Luận văn Thạc sĩ Văn học: Phóng sự Việt Nam 1932-1945 nhìn từ sự vận động của thể loại
lượt xem 4
download
Mục đích của đề tài là tìm hiểu về thể loại phóng sự Việt Nam 1932 - 1945 dưới góc độ sự vận động của thể loại phóng sự trong nền văn học dân tộc. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Phóng sự Việt Nam 1932-1945 nhìn từ sự vận động của thể loại
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐINH PHƯƠNG OANH PHÓNG SỰ VIỆT NAM 1932 – 1945 NHÌN TỪ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC Hà Nội - 2009
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐINH PHƯƠNG OANH PHÓNG SỰ VIỆT NAM 1932 – 1945 NHÌN TỪ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA THỂ LOẠI CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ : 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN : PGS.TS HÀ VĂN ĐỨC Hà Nội - 2009
- MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………… 4 1. Lí do chọn đề tài.................................................................................... 4 2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu.......................................... 4 3. Lịch sử vấn đề....................................................................................... 5 3.1. Giai đoạn 1932 - 1945………………………………………............ 5 3.2. Giai đoạn 1945 - 1985…………………………………………......... 9 3. 3. Giai đoạn từ 1986 đến nay………………………………................. 11 4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................... 12 5. Kết cấu của luận văn............................................................................ 12 PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………......... 13 CHƯƠNG1: THỂ LOẠI PHÓNG SỰ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA THỂ LOẠI PHÓNG SỰ Ở VIỆT NAM 1932 – 1945... 13 1.1. Những vấn đề lý luận chung về thể loại phóng sự............................ 13 1.1.1. Nguồn gốc của thể loại phóng sự...................................................... 13 1.1.2. Những quan điểm khác nhau về thể loại phóng sự……………… 15 1.2. Quá trình hình thành và phát triển của phóng sự Việt Nam 1932 - 1945………………………………………………………………………. 18 1.2.1. Quá trình hình thành phóng sự ở Việt Nam 1932 – 1945…………. 18 1.2.2. Các giai đoạn phát triển của phóng sự Việt Nam 1932 – 1945…… 19 1.3. Đặc điểm của phóng sự Việt Nam 1932 – 1945……………………. 22 1.3.1. Phóng sự Việt nam 1932 - 1945 - một thể loại văn học mới trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.................................................................. 22 1.3.2. Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945 là một thể loại văn chương đặc biệt…........................................................................................................... 24 1
- CHƯƠNG 2: SỰ VẬN ĐỘNG TRONG NỘI DUNG CỦA THỂ LOẠI PHÓNG SỰ 1932 – 1945……………………………………………………… 31 2.1. Những vấn đề xã hội nóng bỏng diễn ra ở các đô thị lớn................. 31 2.1.1. Thực trạng phân hóa xã hội sâu sắc ở các đô thị lớn....................... 31 2.1.2. Các tệ nạn xã hội đang diễn ra ở các đô thị lớn và những hệ lụy của nó.......................................................................................................... 36 2.2. Phóng sự về đời sống sinh hoạt văn hóa xã hội ở các vùng thôn quê............................................................................................................... 43 2.2.1. Hoàn cảnh bùn lầy nước đọng và cuộc sống khổ cực của người dân thôn quê................................................................................................ 43 2.2.2. Những phong tục, tập quán, và văn hóa tín ngưỡng ở các làng quê Việt Nam ..................................................................................................... 48 2.3. Phóng sự về những nét đẹp văn hóa và danh lam thắng cảnh của đất nước ……………………………………………………...................... 54 2.4. Phóng sự điều tra về sự hà khắc ở các nhà tù thực dân …………... 59 CHƯƠNG 3: SỰ VẬN ĐỘNG TRONG NGHỆ THUẬT CỦA PHÓNG SỰ VIỆT NAM 1932 – 1945……………………………….............................. 63 3.1. Phương thức tiếp cận đối tượng và phản ánh hiện thực.................. 63 3.1.1. Tiếp cận hiện thực từ những điểm nhìn đặc biệt............................... 63 3.1.2. Tiếp cận hiện thực từ những tư liệu xác thực để tạo niềm tin cho độc giả......................................................................................................... 66 3.1.3. Sự xuất hiện của cái tôi nhân chứng, trần thuật thẩm định và cảm xúc nội tâm................................................................................................... 70 3.2. Phương thức tổ chức tình huống, dẫn dắt tình tiết sự ...................... 73 3.3. Nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ trong phóng sự 1932 - 1945........................................................................................................... 76 3.3.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ........................................................... 76 2
- 3.3.2. Nghệ thuật châm biếm độc đáo......................................................... 83 3.4. Sự giao thoa giữa phóng sự và tiểu thuyết – một đặc trưng nổi bật trong sự vận động của phóng sự 1932 – 1945........................................... 87 KẾT LUẬN................................................................................................ 92 THƯ MỤC THAM KHẢO....................................................................... 94 3
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX văn học Việt Nam bước vào công cuộc hiện đại hóa. Do ảnh hưởng của văn hóa, văn học phương Tây, văn học nước ta đã dần thoát ra khỏi những ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, cũng như những quan điểm, hệ thống thi pháp phong kiến để hòa nhập với sự phát triển chung của văn học thế giới. Trong quá trình hiện đại hóa văn học, cùng với các thể loại như thơ, tiểu thuyết..., thể loại phóng sự hình thành và đã không ngừng vận động góp phần quan trọng làm nên “một thời đại” rực rỡ của văn học Việt Nam. Cũng như phong trào Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, những năm 1930 phóng sự ra đời và được coi là một thể loại văn học đặc sắc, hiện đại. Sự ra đời của phóng sự không chỉ đáp ứng được nhu cầu nhận thức về hiện thực xã hội Việt Nam những năm 1930 – 1945 mà còn đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của công chúng mới. Với những ưu thế riêng của thể loại, phóng sự đã nhanh chóng đến với công chúng, và được đông đảo công chúng đón nhận. Thể loại phóng sự đã có những đóng góp tích cực trong đời sống xã hội và phát huy được một cách hiệu quả những thế mạnh riêng của mình. Với một đội ngũ nhà văn đông đảo, tài năng, và nhiệt huyết, thể loại phóng sự Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, phát triển và hoàn thiện cả về nội dung và hình thức. Trên cơ sở những thành tựu cũng như những đóng góp của phóng sự trong nền văn học dân tộc, nhiều nhà nghiên cứu đã dành cho phóng sự 1932 - 1945 một sự quan tâm đặc biệt. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về phóng sự có giá trị ra đời. Tuy nhiên hầu hết các công trình nghiên cứu mới chỉ quan tâm tới đặc điểm của phóng sự 1932 - 1945 cũng như vấn đề thể loại trong phóng sự 1932 - 1945, mà chưa đi sâu nghiên cứu về quá trình vận động của phóng sự 1932 - 1945 trong sự vận động chung của nền văn học dân tộc. Nối tiếp những công trình nghiên cứu về thể loại phóng sự của những người đi trước, người viết 4
- muốn bổ sung thêm một khía cạnh nghiên cứu mới về phóng sự 1932 - 1945 đó là tìm hiểu về phóng sự 1932 - 1945 trên cơ sở nghiên cứu sự vận động của thể loại phóng sự. 2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Mục đích là tìm hiểu về thể loại phóng sự Việt Nam 1932 - 1945 dưới góc độ sự vận động của thể loại phóng sự trong nền văn học dân tộc - Đối tượng nghiên cứu: thể loại phóng sự và phóng sự Việt Nam 1932 - 1945 - Phạm vi nghiên cứu: + Khái niệm phóng sự và một số quan điểm về phóng sự ở Việt Nam và trên thế giới + Những chặng đường phát triển và sự vận động về nội dung và nghệ thuật của thể loại phóng sự giai đoạn 1932 – 1945 trong nền văn học dân tộc. 3. Lịch sử vấn đề 3.1. Giai đoạn trước 1945 Trước những năm 1930 trong làng văn học và báo chí Việt Nam đã xuất hiện những tác phẩm được coi là nền móng của phóng sự như một số tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Nguyễn Trọng Thuật…, nhưng phải đến năm 1932 sau khi Tôi kéo xe của Tam Lang được đăng trên Hà Thành ngọ báo (6/1932) thì thể loại phóng sự Việt Nam mới chính thức xuất hiện và phát triển. Ngay sau khi Tôi kéo xe xuất hiện, tác phẩm đã tạo được một sự chú ý đặc biệt và được dư luận rất hoan nghênh. Tuy nhiên, do giai đoạn 1932 – 1945 là giai đoạn đầu tiên đánh dấu sự ra đời của phóng sự nên các công trình đề cập đến phóng sự giai đoạn này chủ yếu tập trung vào những tác giả và tác phẩm cụ thể tiêu biểu. Công trình nghiên cứu phê bình đầu tiên về thể loại phóng sự 1932 – 1945 là bài viết của Hoài Thanh in trên Tiểu thuyết thứ bảy, số 74 ra ngày 26 tháng 10 năm 1935. Trong bài viết của mình Hoài Thanh đã đưa ra những lời 5
- khen ngợi những thành công mà Tam Lang đã đạt được trong phóng sự Tôi kéo xe: “Nếu trong bao nhiêu người xem thiên phóng sự này, mà có một người nhân đó mà để ý đến cái thế giới u ám của người kéo xe, biết động lòng trắc ẩn vì người kéo xe, biết nới tay ra một tý trong lúc đi xe thì cái việc ông Tam Lang đã làm là việc có ích rồi… Điều cần nhất cho một người phóng viên là biết nghe, biết nhìn, biết tìm cái đáng tìm và biết gợi những câu chuyện đáng nghe, biết quan sát vậy. Biết quan sát, rồi lại biết biểu diễn những điều quan sát được thành câu văn. Ông Tam Lang có những tư cách ấy. Người ta thường khen ngợi ngòi bút tả chân của ông thực không quá đáng” [65; 83]. Không chỉ có Hoài Thanh ca ngợi Tôi kéo xe của Tam Lang mà, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cũng khẳng định: “Tôi kéo xe là một quyển phóng sự có giá trị” [79; 562]. Giá trị của Tôi kéo xe không chỉ dừng lại ở việc đây là tác phẩm mở đầu cho sự ra đời của thể loại phóng sự Việt Nam mà còn là một tác phẩm thể hiện lối viết “tả chân” rất sắc sảo của Tam Lang. Vũ Ngọc Phan đã nhận định: “Dù ở tác phẩm nào của Tam Lang, người ta cũng thấy cây bút của ông là cây bút tả chân và châm biếm; ông nhạo đời để răn đời, chứ không bao giờ có giọng độc ác. Bởi vậy, nếu xét kỹ, người ta sẽ thấy trong những tập phóng sự và những tập châm biếm, trào phúng trên này những tư tưởng thật là bác ái, bao giờ cũng có cái khuynh hướng bênh vực hạng người nghèo khổ, kém hèn, mà bênh vực vì lẽ phải, vì nhân đạo, chứ không xen lẫn một ý nghĩ chính trị nào” [79; 505]. Nối tiếp là Vũ Trọng Phụng - nhà văn được bậc khai quốc thể phóng sự hiện đại Tam Lang ghi nhận là đã vượt lên và tiến xa trên nhiều phương diện. Điều đáng nói là các phóng sự của Vũ Trọng Phụng nói chung đều nằm trọn vẹn trong thập kỷ ba mươi với các nhan sách nổi tiếng như Cạm bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy, cơm cô, Lục xì (1937), Một huyện ăn tết (1938)... Sự xuất hiện của Vũ Trọng Phụng đã gây được tiếng vang lớn trong văn 6
- đàn lúc bấy giờ. Lan Khai kể rằng: “Trên các tờ Ngọ báo, Nhật tân và trên nhiều báo khác, người ta bắt đầu đọc các truyện ngắn, phóng sự, truyện dài do anh viết. Cái tên Vũ Trọng Phụng đã ra đời lừng lẫy trong chớp mắt” [72; 153]. Song song với những lời ngợi ca Vũ Trọng Phụng là sự chê trách, công kích, lên án dữ dội lối văn chương của ông. Tiêu biểu là luồng ý kiến của Thái Phỉ, Nhất Chi Mai với tác giả Lục xì và những người bênh vực ông. Trên tờ Tin văn (5/1936), Thái Phỉ lên án loại văn sĩ “viện cái chủ nghĩa tả chân” để tả cái dâm uế một cách táo bạo. Còn Nhất Chi Mai trong bài Ý kiến của một người đọc: Dâm hay không dâm đăng trên báo Ngày nay số 51, ngày 14/3/1937 đã đả kích đích danh nhà văn Vũ Trọng Phụng “tác giả thiên phóng sự Lục xì ở báo Tương Lai”[72; 138]. Nhất Chi Mai đã tỏ thái độ phẫn uất “Đọc văn Vũ Trọng Phụng, thực không bao giờ tôi thấy một tia hi vọng, một tư tưởng lạc quan. Đọc xong ta phải tưởng tượng nhân gian là một nơi địa ngục và chung quanh toàn kẻ giết người, làm đĩ, ăn tục nói càn, một thế giới khốn nạn vô cùng. Phải chăng đó là tấm gương phản chiếu tính tình, tư tưởng của nhà văn, một nhà văn nhìn thế gian qua cặp kính đen, có một bộ óc đen và một nguồn văn càng đen” [72; 139]. Vũ Trọng Phụng đã dùng hai bài văn bút chiến: “Thư ngỏ cho ông Thái Phỉ, chủ bút báo Tin văn về bài “Văn chương dân uế” ”đăng ở Hà Nội báo (29/3/1936) và bài “Để đáp lời báo ngày nay: Dâm hay không dâm” đăng trên báo Tương lai (25/3/1937) để thẳng thắn bác lại ý kiến của Thái Phỉ và Nhất Chi Mai đồng thời khẳng định quan niệm văn chương tiến bộ của mình. Ông khẳng định: “các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thật ở đời…các ông muốn tiểu thuyết tùy thời, chỉ nói đến cái gì thiên hạ thích nghe nhất là sự giả dối. chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thật…” [51; 919] Sau cái chết của Vũ Trọng Phụng, rất nhiều những lời ngợi ca của các nhà văn cùng thời như Ngô Tất Tố, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân, Trương Tửu…ca 7
- ngợi về văn tài và đức sáng của Vũ Trọng Phụng. Nhà phê bình Trương Tửu đã phân tích sâu sắc những giá trị tư tưởng và nghệ thuật mang đầy tính nghịch lý trong mạch văn phóng sự của họ Vũ: "Ông làm phóng sự về con bạc, làm phóng sự về đầy tớ, làm phóng sự về gái điếm, làm phóng sự về me tây. Ông viết ra bốn quyển kiệt tác: Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô, Lục xì, Kỹ nghệ lấy Tây - nền móng đầu tiên của nghệ thuật phóng sự trong văn giới Việt Nam hiện đại. Viết bốn quyển ấy, ông muốn lột trần cái hạ đẳng của xã hội. Trong các trang giấy đó, không có sự khinh bỉ, không có lòng thương hại, không có ác ý mỉa mai. Ngòi bút ông thật là khách quan và vô tư. Ông sợ cái đời hạ đẳng ấy. Cái sợ này rất chính đáng. Ông đã thừa biết bọn người khốn nạn kia không bao giờ chờ được ở xã hội một cứu tế thiết thực. Đó là hạng người muốn tiêu trừ hơn là cứu vớt. Rơi xuống cái đẳng cấp ấy tức là trầm luân mãn kiếp và bị diệt vong... không để lại tiếng vang nào". Đặc biệt Tam Lang đã chân thành đánh giá cao tài năng của Vũ Trọng Phụng: “Đọc những thiên phóng sự ấy, tôi nhận thấy rằng Vũ Trọng Phụng, về mặt phóng sự - một lối văn do tôi khởi xướng ra đầu tiên - đã bỏ xa tôi lắm” [72; 33]. Bên cạnh Tam Lang (bậc khai quốc thể phóng sự hiện đại), Vũ Trọng Phụng (người đưa phóng sự Việt Nam 1932 – 1945 lên đỉnh cao), giai đoạn này còn đánh dấu sự xuất hiện của nhiều cây bút phóng sự xuất sắc như: Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Nguyễn Đình Lạp, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân… Trong đó tác giả Trọng Lang được đánh giá là cây bút viết phóng sự sớm và chuyên nhất với thể văn này trong một thời gian dài. Ngô Tất Tố được đánh giá là nhà phóng sự xuất sắc viết về đề tài nông dân và làng cảnh thôn quê trước Cách mạng. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan từng khái quát ý nghĩa sáng tác của Trọng Lang đồng thời ca ngợi những trang viết về đề tài nông thôn Việt Nam của Ngô Tất Tố: “Trong số các nhà văn viết phóng sự gần đây, Trọng Lang có óc phê bình hơn cả. Văn ông đanh thép và sắc cạnh, chuyên về tả cảnh nhiều hơn tả tình... Muốn hiểu tâm hồn 8
- những hạng dân quê đã bị “lây” ít nhiều thói tỉnh thành, phải đọc những phóng sự của Trọng Lang; nhưng muốn hiểu tâm hồn những người dân quê còn đặc quê mùa, cần phải đọc những tập phóng sự và tiểu thuyết phóng sự của Ngô Tất Tố” [79; 545]. Có thể thấy rằng trong giai đoạn 1932 - 1945, nhìn chung giới nghiên cứu mới chỉ tập trung vào một số ngòi bút nổi bật như Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố…với các bài viết nhỏ lẻ chứ chưa đi sâu vào những nghiên cứu tổng thể khái quát về thể loại phóng sự. Sự khen chê của các nhà phê bình mới chỉ ở mức độ cảm tính, chưa có luận cứ xác đáng. Các phóng sự mới chỉ được in nhiều kỳ hoặc một kỳ lẻ tẻ trên các báo mà chưa được sưu tầm, giới thiệu một cách tổng thể. 3.2. Giai đoạn 1945 - 1985 Sau 1945, cùng với những biến động của lịch sử dân tộc, văn học có những bước chuyển mới về chức năng và nhiệm vụ. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của văn học giai đoạn này đó là phục vụ cách mạng và cổ vũ kháng chiến. Trước những nhiệm vụ cao cả của thời đại, mảng nghiên cứu về văn học trước cách mạng cũng không được chú ý nhiều như trước. Tuy nhiên, không phải vì thế mà trong giai đoạn 1945 – 1985 không có những bài phê bình về những hiện tượng văn học giai đoạn trước. Năm 1949, trong hội nghị tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã trân trọng nói về công lao của Vũ Trọng Phụng: “Vũ Trọng Phụng không phải là nhà cách mạng nhưng cách mạng cám ơn Vũ Trọng Phụng đã vạch rõ cái thực xấu xa thối nát của xã hội ấy. Nếu Vũ Trọng Phụng đi vào cuộc đời cách mạng thì anh ta đã thành công” [46; 157]. Năm 1950, trong bài giảng Muốn làm phóng sự, Nguyễn Đình Lạp đã đề cao sự đóng góp của Vũ Trọng Phụng “là nhà phóng sự phong phú nhất, xuất sắc nhất”. Tuy nhiên, khi những người cầm đầu nhóm Nhân văn - Giai phẩm đề cao Vũ Trọng Phụng thì lập tức, các cây bút phê bình hướng sự phê phán vào 9
- ông. Hoàng Văn Hoan trong Một vài ý kiến về vấn đề tác phẩm Vũ Trọng Phụng trong Văn học Việt Nam đã coi Lục xì “đâu chỉ là lõa lồ dâm uế mà còn là cả một ý thức thừa nhận thú tính, cổ lệ nhục dục”. Sau ngày hòa bình lập lại (1954), đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Do đó việc nhìn nhận, đánh giá những giá trị văn hóa, văn học của dân tộc ở hai miền cũng khác nhau. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu đều thống nhất trong việc đề cao, và ngợi ca giá trị của các tác phẩm phóng sự trước cách mạng. Một số công trình nghiên cứu văn học sử và giáo trình giảng dạy trong các trường Đại học đã đề cập đên phóng sự 1932 – 1945 như: Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, Tổng tập văn học Việt Nam tập 29A, Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam tập V…Trong đó, cuốn: Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945 (NXB Văn học, H, 1964) đã dành gần 3 trang cho phóng sự giai đoạn này. Tuy nhiên phần đánh giá lại có phần khắt khe và chưa thỏa đáng: “Phóng sự 1930 – 1945 xét về cơ bản không thuộc trào lưu hiện thực. Nó có nhiều yếu tố tự nhiên chủ nghĩa” [104]. Duy chỉ có hai phóng sự là Việc làng của Ngô Tất Tố và Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến được đề cao. Năm 1978 trong Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam tập V Nguyễn Trác đã có cách nhìn nhận khách quan và công bằng hơn về phóng sự giai đoạn 1932 – 1945. Ông đề cao ý thức nhập cuộc của các nhà phóng sự và nội dung xã hội của phóng sự “Họ đã đi vào bóng tối của các thành phố lớn, đến các nhà chứa, nhà lục xì, tiệm hút…để tâm theo dõi quá trình trụy lạc của thanh niên, cuộc sống khốn khổ của những gái đĩ, me Tây, cảnh sát phạt, lừa bịp nhau của những người sống bằng nghề đỏ đen” [137]. Sau khi phân tích, giới thiệu bốn thiên phóng sự đặc sắc của Vũ Trọng Phụng tác giả đã khẳng định: những tác phẩm trên đã đưa Vũ Trọng Phụng lên hàng “Ông vua phóng sự đất Bắc”. 10
- Tóm lại, ở giai đoạn này, những bài nghiên cứu công phu chỉ tập trung ở các tác giả: Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Lê Văn Hiến. Bên cạnh đó các ý kiến đánh giá và nhìn nhận còn chưa thực khách quan, đôi khi còn phiến diện, chủ quan, áp đặt mục đích chính trị, do đó chưa thấy được những đóng góp xứng đáng của phóng sự 1932 - 1945 cho nền văn học nước nhà. 3. 3. Giai đoạn từ 1986 đến nay Từ sau năm 1975, đặc biệt là sau đổi mới (1986), trong không khí đổi mới chung của xã hội, những vấn đề văn học quá khứ, trong đó có phóng sự 1932 - 1945, đã được nhìn nhận, đánh giá khách quan hơn, chuẩn xác hơn. Nhiều công trình nghiên cứu công phu về phóng sự 1932 - 1945 ra đời. Trong đó phải kể đến bộ tổng tập: Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945 - Một thành tựu của tiến trình văn học Việt Nam của Phan Trọng Thưởng; Phóng sự và quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam của Hà Văn Đức; Những đóng góp đặc sắc về nghệ thuật của Lê Dục Tú, Những biến thiên của phóng sự Việt Nam từ 1930 đến thời kì trước đổi mới của Trịnh Bích Liên… Năm 2007, Vũ Thị Thanh Minh đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ nghiên cứu về Thể loại phóng sự trong Văn học Việt Nam 1932 - 1945. Với luận án này, Vũ Thị Thanh Minh đã khảo sát một cách tương đối toàn diện phóng sự 1932 - 1945, xác định rõ nguồn gốc ra đời, đặc điểm thể loại, đánh giá, khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật cũng như tìm ra những hạn chế của thể loại. Bên cạnh các công trình nghiên cứu, các phóng sự đã được tập hợp, tuyển chọn và in một cách công phu, hệ thống như: Tuyển tập phóng sự Vũ Trọng Phụng (NXB Văn học 1987), Phóng sự chọn lọc (NXB Hội nhà văn 1994)… Đặc biệt nhất là tuyển tập Phóng sự Việt Nam 1932-1945 (NXB Văn học 2000) gồm 3 tập giới thiệu 64 tác giả, 115 tác phẩm. Đây là công trình tuyển chọn công phu, tâm huyết của các nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, 11
- Nguyễn Hữu Sơn, giúp cho người đọc có được cái nhìn tương đối toàn diện về phóng sự giai đoạn này. Như vậy, từ sau đổi mới đến nay, phóng sự đã và đang thu hút được sự chú ý của giới nghiên cứu. Đã xuất hiện những công trình nghiên cứu phóng sự nói chung trên bình diện rộng, khái quát. Kế thừa những người đi trước, hoàn thành đề tài này, người viết mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nhận diện về sự vận động của thể loại phóng sự 1932 - 1945 từ đó một lần nữa khẳng định những biến thiên của phóng sự 1932 - 1945 cũng như khẳng định thêm vai trò không thể thiếu của phóng sự giai đoạn này trong tiến trình hiện đại hoá văn học dân tộc. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp so sánh - tổng hợp - Phương pháp phân tích - chứng minh - Phương pháp thống kê 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Thể loại phóng sự, quá trình hình thành và phát triển của thể loại phóng sự Việt Nam 1932 - 1945 Chương 2: Sự vận động trong nội dung của phóng sự Việt Nam 1932 - 1945 Chương 3: Sự vận động trong nghệ thuật của phóng sự Việt Nam 1932 - 1945 12
- PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: THỂ LOẠI PHÓNG SỰ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA THỂ LOẠI PHÓNG SỰ Ở VIỆT NAM 1932 - 1945 1.1. Những vấn đề lý luận chung về thể loại phóng sự 1.1.1. Nguồn gốc của thể loại phóng sự Trong hệ thống thể loại văn học và báo chí, phóng sự là một thể loại quan trọng, hấp dẫn và quyến rũ. Tuy nhiên phóng sự lại xuất hiện trên văn đàn rất muộn. Chính vì vậy, khi bàn về nguồn gốc của thể loại phóng sự các nhà nghiên cứu lịch sử lý luận, văn học và báo chí đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau. Nhiều tài liệu nghiên cứu về báo chí truyền thông đã cho rằng: thể loại phóng sự ra đời đầu tiên ở Châu Âu vào cuối thế kỷ XIX gắn liền với sự thắng lợi của cuộc đấu tranh vì tự do báo chí kéo dài suốt ba thế kỷ và sự phát triển vượt bậc của tư tưởng dân chủ, tiến bộ ở các nước Phương Tây. Theo GS.TS Caren Xtorơcan (Khoa Báo chí Trường Đại học Sáclơ Tiệp Khắc trước đây), Phóng sự thực sự xuất hiện đầu tiên ở nước Pháp: “Một nhà báo Pháp có nhiều tham vọng đã được cảnh sát trưởng Pari cho phép đi thăm các nhà tù của Pháp. Việc miêu tả dựa trên sự kể lại của một nhân chứng mắt thấy tai nghe đã gây ấn tượng mạnh trong người đọc” [5; 209]. Bên cạnh đó ông còn cho rằng “việc người đọc sau chiến tranh chán ngấy sự hư cấu và khao khát muốn biết những điều chân thực đã gợi ý cho các nhà văn cũng như những người xuất bản báo. Ban biên tập tờ báo Tin tức văn học (Pháp) đã mời những nhà văn có tiếng (như Giăng Cốctô, Gioocgiơ Gira, Ăngdrê Môroe) tham gia đều đặn vào mục Phóng sự mới mở” [5, 210]. Nhà nghiên cứu người Pháp Nôen Duytơre cũng có ý kiến tương tự như vậy khi cho rằng “những người đi tiên phong” trong việc viết phóng sự có thể là Giắclânđơn và Áptơn Xincle ở Mỹ với những tác phẩm như Dân dưới vực thẳm hoặc Rừng. Trong cuốn Bách khoa toàn cầu (Encyclopedia Universalis), xuất bản ở Pari 1991 thì cho rằng “phóng sự ra đời ở Mỹ trong 13
- chiến tranh Nam Bắc (1861 - 1865). Phóng sự đã nhanh chóng xuất hiện trong các báo Anglo - Saxonne và trên mục thời luận lúc đó. Các tác giả cuốn sách này còn cho biết thể văn, báo này xuất hiện ở Mỹ sớm như vậy, nhưng thời điểm đó ở Châu Âu, đặc biệt là Pháp, các kí giả nhận thức không đúng về thể loại này nên sử dụng rất dè dặt” [29; 26, 27]. Không đồng nhất với ý kiến cho rằng phóng sự xuất hiện đầu tiên ở Châu Âu có nhà nghiên cứu đưa ra quan điểm của mình cho rằng phóng sự ra đời ở nước Nga, gắn liền với những biến động của cuộc cách mạng tháng Mười và tác phẩm Mười ngày rung chuyển thế giới của nhà văn, nhà báo Mỹ Giôn Rít chính là bằng chứng. Bên cạnh đó còn có ý kiến cho rằng phóng sự thực ra đã xuất hiện ở Trung Quốc do có mầm mống từ các tác phẩm kí nổi tiếng trong văn học cổ Trung Hoa như Sử kí của Tư Mã Thiên… Nhưng những ý kiến này lại chưa có những luận cứ chắc chắn nên ít được chú ý. Việc xác định nguồn gốc của thể loại phóng sự cho đến nay vẫn chưa được khẳng định chính xác, tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về thể loại phóng sự phần lớn các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, do sự biến động của xã hội, cùng với nhu cầu thông tin ngày càng cao của công chúng và sự tham gia tích cực của các nhà văn vào địa hạt báo chí đã thúc đẩy thể loại phóng sự ra đời vào cuối thế kỉ XIX. Ngay khi vừa ra đời, phóng sự đã lập tức trở thành một thể loại được yêu thích và phát triển rầm rộ. Đến đầu thế kỉ XX phóng sự đã khẳng định được năng lực phản ánh hiện thực của mình. Đặc biệt ở phương Tây, những thập kỉ đầu tiên của thế kỉ XX phóng sự đã thực sự thu hút sự chú ý của công chúng với những tác phẩm của những cây bút nổi tiếng như Halibơctơn, Larítxa Raixnơ, Guiliat Phuxích, Êgôn Ecsvin Kít… Đến thời kì này, phóng sự hiện đại không còn tự giới hạn trong việc mô tả hiện thực trên bề mặt mà đạt tới sự phản ánh một cách chân xác về hiện thực trong những biến đổi của nó cả về mặt sự kiện cũng như về mặt cảm xúc. Chính vì thế phóng sự không chỉ là ghi lại 14
- giản đơn và máy móc về hiện thực mà còn là sự trả lời hàng loạt những câu hỏi phức tạp liên quan đến cuộc sống của con người. Trong một bản tham luận đọc tại Đại hội quốc tế các nhà văn bảo vệ văn hóa họp tại Pari năm 1935, Nhà báo Êgôn Ecsvin Kít người Tiệp Khắc đã khẳng định “Trước kia, người ta coi thường người phóng viên, đối xử với người phóng viên như một nhà báo ở nấc thang thấp nhất khi mà những tác phẩm của Gôn Rít và của Larítxa Raixnơ chưa chứng tỏ việc thông tin về hiện thực có thể trình bày một cách độc lập và có nghệ thuật”. Ý kiến này đã trở thành một sự khẳng định ở phạm vi toàn thế giới đối với phóng sự - một thể loại nguy hiểm, được coi là vũ khí đấu tranh của giai cấp vô sản. 1.1.2. Những quan điểm khác nhau về thể loại phóng sự Cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về thể loại phóng sự. Từ khi mới ra đời, thể loại này đã được khai thác ở nhiều khía cạnh khác nhau. Ở Pháp, người ta coi phóng sự là điều tra và sức hấp dẫn ở đây là phải nêu được những sự kiện, khám phá những nguyên nhân mới mẻ của sự việc. Từ điển Petit Robert, xuất bản năm 1973 ở Pháp cho rằng: “Phóng sự là một bài báo, trong đó phóng viên phản ánh một cách sinh động những gì anh ta đã nhìn và nghe thấy” [21; 29]. Trong từ điển Le Petit Larouss xuất bản 1996, phóng sự (Reportage) được giải thích theo ba ý: “là một bài báo viết theo điều tra của phóng viên; là bài điều tra được công bố trên đài, báo ảnh, truyền hình; là chức năng, nhiệm vụ của phóng viên thuộc một tờ báo” [21; 29]. Cuốn Bách khoa toàn cầu xuất bản ở Paris cho rằng: “phóng sự là tường thuật những điều trông thấy. Phóng sự là một bài báo được đặc trưng bởi sự quan trọng của miểu tả: bầu không khí bao phủ sự việc, những chi tiết hình tượng, những chi tiết về con người, hay những chi tiết độc đáo, những mầu sắc… tất cả mọi thông tin đều 15
- phải xác định, ít nhất bằng sự trả lời 5 câu hỏi: ai? Cái gì? ở đâu? Khi nào? Như thế nào? Tại sao? cho phép đồng thời miêu tả và giải thích” [21; 29]. Còn với người Mỹ, những con người thực dụng lại luôn quan tâm đến việc tìm được đúng người đứng ra đại diện cho quyền lợi của mình thì xem phóng sự hấp dẫn nhất là ở chỗ có thể mô tả, tường thuật các cuộc họp. Thông qua những bài phóng sự, độc giả biết được các cuộc cãi vã của các ông nghị trong Quốc hội. Họ biết được ý kiến này hay dự định kia được thừa nhận hay bác bỏ tại Quốc hội và điều đó gắn liền với quyền lợi của họ. Hai giáo sư bộ môn Báo chí trường Đại học Tennesse - Mĩ: X.Tenlây Giôxon và Giulian trong cuốn sách Người phóng viên toàn năng cho rằng “Phóng sự là một bài tường thuật hoặc một bài báo được phát triển và xử lý một cách có tính văn học”. Quan niệm này công nhận phóng sự là một thể tài báo chí có khả năng sử dụng các yếu tố văn học mà chất lượng, giá trị tùy thuộc vào tài năng và nhân cách của người viết. Nhưng trọng tâm được đặt vào khía cạnh thông tin, vào cách xử lý cụ thể tài liệu và sự việc. Phóng viên phải có khả năng trả lời những câu hỏi sau: Chuyện gì xảy ra? Chuyện ấy có liên quan đến những ai? Chuyện ấy diễn ra vào thời gian nào? Ở đâu? Chuyện ấy diễn ra như thế nào và tại sao lại xảy ra chuyện ấy. Đồng tình với quan điểm này nhà văn, nhà báo Mỹ Mark Twain cho rằng “phóng sự chỉ là một sự ghi chép máy móc đơn thuần các sự việc chứ không phải là một công việc sáng tạo”. Đây là cách nhìn phiến diện cho rằng phóng sự là thể tài ghi chép, tường thuật đơn giản. Lịch sử phát triển của phóng sự cho thấy thể tài này không chỉ dừng lại ở mức độ ghi chép, tường thuật sự kiện mà nó còn lý giải, tìm kiếm nguyên nhân sự việc, cũng như gợi ý một hướng giải quyết. Trong đời sống báo chí, văn học Việt Nam, phóng sự là thể loại tân văn, là sản phẩm của công cuộc hiện đại hóa văn học. Khái niệm phóng sự lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam năm 1931 trong Việt Nam tự điển của hội Khai trí tiến đức. Phóng sự được giải nghĩa là “Phóng sự: người hỏi tin cho nhà báo” [76; 441]. 16
- Năm 1932 trong cuốn Hán Việt từ điển do Đào Duy Anh biên soạn, phóng sự được giải thích rằng: Phóng có nghĩa là bắt chước, phỏng theo; sự có nghĩa là sự việc. Tổng hợp lại Phóng sự có nghĩa là phỏng theo sự việc. Đến năm 1942, trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã quan niệm rằng: “Phóng sự là thăm dò lấy việc mà ghi… Phóng sự là kí sự là có lời thẩm bình, phóng sự ghi những điều mắt thấy tai nghe, có tính cách thời sự và có chỉ trích… không có lối văn nào giúp ích cho việc cải cách, cho nhà đương chức, nhà pháp luật và xã hội học bằng các thiên phóng sự” [79; 504 - 505]. Năm 1950 trong tập bài giảng Muốn làm phóng sự Nguyễn Đình Lạp cho rằng: “Phóng sự hay là phỏng sự. Phóng sự tức là phóng tác (imiter), còn phỏng tức là hỏi, tìm hiểu nghiên cứu, sự tức là sự kiện (fail)- Như thế thì gọi là phỏng sự mới đúng hơn, mới hay hơn… Phóng sự là nghiên cứu tìm hiểu một sự kiện gì rồi ghi chép lại cho thật đúng” [1; 795]. Bên cạnh đó Nguyễn Đình Lạp còn khẳng định: “phóng sự là một bộ môn văn học chuyên tả thực rất chân xác những sự kiện xã hội, cụ thể và hiện tại được ghi chép lại tại nơi chốn xảy ra” [1; 792]. Từ năm 1962, Hà Minh Đức đã coi phóng sự là một thể loại của kí văn học. Năm 1985 trong tập giáo trình viết chung với Lê Bá Hán, ông khẳng định: “Về có bản, phóng sự cũng có những đặc tính của thiên kí sự: chú trọng sự kiện khách quan, tôn trọng tính chính xác của đối tượng miêu tả. Nhưng phóng sự lại đòi hỏi tính phóng sự trực tiếp. Phóng sự được viết ra nhằm giải đáp những vấn đề nào đó mà xã hội quan tâm…” [12; 357]. Cùng với quan điểm này, từ điển Thuật ngữ văn học, định nghĩa phóng sự như sau : “Phóng sự là một thể loại thuộc loại hình kí. Phóng sự ghi chép kịp thời những vụ việc nhằm làm sáng tỏ trước công luận một sự kiện, một vấn đề có liên quan đến hoạt động hoặc số phận của một hoặc nhiều người và có ý nghĩa thời sự đối với địa phương hay toàn xã hội”. Năm 1992, trong Từ điển văn học Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Nam cho rằng: “Phóng sự là một thể loại kí nhằm ghi chép một vấn đề, sự việc nào đó có ý nghĩa thời sự. So với tùy bút, bút kí, 17
- phóng sự có mục đích cụ thể trực tiếp, phạm vi và địa điểm được quy định chặt chẽ. Đó là thể văn gần với khoa học hơn là nghệ thuật, giầu yếu tố thông tin hơn là yếu tố trữ tình” [69]. Nghiên cứu về kí báo chí, Nguyễn Đức Dũng đã từng coi phóng sự là một phần của kí báo chí. Trong cuốn Các thể kí báo chí, tác giả Đức Dũng cho rằng: “Phóng sự là thể loại đứng giữa văn học và báo chí, có khả năng trình bầy, diễn tả những sự kiện, con người, tình huống điển hình, trong một quá trình phát sinh, phát triển dưới dạng một bức tranh toàn cảnh vừa khái quát, vừa chi tiết sống động với vai trò quan trọng của nhân vật trần thuật và bút pháp linh hoạt, ngôn ngữ giầu chất văn học” [5; 83]. Nhìn chung từ sau năm 1962, phần lớn các nhà nghiên cứu văn học và báo chí ở Việt Nam đều thống nhất quan điểm phóng sự thuộc nhóm thể loại kí, là thể loại đứng giữa là gạch nối giữa văn học và báo chí. Nhiệm vụ của phóng sự không chỉ là mô tả những sự kiện đơn lẻ mà các sự kiện phải được xem xét trong quá trình phát sinh, phát triển. Các vấn đề của phóng sự đề cập phải có tính thời sự và phải liên quan đến hoạt động của con người. Đặc biệt các sự kiện đó phải có ý nghĩa chính trị, xã hội nhất định. Có thể nói rằng trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về thể loại phóng sự các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều quan điểm khác nhau về thể loại phóng sự. Tuy nhiên dù quan niệm như thế nào thì chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng, trong thời kỳ có sự biến thiên của xã hội và lịch sử nhanh chóng, phóng sự chính là thể loại đầu tiên có thể bắt mạch sự kiện, có thể nhận xét đâu là nhân tố mới, có thể làm bản kiểm kê của thời điểm một cách sinh động và hấp dẫn. Trong thế giới hiện đại, phóng sự không còn dừng lại ở sự mô tả đơn giản. Nó đã đạt tới sự chính xác và đa dạng trong việc trình bày hiện thực, một hiện thực phức tạp liên tục phát triển và biến động bằng những chi tiết cụ thể, với một năng lực khái quát cao. Với bút pháp giàu chất văn học và cái tôi trần thuật vừa 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 265 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 307 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 214 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 115 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 154 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 158 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 148 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 101 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 173 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 145 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 123 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 161 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 147 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 124 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 82 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 64 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn