tế 10 KBNN Kho bạc Nhà nước 11 KHĐT Kế hoạch và đầu tư 12 NSNN Ngân sách Nhà nước 13 NSTW Ngân sách Trung ương 14 NSĐP Ngân sách địa phương 15 NHNN Ngân hàng Nhà nước Net Present Value 16 NPV (Giá trị hiện tại thuần) 17 ODA Viện trợ phát triển chính thức 18 QLN và TCĐN Quản lý nợ và tài chính đối ngoại 19 TPCP Trái phiếu Chính phủ 20 WB Ngân hàng thế giới 21 WTO Tổ chức thương mại thế giới DANH MỤC BẢNG
- 6 Bảng 1.1. So khái niệm về nợ công theo Luật Quản lý nợ công 2009 với IMF và WB.....9 Bảng 1.2. Tiêu chí đánh giá mức độ bền vững về nợ nước ngoài theo giá trị hiện tại. .16 Bảng 1.3. Mục tiêu quản lý nợ công Việt Nam đến năm 2020.............................21 Bảng 1.4 Một số chỉ tiêu kinh tế của Nhật Bản năm 2011 2016..........................24 Bảng 1.5. Nợ công của Trung Quốc giai đoạn 20052018.....................................27 Bảng 1.6. Một số chỉ tiêu kinh tế của Singapore...................................................28 Bảng 2.1. Tình hình trả nợ vay của chính phủ.......................................................46 Bảng 2.2. Vay và trả nợ vay CPBL năm 20102014...............................................48 Bảng 2.3. Vay và trả nợ vay nước ngoài của quốc gia.........................................49 Bảng 2.4. Nợ công của Việt Nam qua các tiêu chí giám sát an toàn nợ công...........50 Bảng 2.5. Các chỉ tiêu về nợ công nước ngoài của Việt Nam theo đánh giá của IMF giai đoạn 20102015........................................................................................55 Bảng 2.6. Thâm hụt ngân sách loại trừ một số khoản thu không bền vững (%)........59 Bảng 3.1. Dự báo về nợ công Việt Nam của IMF đến năm 2021.........................67
- 7 DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
- 8 TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Theo báo cáo của Bộ Tài chính cho biết đến cuối năm 2016 dư nợ công khoảng 64,73% GDP, dư nợ Chính Phủ khoảng 53,62%. Hai con số này đều đã tiến đến sát ngưỡng nợ không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 54% GDP trong Nghị quyết về kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm giai đoạn 2016 – 2020. Tỷ lệ nợ công tăng rất nhanh, mức tăng trung bình 5 năm qua là 18,4%, gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Còn theo đánh giá của IMF nợ công của Việt Nam dự kiến sẽ đạt khoảng 67,5% trong năm 2021. Rủi ro về nợ bền vững đã tăng lên đặc biệt trong bối cảnh thâm hụt ngân sách chưa được cải thiện. Việc đánh giá toàn diện an toàn nợ công và dự báo nợ công nhằm nhận diện các rủi ro và thách thức trong việc quản lý nợ công trong tương lai và một việc làm hết sức cần thiết. Do vậy, công trình nghiên cứu này nhằm đến các mục tiêu sau đây. Trước hết, nêu ra cơ sở lý luận về nợ công và an toàn nợ công; tổng hợp xem xét nguyên nhân, hậu quả và phản ứng chính sách của một số nước trên thế giới trước các cuộc khủng hoảng nợ công cũng như việc điều hành nợ công an toàn của các nước điển hình từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Tiếp theo, đề tài sẽ tập trung phân tích thực trạng nợ công và đánh giá độ an toàn nợ công của Việt Nam, nghiên cứu các yếu tố rủi ro đe dọa an toàn nợ công. Thứ ba, nghiên cứu thực hiện việc dự báo nợ công Việt Nam trong những năm tiếp theo với những kịch bản kinh tế khác nhau. Cuối cùng, nghiên cứu sẽ đưa ra một số gợi ý chính sách nhằm nâng cao tính minh bạch, khả năng giám sát và quản lý nợ công theo hướng an toàn, bền vững trong tương lai ở Việt Nam.
- 9 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nợ công đã trở thành một trong những vấn đề quan trọng và rất phức tạp trong nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như toàn cầu trong giai đoạn hiện nay. Nền kinh tế thế giới đang phải gánh chịu những món nợ khổng lồ của các chính phủ mà có thể gây ra những tác động tiêu cực. Nhiều nước có mức nợ công rất lớn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc cân đối tài chính và thực hiện các nghĩa vụ trả nợ. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ với những món nợ công đang ngày càng gia tăng. Hiện nay, có nhiều mối lo ngại về nợ công của Việt Nam như cơ cấu vay nợ, cơ chế quản lý, hiệu quả sử dụng và tích lũy trả nợ. Các vấn đề của nợ công và bản thân các mối lo ngại sẽ tạo ra những tác động tiềm tàng mà nếu không được xử lý sẽ gây ra những hệ lụy tiêu cực. Ở Việt Nam những năm vừa qua, hàng năm, ngoài nguồn vốn NSNN phục vụ cho đầu tư phát triển thì nguồn vốn từ vay, nợ của Chính phủ cũng không ngừng tăng lên đáp ứng nhu cầu đầu tư ngày càng cao của xã hội nói chung và của Chính phủ nói riêng. Đây là nguồn vốn quan trọng và chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng số vốn đầu tư hàng năm của nước ta. Ngoài ra, một phần nguồn vay, nợ của Chính phủ được sử dụng để bù đắp thâm hụt ngân sách hàng năm. Vấn đề đặt ra là, không chỉ quan tâm tới việc thu hút nguồn lực mà quan trọng hơn là phải tập trung quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn vay, nợ của Chính phủ, tạo đà cho sự phát triển kinh tế đất nước và trực tiếp hoặc gián tiếp thu hồi vốn để có nguồn thanh toán cho các khoản nợ này. Mặt khác, việc vay, nợ luôn phải đặt trong bối cảnh của sự cân bằng và đảm bảo an ninh tài chính của quốc gia, cần phải luôn có sự đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản nợ công để có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn các cuộc khủng hoảng tài chính. Theo đồng hồ nợ công toàn cầu The Global Debt Clock trên trang Economist.com, tính đến thời điểm hiện tại, nợ công Việt Nam đang là 94,85 tỷ USD, tương đương 45,6% GDP, chia bình quân đầu người là 1.039 USD, mức gia tăng nợ là 9,3% /năm. Còn theo báo cáo của Bộ Tài chính cho biết đến cuối năm 2016 dư nợ công khoảng 64,73% GDP, dư nợ Chính Phủ khoảng 53,62%. Hai con số này đều đã tiến đến sát ngưỡng nợ không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 54% GDP trong Nghị quyết về kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm giai đoạn 2016 – 2020. Nếu xu hướng này vẫn tiếp tục và không có các biện pháp quản lý, kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả, thì có thể nợ công trong thời gian tới sẽ trở nên không an toàn. Thực tế đó đòi hỏi phải nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận, thực tiễn nhằm xác định phân tích rõ hơn tình hình nợ công và an toàn nợ công ở Việt Nam từ đó đưa ra một số đề xuất góp phần giải quyết những mặt hạn chế còn tồn tại, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nợ công ở Việt Nam. Do đó em đã chọn đề tài “Nghiên cứu nợ công và an toàn nợ công ở Việt Nam” cho luận văn của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
- 10 Mặc dù an toàn nợ công ngày càng trở lên cấp thiết đối với các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia nhưng vấn đề này mới chỉ được thảo luận và nghiên cứu ở nước ta trong vài năm gần đây khi mà thông tin về nợ công được công bố. Đặc biệt Luật Quản lý nợ công năm 2009 ra đời có ý nghĩa rõ ràng như một bản “tuyên ngôn” của Việt Nam về sự cấp thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công. Từ đó cho đến nay, giới học giả mới bắt đầu có cơ hội tiếp cận với các thông tin và số liệu về nợ công ở mức tổng thể. Các nghiên cứu về nội dung này có thể kể đến: Rudiger Dornbusch, Mario Draghi (tái bản năm 1996), trong cuốn ‟Public Debt Management: Theory and History, NXB Cambridge University Press đã đề cập đến những vấn đề về các học thuyết về nợ công, nghiên cứu về lịch sử nợ công của một số nước như Mỹ, Anh.., phân tích chính sách liên quan đến nợ công cũng như đưa ra các mô hình nghiên cứu định lượng tính hiệu quả của nợ công… Pablo D'Erasmo, Enrique G. Mendoza, Jing Zhang, (2015), trong bài nghiên cứu “What is a sustainable public debt” tạp chí The National Bureau of economic research đã phân tích để trả lời câu hỏi về nợ công bền vững thông qua ba mô hình nghiên cứu định lượng. Các tác giả cũng áp dụng ba mô hình này để phân tích sự bền vững nợ công ở Hoa Kỳ và Châu Âu gần đây sau cuộc khủng hoảng năm 2008 Bài nghiên cứu số 28 của của Trung tâm Nghiên cứu và Chính sách (VEPR) – Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội (VEPR): “Khủng hoảng nợ công tại một số nền kinh tế trên thế giới – nguyên nhân, diễn biến, hậu quả, biện pháp khác phục và những hàm ý chính sách cho Việt Nam”, tác giả Vũ Minh Long đã tổng hợp lý thuyết cũng những diễn biến và phản ứng chính sách thực tế từ các cuộc khủng hoảng nợ lớn nhất trong lịch sử cũng như cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu gần đây nhằm đưa ra một cái nhìn toàn cảnh về khủng hoảng nợ công. Bên cạnh việc phân tích thực trạng, đánh giá về tình hình cũng như rủi ro nợ công của Việt Nam bài nghiên cứu đưa ra một số gợi ý chính sách giúp cải thiện tình hình nợ công nhằm trách khủng hoảng nợ công mà Việt Nam có thể gặp phải trong thời gian sắp tới. Bài thảo luận chính sách CS10 của VEPR: “Những đặc điểm của Nợ công Việt Nam”, các tác giả đã tổng hợp lý thuyết về nợ công cũng như phân tích các điểm khác biệt trong thống kê về nợ công của Việt Nam so với thông lệ quốc tế, phân tích các đặc điểm của nợ công Việt Nam nhằm đưa ra những tổng kết về bản chất tác động tiêu cực của nợ công. Từ những phân tích đó đưa ra các đề xuất về chính sách nhằm duy trì nợ công ở ngưỡng cho phép để ngăn chặn cuộc khủng hoảng nợ có thể xẩy ra trong tương lai Báo cáo nghiên cứu RS – 05 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam: “Nợ công và tính bền vững ở Việt Nam: Quá khứ, hiện tại và tương lai”, Phạm Thế Anh và các cộng sự đã tổng hợp xem xét nguyên nhân, hậu quả và phản ứng chính sách của Chính phủ các nước trên thế giới trước các khủng hoảng nợ công, tập trung phân tích những tác động tiêu cực làm nợ công tăng nhanh của các biến số vĩ mô quan trọng như thâm hụt tài khóa, tăng trưởng kinh tế, lạm phát, lãi suất, tỉ giá, thâm hụt thương mại…Từ đó đánh giá rủi ro và tính
- 11 bền vững để nhận diện nguy cơ xảy ra khủng hoảng của nợ công Việt Nam hiện nay. Bài nghiên cứu cũng đưa ra một số gợi ý chính sách nhằm nâng cao tính minh bạch, khả năng giám sát và quản lý nợ công theo hướng bền vững trong tương lai ở Việt Nam. Bài nghiên cứu “Tương lai nợ công của Việt Nam: Xu hướng và thử thách”, tác giả Đỗ Thiên Anh Tuấn, trường Đại học Fulbright đã phân tích thực trạng nợ công Việt Nam và đưa ra dự báo về tương lai nợ công của Việt Nam với các kịch bản kinh tế vĩ mô. Trên cơ sở phân tích và dự báo đó, tác giả cũng chỉ ra các thách thức trong dài hạn đối với nợ công của Việt Nam Tuy nhiên ở Việt Nam chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về thực trạng an toàn nợ công, dự báo mức nợ công trong thời gian tới và đề xuất các biện pháp khắc phục khi khủng hoảng nợ công xảy ra. Một số công trình nghiên cứu khoa học và một số tài liệu tham khảo chuyền tải được những vấn đề về học thuật và thực tiễn liên quan đến nợ công, mức an toàn nợ công nhưng còn rời rạc chưa nhất quán. Nhưng với tình hình nợ công đang gia tăng nhanh như hiện nay đòi hỏi phải có cách đánh giá hợp lý, cơ chế quản lý phù hợp, dự báo và giải pháp đúng đắn để nợ công của Việt Nam không nằm ngoài kiểm soát và xảy ra khủng hoảng. Chính vì vậy, đề tài: “Nghiên cứu nợ công và an toàn nợ công của Việt Nam” được phát triển nhằm bổ sung cho các phần nghiên cứu trước cũng như cung cấp cho mọi người một cách nhìn nhận khác về toàn cảnh an toàn nợ công của Việt Nam 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tình hình nợ công, an toàn nợ công và đánh giá xu hướng nợ công trong thời gian tới, luận văn đề xuất các phương hướng và kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và đảm bảo an toàn nợ công của Việt Nam trong thời gian tới, cụ thể: Nghiên cứu cơ sở lý luận về nợ công và an toàn nợ công. Phân tích, đánh giá tình hình nợ công ở Việt Nam từ đó đánh giá thực trạng về an toàn nợ công của Việt Nam. Dự báo xu hướng an toàn nợ công của Việt Nam trong những năm tới. Đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu quản lý nợ công hiệu quả nói chung và đảm bảo toàn nợ công của Việt Nam nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về nợ công và an toàn nợ công. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về nợ công và thực trạng an toàn nợ công của Việt Nam trong giai đoạn từ 2010 – 2015 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài đã sử dụng phương pháp nghiên cứu sau đây Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, bao gồm:
- 12 + Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: Phân tích và tổng hợp các nguồn tài liệu bao gồm các tạp chí và báo cáo khoa học, tác phẩm khoa học, tài liệu lưu trữ thông tin đại chúng về chủ để nợ công và an toàn nợ công. + Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết: Thực hiện phương pháp sắp xếp các tài liệu khoa học thành hệ thống logic chặt chẽ theo từng mặt, từng vấn đề, từ đó hệ thống hóa các văn bản pháp lý về lĩnh vực nợ công và đối chiếu với thực tiễn áp dụng + Phương pháp nghiên cứu lịch sử: được sử dụng để phân tích các tài liệu lý thuyết đã có nhằm phát hiện xu hướng từ đó xây dựng tổng quan về nợ công nói chung và của Việt Nam nói riêng Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn, cụ thể: Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm: nghiên cứu, phân tích và tổng kết những kinh nghiệm của các nước trong điều hành nợ công từ đó đưa ra các bài học kinh nghiệm ứng dụng cho Việt Nam Nhóm các phương pháp toán học, như phương pháp thống kê, so sánh: Xử lý các thông tin định lượng và được trình bày dưới dạng các bảng số liệu, biểu đồ, đồ thị trên cơ sở các nguồn thông tin rời rạc thu được từ những tài liệu nghiên cứu trước đây, các báo cáo về tình hình nợ công từ các phương pháp nghiên cứu khác nhau. Đổng thời xem xét phân tích chỉ tiêu bằng cách so sánh với một chỉ tiêu cơ sở như kế hoạch, số năm trước, chỉ tiêu đề ra làm cho các kết quả nghiên cứu trở nên chính xác, đảm bảo độ tin cậy 6. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục chữ viết tắt, mục lục và các phụ lục, nội dung chính của luận văn được thể hiện ở ba chương sau đây: Chương 1: Lý luận chung về nợ công và an toàn nợ công Chương 2: Thực trạng nợ công và an toàn nợ công của Việt Nam Chương 3: Một số giải pháp nhằm đảm bảo an toàn nợ công của Việt Nam trong thời gian tới
- 13 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỢ CÔNG VÀ AN TOÀN NỢ CÔNG 1.1. Một số vấn đề lý luận về nợ công 1.1.1. Khái niệm nợ công Khái niệm nợ công, cho đến nay vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi, bởi khái niệm nợ công không chỉ mang tính học thuật, mà còn chứa đựng cả ý đồ chính trị kinh tế của những người sử dụng nó. Sự khác biệt giữa các định nghĩa và nợ công chủ yếu xoay quanh hai khía cạnh có mối liên hệ mật thiết với nhau: chủ thể vay nợ và trách nhiệm trả nợ. Việc thống nhất đưa ra một khái niệm chuẩn về nợ công còn tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu của từng tổ chức cũng như thực tiễn hoạt động quản lý nợ công của mỗi quốc gia. Có thể kể đến một số khái niệm về nợ công được đưa ra bởi các tổ chức như sau Theo quan điểm của WB (WB 2000, tr.614) ‘‘Nợ công là toàn bộ những khoản nợ của Chính phủ và những khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh ’’, trong đó: + Nợ của Chính phủ là toàn bộ các khoản nợ trong nước và nước ngoài của Chính phủ và các đại lý của Chính phủ, các tỉnh, thành phố hoặc các tổ chức chính trị trực thuộc Chính phủ và các đại lý của các tổ chức này, các DNNN + Nợ của Chính phủ bảo lãnh là toàn bộ nghĩa vụ trả nợ đối với những khoản nợ trong nước và nước ngoài của khu vực tư nhân do Chính phủ bảo lãnh. Theo quan điểm của IMF (IMF 2013, tr713), ‘‘Nợ công được bao gồm nợ của khu vực tài chính công và nợ khu vực phi tài chính công’’, trong đó: + Nợ của khu vực tài chính công gồm: Nợ của các tổ chức tiền tệ (NHTW, các tổ chức tín dụng Nhà nước) và nợ của các tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín dụng không cho vay mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển). + Nợ của các tổ chức phi tài chính công như: Nợ của Chính phủ, tỉnh, thành phố, tổ chức chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính Nhà nước. Theo hai tổ chức trên (WB và IMF) thì nợ công theo nghĩa rộng là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ nợ của chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do NSNN quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước, và trong trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay). Còn theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được chính phủ bảo lãnh thanh toán. Quan điểm của hai tổ chức này có sự tương đồng quan điểm về nợ công và xác định phạm vi nợ công là tương đối rộng bao gồm cả nợ của DNNN và nợ của NHTW… Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định nợ công gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Một số nước, nợ công còn bao gồm nợ của chính quyền địa phương (Đài Loan, Bungari, Rumani…), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Macedonia…)
- 14 Ở Việt Nam, Luật Quản lý nợ công năm 2009 quy định, nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương, trong đó: + Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. + Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành. Theo Luật quản lý nợ công của Việt Nam phạm vi nợ công của nước ta hiện nay hẹp hơn so với các tổ chức quốc tế. Nợ công không bao gồm (i) nợ của NHNN, DNNN tài chính và phi tài chính và (iii) nợ của tổ chức bảo hiểm va an sinh xã hội. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2010): Riêng các khoản nợ của NHNN không được tính vào nợ công là hợp lý, bởi lẽ theo quy định của Quốc hội (2010), NHNN không có chức năng thực hiện các khoản vay thay Chính phủ và các khoản vay nợ khác có bản chất là nợ công; các khoản vay do phát hành tính phiếu NHNN chỉ là công cụ của chính sách tiền tệ vì mục tiêu điều tiết khối lượng tiền trên thị trường không phải để chi tiêu, không có rủi ro thanh toán vỡ nợ. Chính vì vậy các số liệu thống kê về nợ công do chính phủ Việt Nam công bố thường có sự khác biệt so với số liệu thống kê của các tổ chức quốc tế. Theo quan niệm về nợ công của Việt Nam trước mắt phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của đất nước nhưng khi Việt Nam tham gia vào các hoạt động kinh tế trong thế giới hội nhập, khái niệm nợ công của Việt Nam hiện nay rất khó để đưa ra so sánh và đánh giá với quốc tế. Bảng 1.1. So khái niệm về nợ công theo Luật Quản lý nợ công 2009 với IMF và WB ST Việt Thành phần IMF World Bank T Nam 1 Nợ chính phủ Có Có Có 2 Nợ được chính phủ bảo lãnh Có Có Có 3 Nợ chính quyền địa phương Có Có Có 4 Nợ ngân hàng trung ương Không Có Có Nợ của các tổ chức công nhận Có với điều 5 Không Có tiền gửi từ NHTW kiện Nợ doanh nghiệp công phi tài Có với điều 6 Không Có chính kiện 7 Nợ các tổ chức an sinh xã hội Không Có Có
- 15 Nguồn: Tổng hợp từ WB (2000), IMF (2013) và Luật quản lý nợ công 2009 Ghi chú: Có với điều kiện: Nợ của các tổ chức công tự chủ được tính vào nợ công Ngân sách của tổ chức là do Chính phủ phê duyệt; Chính phủ sở hữu hơn 50% hoặc hơn 50% thành viên ban giám đốc là đại diện cả chính phủ ; Trong trường hợp không trả được nợ, chính phủ phải có trách nhiệm với khoản nợ của doanh nghiệp 1.1.2. Phân loại nợ công Xuất phát từ những tiêu thức khác nhau, nợ công được chia thành nhiều loại khác nhau nhằm thuận tiện cho việc nghiên cứu, đánh giá cũng như quản lý nợ công. Phân loại nợ công có thể xuất phát từ một số tiêu thức sau: 1.1.2.1. Căn cứ và kỳ hạn nợ Nợ ngắn hạn: Là những khoản nợ có thời hạn 1 năm hoặc ngắn hơn. Thời hạn nợ được xác định trên cơ sở thời hạn nợ ban đầu hoặc trên thời hạn nợ còn lại. Khoản nợ này chủ yếu để đáp ứng nhu cầu bù đắp thiếu hụt Ngân sách tạm thời Nợ trung hạn và dài hạn: Là những khoản nợ thời hạn thanh toán từ 1 năm trở lên. Khoản nợ này nhằm phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế. Ý nghĩa của cách phân loại này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý khả năng thanh toán các khoản vay nhằm xác định thời điểm phải thanh toán gốc và lãi trong tương lai để đưa ra các giải pháp bố trí trả nợ phù hợp 1.1.2.2. Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt Nam. Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, nợ nước ngoài không được hiểu là nợ mà bên cho vay là nước ngoài, mà là toàn bộ các khoản nợ công không phải là nợ trong nước Việc phân loại này về mặt thông tin sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Và ở một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ của Nhà nước Việt Nam, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác 1.1.2.3. Căn cứ vào lãi suất vay Nợ có lãi suất cố định: Là những khoản nợ mà chi phí về tiền lãi là không liên kết với các chỉ số tham chiếu, không bị phụ thuộc vào sự biến động của thị trường Nợ có lãi suất thả nổi: Là những khoản vay mà chi phí về tiền lãi của nó kết nối với một chỉ số tham chiếu ví dụ như LIBOR (lãi suất liên ngân hàng của thị trường Luân Đôn), thường thay đổi theo thời gian do sự thay đổi của các điều kiện thị trường. Ý nghĩa của cách phân loại này sẽ giúp cho các nhà quản lý nợ điều hành danh mục nợ dựa trên các dự báo về biến động lãi suất. Qua đó quản lý rủi ro lãi
- 16 suất đối với các khoản nợ có lãi suất thả nổi và các khoản nợ có lãi suất cố định khi có sự biến động lãi suất và khi phát hành khoản nợ mới. 1.1.2.4. Căn cứ vào đồng tiền vay Nợ bằng đồng nội tệ: Là những khoản nợ được vay bằng chính đồng nội tệ của quốc gia đó. Nợ bằng đồng ngoại tệ: Là những khoản nợ được vay bằng các đồng ngoại tệ, có thể vay từ các chủ thể trong nước hoặc nước ngoài Việc phân loại này giúp cho các nhà quản lý nợ cân đối và bố trí nguồn vốn thanh toán trả nợ phù hợp xác định và phòng ngừa rủi ro khi có biến động tỷ giá hối đoái 1.1.2.5. Ngoài ra còn có thể phân chia theo điều kiện vay nợ: Vay ưu đãi và vay không ưu đãi: Vay ưu đãi là khoản vay trong đó yếu tố viện trợ từ 25% trở lên; yếu tố viện trợ của một khoản vay là giá trị cam kết của nó trừ đi giá trị dịch vụ nợ phải thanh toán theo hợp đồng (tính bằng giá trị hiện tại với suất chiết khấu theo thống lệ là 10%) và ngược lại là khoản vay không ưu đãi 1.1.3. Tác động của nợ công đến kinh tế xã hội 1.1.3.1. Tác động tích cực Nợ công đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư đảm bảo an sinh xã hội: Trước yêu cầu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế xã hội, nhu cầu đầu tư vốn là rất cần thiết, đặc biệt với các nước đang phát triển, trong khi nguồn vốn của khu vực tư nhân và dân cư thường phân tán và phụ thuộc vào thu nhập cũng như chi tiêu của các hộ gia đình. Hơn nữa, đầu tư vào các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế, an ninh quốc phòng, an sinh xã hội… đòi hỏi lượng vốn lớn và cần có sự tham gia của khu vực công. Chính vì vậy, chính phủ các nước cần huy động nguồn lực lớn để đầu tư phát triển kinh tế. Những khoản vay của chính phủ đã tạo thêm nguồn lực cần thiết để thúc đẩy sản xuất trong nước và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế; đồng thời, thực hiện các chương trình phúc lợi lớn của Nhà nước. Nợ công góp phần huy động vốn cho bù đắp bội chi Ngân sách Nhà nước: Thông qua vay nợ tạo ra công cụ để điều hòa CSTT và điều tiết thị trường tài chính: chính phủ các nước sử dụng nhiều hình thức vay mượn khác nhau, trong đó việc phát hành TPCP đã góp phần quan trọng tạo thêm công cụ để ổn định và điều hòa lưu thông tiền tệ. Cụ thể, đối với NHTW là người tổ chức và điều hành CSTT sẽ sử dụng việc mua bán TPCP trên thị trường để điều tiết lượng tiền cung ứng thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Qua đó, tạo tính thanh khoản cho TPCP cũng như hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM; đồng thời, các NHTM sử dụng việc mua bán TPCP để giải quyết tình trạng thừa hoặc thiếu vốn trong thanh toán cũng tạo thêm tính thanh khoản cho TPCP. Bên cạnh đó, thị trường trái phiếu cũng làm nơi tạo ra mức lãi suất dài hạn chuẩn cho thị trường tài chính góp phần giúp Nhà nước điều tiết tốt hơn đối với thị trường này, trong đó giúp cho các chủ thể có mức lãi suất tham chiếu chuẩn khi thực hiện đầu tư trên thị trường.
- 17 Góp phần tích cực thúc đấy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: Đối với những khoản nợ nước ngoài sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia vay nợ tiếp cận được nguồn vốn bên ngoài mà không làm giảm đầu tư hay tiêu dùng trong nước. Hơn nữa, khi tiếp cận với nguồn vốn bên ngoài đòi hỏi sự nỗ lực mạnh mẽ việc cải cách trong tương lai về thể chế, môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng… của các nước vay nợ. Ngoài ra, các nước vay nợ có thể tiệm cận đối với máy móc, thiết bị, chuyển giao công nghệ và các kỹ năng quản lý mới. Điều này tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội nhiều hơn để hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. 1.1.3.2. Tác động tiêu cực Tác động đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: Trong trường hợp thâm hụt NSNN được tài trợ bằng nguồn vốn vay trong nước sẽ đẩy mặt bằng lãi suất lên cao, kết quả làm tăng chi phí đầu tư, giảm nhu cầu đầu tư của nền kinh tế và có thể dẫn đến ‘‘hiệu ứng thoái lui đâu từ ’’. Trong trường hợp thâm hụt NSNN được tài trợ bằng nguồn vay nước ngoài, tác động thoái lui đầu tư có thể được hạn chế do giảm căng thẳng về lãi suất. Tuy nhiên, vay nước ngoài lại có thể gây ra sự bất ổn tỷ giá, từ đó, khiến cho hoạt động đầu tư bị sụt giảm, điều này tác động làm suy giảm kinh tế cùng vơi sự gia tăng lãi suất trong nước. Bên cạnh đó, những hậu quả về kinh tế cùng với việc lệ thuộc quá nhiều vào các khoản nợ nước ngoài cũng sẽ làm giảm vị thế chính trị quốc gia. Mặt khác, khi nợ công lên cao phải chịu áp lực to lớn từ phía các chủ nợ và các tổ chức tài chính quốc tế cũng như sức ép về thắt chặt chi tiêu, tăng thuế khóa, giảm trợ cấp xã hội và đi xa hơn nữa là những yêu cầu về cải cách thể chế, thay đổi bộ máy quản lý, thay đổi các định hướng kinh tế… từ đó ảnh hưởng đến ổn định môi trường kinh tế vĩ mô (Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương 2012, tr.36) Nợ công tác động làm tăng lãi suất làm tạo áp lực gây ra lạm phát: Khi chính phủ vay từ công chúng thông qua phát hành công cụ nợ sẽ có xu hướng đẩy mặt bằng lãi suất tăng lên do cầu về vốn của chính phủ trên thị trường tăng lên với cung về vốn không thay đổi. Gia tăng lãi suất sẽ gây áp lực cho chính sách tiền tệ mở rộng và trong ngắn hạn, lãi suất danh nghĩa không tăng mạnh, thậm trí có thể giảm, nhưng trong dài hạn cả lạm phát và lãi suất danh nghĩa cũng tăng theo cùng với sự gia tăng cung tiền. Hơn nữa, nếu chính được mở rộng để tài trợ cho các khoản chi tiêu tất yếu là lạm phát xảy ra. Nợ công tác động đến tỷ giả và thâm hụt thương mại: Trong ngắn hạn, khi vay nợ nước ngoài khiến dòng ngoại tệ chảy vào trong nước sẽ gây sức ép lên cân đối ngoại tệ đó là có thể gây tăng giá đồng nội tệ. Khi nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ sẽ khuyến khích nhập khẩu và có nguy cơ làm giảm xuất khẩu ròng. Điều này khiến cho tình trạng nhập siêu ngày càng gia tăng và đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới thâm hụt thương mại tăng mạnh. Trong trung và dài hạn, việc chính phủ phải cân đối nguồn ngoại tệ trả nợ gốc và lãi sẽ đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng cao. Do đó, tỷ giá có tăng cao sẽ làm chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, càng làm tăng nguy cơ vỡ nợ nếu như quy mô nợ vượt quá
- 18 sức chịu đựng của NSNN. Việc tăng chi tiêu chính phủ dẫn tới thâm hụt NSNN, nợ công tăng và nhập siêu cùng một lúc được coi là tình trạng ‘‘thâm hụt kép’’. Nợ công quá lớn tiềm ẩn gây ra cuộc khủng hoảng nợ: Khi nợ công quá cao tức là chính phủ đi vay nhiều hơn khiến mặt bằng lãi suất có xu hướng tăng lên cùng với lạm phát cao, điều này khiến cho đồng nội tệ tăng giá dẫn đến nhập siêu tăng. Tuy nhiên, lạm phát cao lại khiến cho đồng nội tệ mất giá, trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, nguy cơ bị mất giá của đồng nội tệ dẫn tới dự trữ ngoại tệ trong nước giảm mạnh. Với tình trạng này cứ tiếp diễn lâu dài, khi nguồn dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, buộc chính phủ phải phá giá tiền tệ hay nói cách khác đây chính là nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tiền tệ. Tạo gánh nặng nợ công lên thế hệ tương lai: Có thể nhận thấy rằng, các khoản nợ công, đặc biệt là nợ nước ngoài được sử dụng để tài trợ cho chi tiêu hiện tại nhưng chắc chắn thế hệ tương lai sẽ phải chi trả vì mức độ tiêu dùng của họ bị giảm bằng khoản tiền vay cộng với lãi tích lũy. Sự sụt giảm thu nhập nguyên nhân là do thế hệ tương lai buộc phải đóng thuế cao hơn để trả lãi cho các khoản nợ và giảm trợ cấp của chính phủ. Thế hệ tương lai cũng phải chịu đựng sự sụt giảm về chất lượng cuộc sống do những hệ quả của nợ công gây ra như lãi suất tăng, đầu tư tư nhân giảm, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, cơ hội việc làm cũng như thu nhập của dân cư giảm. 1.2. An toàn nợ công 1.2.1. Khái niệm chung về an toàn nợ công Khái niệm về an toàn của việc vay nợ công hay tính bền vững của nợ công được Cơ quan Phát triển Quốc tế (IDA) (thuộc Ngân hàng Thế giới) và Quỹ tiền tệ Quốc tế sử dụng là ‘‘Tính bền vững nợ là khái niệm dùng để chỉ trạng thái nợ của một quốc gia tại đó nước vay nợ có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ trả nợ cả vốn gốc lẫn lãi – một cách đầy đủ, không phải nhờ đến biện pháp miễn giảm hoặc cơ cấu lại nợ nào, cũng như không bị tình trạng tích tụ các khoản nợ chậm trả, đồng thời vẫn cho phép nền kinh tế đạt một tỷ lệ tăng trưởng chấp nhận được’’. Mặt khác cũng có thể hiểu khái niệm an toàn nợ công thông qua định nghĩa về khủng hoảng nợ công. Theo định nghĩa của Manasse, Roubini và Schimmelpfennig (2003): “Một quốc gia được cho là khủng hoảng về nợ công nếu bị Standard & Poor’s xếp hạng là vỡ nợ, hoặc được nhận một khoản vay không ưu đãi lớn của IMF”. Mở rộng ra, khái niệm an toàn nợ công có thể hiểu là việc vay nợ công vẫn được quốc gia đảm bảo trả nợ gốc và lãi theo định kỳ như trong cam kết hợp đồng vay trả và việc trả nợ nằm trong tầm kiểm soát chi trả của một quốc gia 1.2.2. Lý thuyết kinh tế vĩ mô về an toàn nợ công Xuất phát từ cân bằng ngân sách của chính phủ, cụ thể chi tiêu của chính phủ cộng với chi phí trả nợ hiện tại bằng doanh thu thuế hiện tại cộng với nợ mới phát hành. Được thể hiện qua công thức: Gt +(1+ it) Bt1 = Tt + Bt,(*), trong đó: (1) t: giai đoạn t; (2) Gt: chi tiêu của chính phủ ; (3) it: lãi suất trái phiếu chính phủ; (4) Tt: Thu ngân sách; (5) Bt: phát hành nợ của chính phủ
- 19 Chia cả 2 vế của phương trình (*) cho GDP và biến đổi, ta có phương trình dt + bt 1=bt (**), trong đó: dt = gt tt dt: tỷ lệ thâm hụt ngân sách cơ bản trên GDP. gt: Tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên GDP tt: Tỷ lệ thu thuế trên GDP it: lãi suất trái phiếu chính phủ bt1, bt:: Tỷ lệ nợ cũ và nợ mới phát hành trên GDP yt: Tốc độ tăng trưởng GDP Phương trình (**) cho thấy yêu cầu về ràng buộc về nợ an toàn để đảm bảo đẳng thức của phương trình cân bằng ngân sách cơ bản luôn xẩy ra. Đó là giá trị hiện tại của thặng dư ngân sách phải lớn hơn hoặc bằng giá trị hiện tại của khoản nợ công ban đầu thì nợ. Nghĩa là nếu ngân sách đang thâm hụt và nợ công là một số dương thì ngân sách tương lai buộc phải thặng dư mới đảm bảo an toàn nợ công. Tuy nhiên, yêu cầu này khá lỏng lẻo. Bởi lý thuyết đưa ra nợ công sẽ bền vững miễn là tốc độ tăng nợ công nhỏ hơn lãi suất thực của khoản nợ công mới tăng thêm này. Mà trên thực tế có những trường hợp cam kết thặng dư ngân sách tương lai thiếu tin cậy (ví dụ giảm chi) và không hiệu quả (ví dụ tăng thu) (Vũ Thành Tự Anh, 2012, tr.3) 1.2.3. Đánh giá an toàn nợ công 1.2.3.1. Đánh giá an toàn nợ nước ngoài qua các ngưỡng của IMF, WB Theo WB và IMF trong khuôn khổ toàn diện đánh giá bền vững nợ (Debt Sustainability Analysis Framework DSF) của các nước thu nhập thấp, tháng 4 năm 2005 có đưa ra tiêu chí đánh giá an toàn nợ công đối với các quốc gia có thu nhập thấp dựa vào Nghĩa vụ nợ (Debt service) và Khối lượng nợ (Debt stock). Khối lượng nợ có thể được đo lường bằng giá trị danh nghĩa hoặc giá trị hiện tại của nợ. Theo hướng dẫn thì không có hạn mức an toàn chung cho các nước với điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị khác nhau. Các tiêu chí đánh giá mức độ an toàn của nợ công phụ thuộc vào chất lượng thể chế và năng lực chính sách của mỗi nước. Nợ công được phân loại theo ba nhóm, những nước có chất lượng thể chế và chính sách tốt có thể duy trì chỉ số nợ cao hơn những nước có chất lượng thể chế kém hơn Bảng 1.2. Tiêu chí đánh giá mức độ bền vững về nợ nước ngoài theo giá trị hiện tại Gánh nặng nợ theo tiêu chí DSF Chỉ số Chất NPV của lượng thể Nghĩa vụ nợ (%) nợ (%) chế, chính Thu Xuất Thu sách Xuất khẩu GDP ngânsách khẩu Ngân sách Yếu 100 30 200 15 20 Trung bình 150 40 250 20 25 Mạnh 200 50 300 25 35
- 20 Nguồn: A Guide to LIC DSA của IMF và WB Giá trị hiện tại ròng (NPV) của tổng nợ là giá trị tính bằng đồng tiền hiện tại của dòng tiền trả nợ (bao gồm vốn gốc và nợ lãi) phải trả trong tương lai. Tỷ lệ NPV của nợ/xuất khẩu: đo lường hiện giá thuần của nợ liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia từ nguồn thu xuất khẩu. Tỷ lệ GDP của nợ/GDP: đo lường hiện giá thuần của nợ trên tổng thu nhập quốc nội. Tỷ lệ NPV của nợ/thu ngân sách: đo lường hiện giá thuần của nợ liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ nguồn thu NSNN. Tuy nhiên chỉ tiêu thứ hai chỉ được sử dụng nếu như đáp ứng đáp ứng hai điều kiện: Tỷ lệ xuất khẩu/GDP ≥ 30% và Tỷ lệ thu NSNN/GDP ≥ 15% Nghĩa vụ nợ/xuất khẩu và Nghĩa vụ nợ/thu ngân sách: là những chỉ tiêu đo lường tính lỏng được WB và IMF đưa vào để đánh giá mức độ bền vững của nợ công. Nghĩa vụ nợ/xuất khẩu đo lường khả năng thanh toán nghĩa vụ nợ từ nguồn thu xuất khẩu còn nghĩa vụ nợ/thu ngân sách đo lường khả năng thanh toán nghĩa vụ nợ từ nguồn thu NSNN. Một quốc gia đảm bảo tính lỏng thì nghĩa vụ nợ/xuất khẩu ˂ 15% và nghĩa vụ nợ/thu NSNN ˂ 10%. Ngoài những chỉ số cơ bản để kiểm soát mức nợ nói trên, người ta còn sử dụng những chỉ số khác nhau để phản ánh khía cạnh khác nhau của tình trạng nợ. Chẳng hạn, tỷ số giữa dự trữ ngoại hối trên tổng nợ là chỉ số thể hiện khả năng trả nợ của một nước bằng dự trữ ngoại hối của mình. Như vậy, mỗi chỉ số thể hiện một khía cạnh khác nhau mức độ nợ nần của một nước. Để đánh giá mức độ nợ và khả năng trả nợ của một nước phải xem xét tất cả các chỉ số trong mối quan hệ với nhau. Có thể xảy ra trường hợp các chỉ số nợ không cùng nằm trong một mức nhất định mà nằm trong các mức khác nhau. Trong trường hợp đó phải xem xét lại nguyên nhân của sự không thống nhất đó. Tuy nhiên chỉ số nợ so với GDP có thể là chỉ số quan trọng nhất vì nó thể hiện khả năng trả nợ lâu dài của nền kinh tế, chỉ số nợ trên giá trị xuất khẩu phản ánh được khả năng tạo nguồn trả nợ trong ngắn hạn. Do đó, việc phân tích an toàn nợ cần xem xét xu hướng của các chỉ số nợ trong một khoảng thời gian. 1.2.3.2. Các tiêu chí giám sát an toàn nợ công của Việt Nam Theo Luật Quản lý nợ công và Thông tư số 56/2011/TTBTC, hệ thống chỉ tiêu giám sát nợ bao gồm những chỉ số tổng hợp phản ánh mức độ nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia, khả năng thanh toán nợ trong quan hệ so sánh với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô các tiêu chí giám sát an toàn nợ công bao gồm các chỉ tiêu về giám sát nợ công, nợ ngước ngoài của quốc gia, giám sát nợ quá hạn, cơ cấu kỳ hạn và lãi suất, đánh giá hiệu quả công tác quản lý nợ. Dưới đây là mô tả một số chỉ tiêu giám sát nợ
![](images/graphics/blank.gif)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Công tác quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Maritime Bank) - Thực trạng và giải pháp
122 p |
78 |
20
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng cá nhân sử dụng dịch vụ Smart Banking tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh
127 p |
25 |
13
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Tác động của cấu trúc vốn đến hiệu quả tài chính của những doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu niêm yết tại Việt Nam
131 p |
65 |
12
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định gửi tiền tiết kiệm của khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Sơn Tây
106 p |
51 |
12
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính - Ngân hàng: Nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Vĩnh Phúc
110 p |
33 |
12
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính - Ngân hàng: Cơ chế tự chủ tài chính tại Văn phòng Sở Tài chính tỉnh Hà Tĩnh
121 p |
99 |
11
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Các nhân tố tác động đến khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
114 p |
57 |
10
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam
92 p |
27 |
10
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Tác động của quy mô ngân hàng, rủi ro tài trợ và rủi ro tín dụng đến sự ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam
82 p |
31 |
9
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính - Ngân hàng: Hiệu ứng củа chính sách miễn giảm phí lên dịch vụ thаnh toán cho khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nаm - Chi nhánh Sở giаo dịch
114 p |
58 |
9
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Các nhân tố tác động đến tỷ suất sinh lời của các doanh nghiệp ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
78 p |
26 |
8
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính - Ngân hàng: Xử lý nợ xấu đã mua của các Tổ chức tín dụng tại Công ty Quản lý Tài sản
113 p |
116 |
8
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính Ngân hàng: Phát triển hoạt động cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hành Chính sách xã hội Chi nhánh Hà Nội
115 p |
86 |
7
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Tác động của quy mô đến mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong giai đoạn 2011-2021
91 p |
23 |
7
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Các nhân tố tác động đến tỷ lệ an toàn vốn của các Ngân hàng Thương mại niêm yết tại Việt Nam
98 p |
44 |
7
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ an toàn vốn của các Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam
95 p |
18 |
6
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Tác động của cạnh tranh và tập trung ngành đến ổn định ngân hàng nghiên cứu tại Việt Nam
118 p |
44 |
6
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính - Ngân hàng: Quản lý tài chính tại Văn phòng Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
85 p |
91 |
5
![](images/icons/closefanbox.gif)
![](images/icons/closefanbox.gif)
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/js/fancybox2/source/ajax_loader.gif)