intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử 7 theo hướng rèn luyện cho học sinh tiếp cận lịch sử qua tư liệu

Chia sẻ: Sinh Sinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

62
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc học môn Lịch sử trong trường Phổ thông chưa được quan tâm và nhận thức đúng. Do đó tình trạng học sinh không nắm được lịch sử dân tộc, truyền thống dân tộc ngày càng trở nên phổ biến. Nếu dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thì cần lấy việc tập cho học sinh sớm và thường xuyên tiếp cận với loại tư liệu lịch sử khác nhau. Điều này phù hợp với đặc điểm bộ môn để phù hợp với phương pháp cơ bản của bộ môn. Qua đó, sẽ góp phần duy trì và nâng cao chất lượng bộ môn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử 7 theo hướng rèn luyện cho học sinh tiếp cận lịch sử qua tư liệu

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỤC LỤC TT NỘI DUNG TRANG A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2 I Lời mở đầu 2 II Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 2 III Nội dung nghiên cứu 3 IV Đối tượng nghiên cứu 3 V Thời gian nghiên cứu 3 VI Nhiệm vụ nghiên cứu 4 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 5 Thế nào là phương pháp dạy học theo hướng rèn luyện cho  I 5 học sinh tiếp cận lịch sử qua tư liệu Một số phương pháp dạy học theo hướng rèn luyện cho học  II 6 sinh tiếp cận lịch sử qua tư liệu 1 Tiếp cận lịch sử qua sự kiện lịch sử. 6 2 Tiếp cận lịch sử qua nhân vật lịch sử. 10 3 Tiếp cận lịch sử qua bản đồ lịch sử. 13 4 Tiếp cận lịch sử qua tranh ảnh lịch sử. 14 5 Tiếp cận lịch sử qua các tư liệu khác. 16 C. KẾT LUẬN 18 1 Kết quả nghiên cứu 18 2 Kiến nghị đề xuất 19 A. ĐẶT VẤN ĐỀ. I. LỜI MỞ ĐẦU. Hiện nay, công cuộc giáo dục của nhà nước ta đang được triển khai  đồng bộ rộng khắp ở các trường phổ thông. Công cuộc này đòi hỏi đồng thời  tiến hành cải cách hệ thống giáo dục về nội dung và phương pháp dạy học ở  Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 1
  2. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM tất cả các môn học. Song trên thực tế, việc đổi mới phương pháp dạy học trong bộ  môn  Lịch sử ở trường phổ thông chưa chú ý nhiều.  Những năm gần đây, chúng ta thấy xuất hiện ngày càng nhiều tiết học  tốt, dạy tốt của các giáo viên giỏi theo hướng tổ chức cho học sinh hoạt động  tích cực, tự  lực chiếm lĩnh tri thức mới, các phương pháp dạy học được đổi  mới, linh hoạt đem lại hiệu quả cao trong giảng dạy, nhưng mức độ  sử  dụng  không thường xuyên, thường thì được áp dụng trong những giờ  thao giảng,  hoặc một số  tiết học quan trọng. Phần lớn vẫn là lối dạy kiến thức có sẵn,   dạy chay, học sinh không được thường xuyên tiếp cận với các tư liệu lịch sử,  dẫn đến một giờ học lịch sử buồn tẻ và nhàm chán thiếu hấp dẫn. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Ngay từ đầu năm học 2010 ­ 2011, khi được phân công chuyên môn dạy  bộ  môn lịch sử khối 7  tôi đã có một số  điều tra về thái độ  và nhận thức của   học sinh về bộ môn lịch sử để từ đó tìm ra  thực trạng nguyên nhân. Qua phiếu thăm dò cho thấy còn nhiều em học lịch sử chỉ vì đây là môn  học chính khoá và điểm trung bình môn có ảnh hưởng đến việc xét duyệt lên  lớp và khen thưởng.Có ý kiến cho rằng đây là môn học “thuộc lòng”, khô khan  ít hấp dẫn. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó nhận thức của đại  đa số  học sinh về  sự  quan trọng của môn lịch sử  là chưa xác đáng, phương   pháp dạy học chưa hấp dẫn, lôi cuốn, chưa phát huy tính tích cực chủ  động  của hoc sinh. và vẫn còn những giờ dạy “thầy đọc trò chép”.  Chính vì vậy, qua kết quả của các em năm học trước trong môn Lịch sử  Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 2
  3. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM cho thấy số học sinh Giỏi mới chỉ chiếm 50% và vẫn còn nhiều học sinh xếp   loại Trung bình. Việc học môn Lịch sử  trong trường Phổ  thông chưa được quan tâm và  nhận thức đúng. Do đó tình trạng học sinh không nắm được lịch sử  dân tộc,  truyền thống dân tộc ngày càng trở nên phổ biến. Nếu dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thì cần lấy  việc tập cho học sinh sớm và thường xuyên tiếp cận với loại tư  liệu lịch sử  khác nhau. Điều này phù hợp với đặc điểm bộ  môn để  phù hợp với phương  pháp cơ bản của bộ môn (phương pháp tìm hiểu, xem xét các sự  kiện lịch sử  một cách cụ thể để khôi phục, miêu tả quá khứ gần đúng như nó đã từng tồn  tại). Qua đó, sẽ góp phần duy trì và nâng cao chất lượng bộ môn. Để làm rõ vấn đề  này, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài “Đổi mới phương   pháp dạy học lịch sử 7 theo hướng rèn luyện cho học sinh tiếp cận lịch sử qua   tư  liệu”. Với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ  vào việc nâng cao   chất lượng của môn lịch sử. III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU. Đề  tài nghiên cứu:  “Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử  7 theo   hướng rèn luyện cho học sinh tiếp cận lịch sử qua tư liệu”. IV. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. Học sinh khối 7 trường THCS Lê Quý Đôn. V. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU:  Bắt đầu từ 15/9/2010 ­  30/3/2011. VI. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI. Đề tài này cố gắng làm rõ những phương pháp dạy học thích hợp, hiệu   Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 3
  4. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM quả theo hướng rèn luyện học sinh tiếp cận lịch sử qua tư liệu thông qua dạy   học lịch sử 7 với những cơ sở lý luận khái quát nhất. Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 4
  5. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I. THẾ NÀO LÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO HƯỚNG RÈN LUYỆN CHO HỌC SINH   TIẾP CẬN LỊCH SỬ QUA TƯ LIỆU. Ngay từ cấp tiểu học, trong các giờ  học về  khoa học thường thức, vật   lý, sinh học, kỹ  thuật...học sinh đã sớm được tiếp cận với những tranh vẽ,  ảnh mầu, những mô  hình (cơ  thể  người, máy  điện,  động cơ  hơi nước...)   giống như  thật, thậm chí, được trực tiếp tiếp xúc với vật thật (cây đậu, cây   lúa, con ếch, con chim bồ câu, con cá, con thỏ...), những hoá chất, những phản   ứng hoá học...Trong khi đó,  ở  bộ  môn Lịch sử, học sinh thường rất ít, thậm  chí chẳng bao giờ có cơ hội tiếp xúc với những tư liệu lịch sử khác nhau ngoài  những thứ  mà chúng ta đã biết; chẳng hạn một số  bản bản đồ, những tấm  ảnh đen trắng với kỹ thuật không cao trong sách giáo khoa, ít được giải thích   nội dung và ít hấp dẫn. Tất nhiên chúng ta không thể  phủ  nhận được giá trị  giáo dục và nhận thức của những tài liệu giáo khoa đó, nhưng nếu ta so sánh  với những tài liệu học tập trong các bộ môn khác như:Vật lý, Hoá học như đã  nêu trên, ta vẫn thấy cần có những cải tiến, bổ sung tài liệu cho bộ môn Lịch  sử  trong nhà trường hơn nữa. Qua đó để  thích  ứng được với tinh thần giáo  dục mới, thể hiện ở việc giúp việc học chủ động, sáng tạo trong việc lĩnh hội  kiến thức. Môn Lịch sử sẽ trở thành một môn học có nhiều hứng thú, bổ  ích,  thiết thực. Như vậy, sẽ góp phần duy trì và nâng cao chất lượng bộ môn. Theo cách dạy và học này, qua tài liệu cơ  bản là sách giáo khoa, học   sinh sẽ đứng trước nội dung học tập như sau: ­ Phần bài giảng chính bao gồm kiến thức "khung”. Đó là nội dung lịch  sử cơ bản, quan trọng nhất, phản ánh tiến trình lịch sử hay nội dung sự kiện,  Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 5
  6. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM hiện tượng, giai đoạn lịch sử mà tác giả sách giáo khoa đã biên soạn. Phần bài  giảng này tạo thành kiến thức nền có tính chất hướng dẫn chỉ  đường như  kim la bàn.            ­ Câu hỏi tự đánh giá giúp học sinh hiểu bài hơn và tự  kiểm tra kiến   thức. ­ Định nghĩa, giải thích các thuật ngữ, khái niệm lịch sử  quan trọng   trong bài, giúp hiểu đúng bài học, hiểu chính xác từ ngữ có liên quan. ­ Bài tập nghiên cứu. Thực tế  cho thấy; trong quá trình học tập môn lịch sử   ở  nhà trường  THCS các em học sinh thường phải đứng trước những nội dung và nhiệm vụ  nhận thức chủ yếu sau đây. ­ Sự kiện lịch sử và việc nghiên cứu, tìm hiểu sự kiện lịch sử. ­ Nhân vật lịch sử. ­ Bản đồ  lịch sử  và nội dung diễn biến lịch sử được thể  hiện trên bản  đồ. ­ Tranh ảnh, hiện vật lịch sử. ­ Các loại tư liệu khác nhau như: Sơ đồ, biểu đồ, đồ thị, niên biểu; Bản  văn: Hiến pháp, tuyên ngôn, diễn văn, hồi ký...Về tôn giáo: giáo lý, phong trào  cải cách, đấu tranh tôn giáo, kiến thức mang đặc trưng tôn giáo;Về  giáo dục:   Hoạt động học tập, thi cử, hệ thống tổ chức, tư tưởng giáo dục... Nếu dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thì cần   phải lấy việc tập cho học sinh sớm và thường xuyên tiếp cận với các loại tư  liệu lịch sử  khác nhau. Có như  vậy môn Lịch sử  mới trở  thành một môn học   có nhiều hứng thú, hấp dẫn lôi cuốn được sự yêu thích, ham hiểu biết, tìm tòi  Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 6
  7. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM nghiên cứu của học sinh. II. MỘT SỐ  PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO HƯỚNG RÈN LUYỆN CHO HỌC SINH   TIẾP CẬN LỊCH SỬ QUA TƯ LIỆU. 1. Tiếp cận lịch sử qua sự kiện lịch sử. Sự  kiện lịch sử chỉ diễn ra một lần, không lặp lại trong quá khứ, phản   ánh mộ  tiến trình lịch sử  được xác định cụ  thể  về  không gian, thời gian, bối  cảnh, con người... Sự  kiện lịch sử  luôn diễn ra trong hoàn cảnh, điều kiện lịch sử  nhất   định và chính hoàn cảnh điều kiện lịch sử  này cắt nghĩa những nguyên nhân  sâu xa, nguyên nhân trực tiếp và cả  những duyên cớ  bùng nổ  sự  kiện. Hoàn  cảnh lịch sử  còn giúp con người ta hiểu diễn biến và kết quả  của quá trình  phát triển các sự  kiện, sự  kiện lịch sử có thể  đưa lại những hậu quả  lâu dài,   hậu quả trước mắt, những hậu quả trong và ngoài nước. Trước hết, để  hướng dẫn học sinh tìm hiểu sự  kiện lịch sử, cần đặt  học sinh trước các sự kiện cụ thể, yêu cầu các em tiếp cận lịch sử từ các góc  độ sau: + Tên gọi lịch sử, xác định thời điểm mở đầu và kết thúc, diễn biến. + Bối cảnh lịch sử. + Xác định xem sự kiện thuộc lĩnh vực nào trong đời sống xã hội (chính   trị, quân sự, kinh tế hay văn hoá...) Tiếp theo hướng dẫn học sinh tìm ra những nguyên nhân và hậu quả  của sự kiện lịch sử.  Ví dụ như học bài 25 “Phong trào Tây Sơn” ­ Lịch sử 7. Đây là một bài  tương đối dài, chiếm 4 tiết trong khoá trình lịch sử 7, với những sự kiện diễn  Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 7
  8. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ra trong bối cảnh khá phức tạp của xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XVIII.  Những sự   kiện lịch  sử   đó gắn  liền  với những chiến  công  hiển hách  của   Nguyễn Huệ  ­ Quang Trung với vai trò là lãnh đạo nghĩa quân Tây Sơn thực  hiện những nhiệm vụ  chính trị  và quân sự  sau: Lật đổ  các tập đoàn phong   kiến Nguyễn ­ Trịnh ­ Lê, chấm dứt nền phong kiến cát cứ, chấm dứt sự chia  cắt đất nước Đàng Trong ­ Đàng Ngoài diễn ra gần 200 năm, thống nhất đất  nước; đánh tan quân xâm lược Xiêm bằng trận thuỷ  chiến lớn trong lịch sử  chống giặc ngoại xâm của nhân dân ra; đại phá 29 vạn quân Thanh chỉ trong 5   ngày thần tốc bảo vệ lãnh thổ và nền độc lập dân tộc. Đây là một bài học có số lượng kiến thức khá nhiều và đặt ra nhiều tình  huống, có vấn đề  phức tạp đòi hỏi sự  suy luận, phân tích, đánh giá nhận xét  về  đường lối chính trị, quân sự  tài tình, khéo léo trong công cuộc thống nhất   đất nước và bảo vệ tổ  quốc của Nguyễn Huệ ­ Quang Trung ­ một nhân vật   lịch sử kiệt xuất của dân tộc ta. Do đó để  tránh khỏi tình trạng nhàm chán và khô cứng khi truyền đạt  kiến thức cho học sinh, giáo viên phải biết gợi mở và rèn luyện cho học sinh   tiếp thu những sự  kiện lịch sử  một cách chủ  động và học cách ghi nhớ  sự  kiện, đánh giá sự kiện. Ở  đa số  các bài học lịch sử, giáo viên thường đưa ra nhiều các tình  huống có vấn đề và các câu hỏi gợi mở nhằm thu hút sự tò mò, ham tìm hiểu  và quyết tâm giải đáp của học sinh. Nhưng khi dạy bài “Phong trào Tây Sơn”  theo tôi, trước khi tìm hiểu bài giáo viên nên giành khoảng 10 phút trình bày sơ  qua diễn biến chính trị, sự kiện chính của phong trào Tây Sơn: Ví dụ:     1. Lật đổ chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong. Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 8
  9. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM      2. Tiêu diệt quân Xiêm xâm lược.      3. Lật đổ chính quyền Lê ­ Trịnh ở Đàng Ngoài thống nhất đất nước      4. Đại phá 29 vạn quân Thanh. Đây là “điểm tựa” trong toàn bộ  ghi nhớ  của các em. Từ  “khung” này  giáo viên triển khai bài học, học sinh sẽ tiếp thu bài học rất nhanh. Trong quá trình dạy ­ học, giáo viên sẽ đặt ra những câu hỏi nhận thức   nhằm giúp học sinh rèn luyện khả năng đánh giá, nhận xét, phân tích những sự  kiện chính. Qua đó chẳng những học sinh thêm   một lần nữa ghi nhớ  kiến   thức mà còn nâng cao tầm nhận thức cho các em, để  có thể  nắm vững được  các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử, và hiện tượng lịch sử. Ví dụ: Giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi. ­  Có nhà sử học Trung Quốc chép rằng “Anh em Tây Sơn khởi nghĩa vì  đánh bạc thua trận nên vào rừng làm giặc” theo em ý kiến đó như thế nào? ­ “Tại sao nghĩa quân Tây Sơn lại hoà hoãn với quân Trịnh”? Hoặc câu hỏi: “Tại sao khi lấy được chính quyền từ  tay họ  Trịnh, Nguyễn  Huệ   không   lên   ngôi   mà   mãi   đến   khi   quân   Thanh   vào   xâm   lược   nước   ta,   Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng Đế”? ­ “Tại sao Quang Trung lại quyết định tiêu diệt quân Thanh vào dịp Tết  Nguyên đán”? Và khi học xong bài 25, giáo viên có thể yêu cầu học sinh làm bài tập:   Điền vào bảng sự kiện chi tiết diễn biến của phong trào Tây Sơn theo mẫu: Thời gian Sự kiện 9­1773 Nghĩa quân hạ thành Quy Nhơn 1774 Mở rộng vùng kiểm soát từ Quảng Nam đến Bình Thuận. 1783 Tiêu diệt chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 9
  10. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1785 Đánh tan quân xâm lược Xiêm 6­1786 Tây Sơn hạ thành Phú Xuân 1786 Nguyễn Huệ ra Bắc Hà lần 1 tiêu diệt họ Trịnh …    ….. Như vậy học sinh ghi nhớ toàn bộ  diễn biến chính của phong trào Tây  Sơn một cách cụ  thể. Bên cạnh giúp học sinh ghi nhớ  sự  kiện, giáo viên có  thể  đưa ra nhận xét kết  luận về  phong trào Tây Sơn và nhân vật lịch sử  Nguyễn Huệ. ­ Phong trào Tây Sơn không những là đỉnh cao của đấu tranh nhân dân   Đằng Trong còn là đỉnh cao của phong trào nông dân cả nước. Theo tôi, cho học sinh tiếp cận lịch sử bằng cách lặp đi lặp lại các sự  kiện lịch sử từ đơn giản đến phức tạp, từ một chiều đến đa chiều, từ ghi nhớ  thông thường đến việc bộc lộ  quan điểm, thái độ  về  sự  kiện lịch sử, hiện   tượng lịch sử…như vậy là một cách giúp học sinh nắm vững được bản chất   của lịch sử. 2. Tiếp cận lịch sử qua nhân vật lịch sử. Trừ phần về xã hội nguyên thuỷ là không có nhân vật lịch sử và một số  bài về chế độ chiếm hữu nô lệ thương ít đề cập đến nhân vật lịch sử cụ thể,   còn hầu như các bài lịch sử từ thời Trung cổ đến sau này đều có nêu tên tuổi   một số  nhân vật lịch sử. Giáo viên cân nhắc trong các sự  kiện lịch sử  có  những nhân vật nào, nhằm đạt yêu cầu giáo dục nào? Có thể  hướng dẫn các   em đi theo những bước và tìm hiểu các nội dung như sau: ­ Ở mức độ tiếp cận đầu tiên học sinh cần tìm hiểu: + Ngày, tháng, năm và mất, nơi sinh, nơi mất, đặc điểm nhận dạng. + Đôi nét về gia đình và hoàn cảnh xuất thân. Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 10
  11. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM + Hoàn cảnh lịch sử mà nhân vật sống và hoạt động. ­ Đi sâu hơn học sinh cần tìm hiểu: + Nhân vật lịch sử  bắt đầu hoạt động (trên các lĩnh vực như  chính trị,  quân sự, kinh tế, văn hoá, khoa học…) Thái độ, lập trường, quan điểm chính   trị, tư tưởng  của nhân vật lịch sử đó. + Những giai đoạn hoạt động chính của nhân vật lịch sử? Thành công  hay thất bại và có ảnh hưởng gì đến thời đại và đối với ngày nay (nếu có). + Những nhận xét, đánh giá về nhân vật lịch sử đó. Trong SGK lịch sử  7, hầu như không có bài học riêng về  các nhân vật  lịch sử mà chủ yếu tìm hiểu qua những sự kiện lớn của dân tộc. Ví dụ: ­ Những người lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa lớn của nhân dân  trong các cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm như: Đinh Bộ  Lĩnh, Ngô Quyền,   Lê   Hoàn,   Lý   Thường   Kiệt,   Trần   Hưng   Đạo,   Trần   Quốc   Toản,   Lê   Thánh  Tông, Nguyễn Huệ ­ Quang Trung… ­ Những nhân vật lịch sử  nổi tiếng trong lĩnh vực khoa học, kỹ  thuật,   văn học nghệ thuật như: Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Ngô Sĩ Liên, Lương Thế  Vinh, Lê Văn Hưu, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ… Những con người  ấy đã có những đóng góp to lớn cho lịch sử  dân tộc.  Qua đó bỗi dưỡng lòng biết ơn, giáo dục lòng kính yêu các vị anh hùng đã hy  sinh cho lợi ích của dân tộc cho học sinh. Để tìm hiểu về các nhân vật lịch sử thông thường có 2 cách: * Cách thứ nhất:  Cách nhận biết thông thường giúp học sinh hiểu biết  một cách cơ  bản về  các nhân vật lịch sử, giáo viên có thể  lấy người để  nói   việc (dĩ nhân đối sự) hoặc lấy việc để nói người (dĩ sự đối nhân) Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 11
  12. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Nhân vật lịch  Những cống hiến, nét tiêu biểu hoặc hoàn cảnh… sử Ngô Quyền Chiến thắng Bạch Đằng 938 Đinh Bộ Lĩnh Dẹp loạn 12 sứ quân, đóng đô ở Hoa Lư Lý Công Uẩn Dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long 1010 Lý   Thường  “Tiên phát chế  nhân” năm 1075; phòng tuyến sông Cầu, bài  Kiệt thơ “Nam Quốc Sơn Hà”. Gây dựng vương triều Trần – người có câu nói nổi tiếng  Trần Thủ Độ “Đầu tôi chưa rơi xin bệ hạ đừng lo” Trần   Quốc  “Hịch Tướng Sỹ”; “Nếu bệ  hạ  muốn hàng xin chém đầu   Toản thần đi đã” …    ….. * Cách thứ 2: Tìm hiểu sâu 1 nhân vật lịch sử nào đó: Ví dụ: Khi học bài: “Nước Đại Việt thời Lê sơ”, giáo viên cần cho học  sinh hiểu rõ tiểu sử  cũng như  vài nét về  hình thức, tính cách, tài đức của   Nguyễn Trãi. “Ông là người tầm thước, nhỏ  nhắn, dáng đi nhanh nhẹn, khuôn mặt   trong sáng, toát lên vẻ thông minh hiếm có. Nguyễn Trãi hiệu là  Ức Trai, sinh năm 1380 ông là người học rộng tài  cao, đỗ tiến sĩ năm 1400, làm quan trong triều Hồ. Khi nhà Hồ bị thất bại, ông  bị giam lỏng ở Đông Quan. Quân Minh tìm mọi cách mua chuộc, dụ dỗ nhưng  không lay chuyển được con người có lòng yêu nước nồng nàn và ý chí bất   khuất. Nguyễn Trãi có nhiều cống hiến to lớn cho công việc tổ  chức và lãnh  đạo khởi nghĩa Lam Sơn. Khi nghe tin  ở núi rừng Lam Sơn, Lê Lợi đang tập hợp binh lính chống  quân Minh, Nguyễn Trãi đã bí mật chốn về  Lam Sơn dâng cho Lê Lợi tập   Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 12
  13. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Bình Ngô Sách”. Trình bày ý kiến về chiến thuật, chiến lược đánh giặc Minh   của mình và được Lê Lợi vô cùng tâm đắc. Nguyễn Trãi đã vạch ra tinh thần cơ bản đường lối đánh giặc của nghĩa  quân Lam Sơn là coi trọng việc “đánh vào lòng người” chứ  không nói đến  việc đánh thành: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn là thắng lợi của đường lối Nguyễn  Trãi. Đây là một cống hiến to lớn đầy sáng tạo của ông. Khi đất nước thái  bình, ông không ngừng cống hiến cho đất nước trên lĩnh vực văn hoá. Ông   được mệnh danh là nhà văn hoá lớn của dân tộc Việt Nam, là con người “suốt  đời đấu tranh cho lý tưởng của nhân nghĩa”. Với tính tình cương trực, thẳng tính, năm 1442 ông bị  vu oan tôi giết   vua. Cả nhà ông bị ám hại. Về sau vua Lê Thánh Tông đã minh oan cho ông và  nhận xét rằng: “Ức trai tâm thượng tựa Sao khuê”. Ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hoá thế giới”. Để nâng cao hiệu quả trong công việc rèn luyện cho học sinh tiếp cận  lịch sử  qua các nhân vật lịch sử, theo tôi giáo viên nên giao bài tập cho học   sinh tìm hiểu  ở  nhà trước khi học về  nhân vật lịch sử  đó một tuần. Kết quả  của việc tìm hiểu đó nên dưới hình thức một bài luận. Trong giờ học giáo viên  yêu cầu các em  trình bày bài luận đó của mình. Sau đó gọi học sinh nhận xét  và giáo viên là người đưa ra kết luận cuối cùng, bổ  sung và đánh giá. Chính   điều này có ỹ nghĩa rất lớn đối với việc đào tạo, giáo dục học sinh thoát khỏi  lối dạy “cầm tay chỉ việc”, các em sẽ quen với tính tự lập, độc lập trong suy   Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 13
  14. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM nghĩ và chủ động trong việc tiếp thu tri thức lịch sử. 3. Tiếp cận lịch sử qua bản đồ lịch sử. Trong lịch sử mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, trước hết là bộ phận thống trị,  đã luôn tìm cách để xác định, giữ gìn và kể cả mở rộng lãnh thổ với mục đích   phát triển kinh tế, phân bổ lại dân cư, giữ vững an ninh quốc phòng, mở rộng  thế lực. Có thể khẳng định: cần cho học sinh tiếp cận với những bản đồ phản  ánh cương vực quốc gia trong những thời kỳ lịch sử khác nhau, khi nghiên cứu   những nội dung lịch sử có trong lịch sử tương ứng. Bởi vì sử  dụng bản đồ có  đường biên giới như hiện tại để phản ánh các sự kiện lịch sử trong quá khứ là  không hợp lý, làm giảm tính khoa học và làm mất nội dung, ý nghĩa lịch sử. Ví dụ: Khi dạy bài “Nước Đại Việt  ở thế kỷ XIII”. lịch sử  7, giáo viên  sử  dụng bản đồ “Đại Việt thời kỳ Lý Trần”. Bản đồ  này giúp học sinh thấy   rõ phạm vi lãnh thổ, hình thể  của nước Đại Việt thời Lý – Trần, gần giống   với Bắc Bộ và Trung Bộ  của nước Việt Nam hiện nay. Phía Bắc giáp Trung  Quốc – là nước trong một thời gian dài, đã xâm chiếm và đô hộ  nước ta. Sau  khi nước ta giành độc lập, phong kiến thống trị  phương Bắc vẫn ôm mộng   xâm lược nhằm sáp nhập nước ta và Trung Quốc. Phía Nam giáp Chăm Pa,   đây là quốc gia của người Chăm xưa, tuy là một nước nông nghiệp nhưng các  vua Chăm Pa thường xuyên quấy nhiễu phía Nam Đại việt, đặc biệt là khi bị  nhà Tống xúi dục. Phía Tây  giáp Lạn Xạng (Lào). Phía Đông giáp biển Đông.  Kể  từ  Bắc xuống Nam, ta thấy có những đơn vị  hành chính sau: Quy Hoá,  Tuyên Hoá, Lạng Châu, Đà Giang, Như Nguyệt, Bắc Giang, Hồng Khoái, Nam  Sách, Trường An, Đại Hoàng… Giáo viên nên rèn luyện cho học sinh tiếp cận lịch sử qua bản đồ lịch sử  Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 14
  15. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM thông qua một bài thu hoạch theo nhóm. Ví dụ: Em hãy nêu quá trình hình thành biên giới nước ta qua các thời kỳ  Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần…? Qua đó giúp học sinh hiểu  được rằng, lãnh thổ  nước ta không phải  được hình thành một cách ngẫu nhiên tình cờ, một sớm một chiều, một cách   dễ dàng, hoặc theo ý riêng của một ai đó. Trái lại đường biên giới của nước  Việt Nam ngày nay là kết quả của cả một quá trình đấu tranh lâu dài gian khổ,   đầy mưu lược, phản ánh sức mạnh và quyền lợi của dân tộc và các triều đại  phong kiến ở Việt Nam. Cách tiếp cận lịch sử như vậy, theo tôi là cần thiết vì làm như vậy học   sinh có cái nhìn động về mối tương tác giữa lịch sử và điều kiện địa lý 4. Tiếp cận lịch sử qua tranh ảnh lịch sử. Khai thác tranh ảnh lịch sử là một trong những cách tiếp cận thực tế lịch  sử  tốt. Có khả  năng đưa lại hiệu quả  giáo dục cao, nhưng lại là công việc   không phải đơn giản dễ  thực hiện. Việc tiếp cận tranh  ảnh lịch sử của học   sinh không chỉ được thực hiện ở trên lớp, với sự hướng dẫn trực tiếp của giáo  viên, các em còn phải tiếp tục làm việc với các tư  liệu đó khi học và làm bài  tập ở nhà. Để  giúp học sinh học cách tiếp cận lịch sử  qua tranh  ảnh lịch sử, giáo   viên có thể nêu những gợi ý về cách khai thác các tài liệu đó, chẳng hạn: ­ Nguồn gốc và thời điểm xuất hiện tài liệu. Bởi có những tranh ảnh do   người đời sau thực hiện.  Ví dụ: Khi học bài 27 “ Xã hội phong kiến thời Nguyễn” – lịch sử  7,  có hình vẽ  về  quân lính nhà Nguyễn. Bức tranh này là do tác phẩm do người  Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 15
  16. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM đương thời tạo nên, dĩ nhiên không có giá trị  bằng tư liệu gốc. Giáo viên cần  phải giải thích đây là tranh ảnh minh hoạ, tránh tình trạng đại hoá lịch sử. Sau khi xác định rõ nguồn gốc, thời điểm, giáo viên có thể gợi ý cho học   sinh nội dung và cách thể hiện những nội dung của tranh ảnh. Ví dụ: Khi học bài “Đời sống kinh tế, văn hoá thời Lý – Trần” lịch sử  7. Để  trình bày sự  phát triển của nghề  gốm, giáo viên cho học sinh quan sát   ảnh “Liễn gốm men xanh”, để  gợi ý học sinh nói lên những nhận xét của   mình, giáo viên có thể nêu câu hỏi để học sinh thảo luận “Liễn gốm men xanh   thời Lý có hình dạng như thế nào ? cách trang trí hoa văn ra sao?”. Cuối cùng  giáo viên miêu tả  như  sau: “Quan sát  ảnh ta thấy liễn hình tròn, có nắp đậy,  thân liễn tạo dáng cân đối vững chắc, miệng liễn có đường kính lớn hơn đáy   liễn, thân liễn phình rộng, có gờ  múi tạo cho các hoa văn dáng thẳng đứng,   nắp cũng có những vẩy hoa văn tạo nên một hoạ  tiết trang trí quen thuộc,  giống như cách điệu của bông hoa cúc”.  Qua đó cho thấy nghề  gốm thời Lý đã tiến một bước dài và đạt đến  trình độ cao. Sử dụng tranh  ảnh như vậy vừa khai thác được nội dung lịch sử  thể hiện qua tranh ảnh, bổ sung cho bài giảng, vừa phát huy được năng lực tư  duy sáng tạo của học sinh, và giúp học sinh tiếp cận lịch sử  một cách hiệu   quả nhất. Với lý do đó, tranh  ảnh lịch sử  luôn được xem là những tư  liệu lịch sử  quý giá cần được khai thác triệt để, để nâng cao hiệu quả dạy học. 5. Tiếp cận lịch sử qua các loại tư liệu khác Trong thực tế, chúng ta thường gặp những loại thông tin như; đồ  thị,  biểu đồ  so sánh, niên biểu các sự  kiện lịch sử  quan trọng, hiến pháp, tuyên  Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 16
  17. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ngôn.. Về tôn giáo: giáo lý, phong trào cải cách, đấu tranh tôn giáo, kiến thức  mang đặc trưng tôn giáo;Về giáo dục: Hoạt động học tập, thi cử, hệ thống tổ  chức, tư tưởng giáo dục... Học sinh có nhiều cơ hội để tiếp xúc với các thông  tin nêu trên vì lịch sử chính là cuộc sống. Trong lịch sử  7, học sinh được tiếp xúc rất nhiều với các loại tư  liệu  này.  Ví dụ: Học sinh được tìm hiểu về  nhiều bộ  luật của dân tộc ta thời Phong  kiến, như: Bộ  luật  “Hình thư” thời Lý, Bộ  luật  “Quốc triều hình luật” thời  Trần, Bộ luật “Hồng Đức” thời Lê sơ, Bộ “Luật Gia Long” thời Nguyễn. Khi  tìm hiểu về các bộ luật, giáo viên nên đưa ra dẫn chứng cụ thể về hoàn cảnh   ra đời, bộ  luật gồm bao nhiêu cuốn, nội dung cơ  bản và dẫn chứng một vài  điều luật cụ thể trong bộ luật đó… Hoặc học sinh đều được tìm hiểu về  tổ  chức Bộ  máy nhà nước của   mỗi triều đại. Qua việc tiếp cận với các loại tư  liệu này, học sinh sẽ  từng bước làm  quen với kỹ  năng xử  lý tư  liệu. Tùy từng điều kiện cụ  thể  mà giáo viên yêu   cầu và hướng dẫn các em thực hiện. Ví dụ như: đề ra yêu cầu học sinh so sánh sự  giống và khác giữa Pháp   luật thời Lý­ Trần với Pháp luật thời Lê sơ để qua đó thấy được sự phát triển  và tiến bộ giữa Pháp luật thời Lê với thời Lý­ Trần. Hoặc : yêu cầu học sinh so sánh về  tổ  chức bộ  máy nhà nước qua các  triều đại để  thấy được Nhà nước phong kiến Trung  ương tập quyền ngày   càng được củng cố  , phát triển và đạt đến độ  hoàn thiện , thịnh vượng nhất  vào thời Lê sơ. Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 17
  18. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Qua cách tiếp xúc và xử lý tư liệu như vậy, học sinh chẳng những được   củng cố  kiến thức thêm một lần nữa mà còn hiểu, nắm chắc được bản chất  vấn đề lịch sử và làm chủ được kiến thức. C. KẾT LUẬN. 1. Kết quả nghiên cứu. Mặc dù là một giáo viên tuổi nghề còn rất trẻ nhưng qua quá trình học  tập, bồi dưỡng chuyên môn, ham học hỏi nghiên cứu các tài liệu, tham khảo  Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 18
  19. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM các giờ  dạy giỏi các cấp thị, cấp Tỉnh, các giờ  dạy mẫu trên  băng hình cấp   quốc gia và qua kinh nghiệm rút ra từ thực tế giảng dạy của bản thân: Muốn   thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của bộ môn lịch sử nói chung và Lịch sử 7 nói  riêng giáo viên phải nắm vững nội dung cơ  bản của các khoá trình lịch sử,  Giáo viên phải xác định được những loại  bài, loại kiến thức khác nhau để từ  đó tìm ra nhứng phương pháp dạy học phù hợp đem lại hiệu quả  giáo dục:   Phải xác định được những đơn vị  kiến thức nào có thể  tiếp cận bằng những   tư liệu lịch sử nào phù hợp, từ đó rèn luyện cho học sinh tìm hiểu lịch sử gần   đúng như nó đã tồn tại. Như vậy sẽ góp phần duy trì và nâng cao chất lượng   bộ môn. Năm học 2010 – 2011 tôi dạy khối 7 trường Trung học cơ  sở  Lê Quý  Đôn bộ môn Lịch sử, tôi thấy đã có nhiều học sinh yêu thích và cố  gắng học  tốt môn lịch sử. Kết quả có 70% học sinh thuộc bài ngay tại lớp và có tới 90%   học sinh khá  giỏi. Không có học sinh yếu kém. Chất lượng học kì 1 năm học 2010 ­2011 như sau: Giỏi Khá Trung bình Yếu Số  Số  Số  Số  Lớp Sĩ số lượn % lượn % lượn % lượn % g g g g 7A 40 23 57.5% 15 37.5% 2 5% 7B 39 30 76.9% 7 17.9% 2 5.2% 7C 42 31 73.8% 10 23.8% 1 2.4% Áp dụng phương pháp dạy học rèn luyện học sinh tiếp cận lịch sử qua  tư  liệu, tôi nhận thấy số  lượng học sinh hiểu bài và yêu thích môn sử   tăng  hơn so với đầu năm. Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 19
  20. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2. Kiến nghị và đề xuất. Muốn nâng cao hiệu quả dạy – học môn lịch sử phải đổi mới trên nhiều   mặt. Về  phía chủ  quan: mỗi giáo viên luôn là một tấm gương về  sự  nhiệt   huyết, ham học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu, tìm ra những phương pháp dạy học   mới, nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn. Từ đó sẽ  khiến cho học sinh yêu  thích môn lịch sử. Về phía khách quan: một yếu tố quan trọng quyết định chất lượng dạy  – học bộ môn lịch sử đó là: phải có những tài liệu lịch sử phong phú và có giá   trị. Chỉ  có dạy học trên cơ  sở  giáo viên và học sinh được tìm hiểu nhiều tài  liệu lịch sử thì người học mới chủ động và sáng tạo trong việc lĩnh hội kiến  thức. Môn lịch sử chắc chắn sẽ trở thành một môn học có nhiều hứng thú bổ  ích và thiết thực. Trong quá trình viết đề  tài này không tránh khỏi những khiếm khuyết,   tôi rất mong được sự giúp đỡ, góp ý của đồng nghiệp. Bỉm sơn, ngày 20 tháng 03 năm 2011                                                                           NGƯỜI THỰC HIỆN Nguyễn Thị Thuý Người thực hiện:    NGUYỄN THỊ THUÝ     ­    TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN       ­  Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2