intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng

Chia sẻ: Hòa Phát | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

36
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của sáng kiến kinh nghiệm này nhằm nêu được cách thức để người dạy thực hiện nhằm tháo gỡ được những khó khăn vướng mắc cho giáo viên trong hoạt động dạy học, cho việc tăng thời lượng dạy học và các biện pháp đồng bộ khác khuyến khích học sinh thực hiện tốt kỹ năng đọc của mình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng

  1. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KRÔNG ANA TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐINH TIÊN HOÀNG  KINH NGHIỆM CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN  DẠY KỸ NĂNG ĐỌC THÀNH TIẾNG CHO HỌC SINH  TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐINH TIÊN HOÀNG Thuộc bộ môn hoặc lĩnh vực: Quản lý Họ và tên tác giả: Hồ Thị Mỹ Hạnh Chức danh: Hiệu trưởng Trình độ chuyên môn cao nhất: Đại học Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục Tiểu học Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 1
  2. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng I. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Đọc thành tiếng là một kỹ năng thiết yếu trong phân môn tập đọc. Đối   với các trường chỉ  dạy hoàn toàn học sinh người Kinh thì kỹ  năng này hầu   như  không cần phải chú ý nhiều bởi đây là một kỹ  năng hoàn toàn tự  nhiên.   Học sinh học phân môn Tập đọc ở trường tiểu học khi bắt đầu bước vào lớp  Một trong khi các em đã có một số  vốn từ  ngữ  tiếng Việt rất phong phú và  khả năng đọc thành tiếng tương đối tốt. Vì thế việc dạy cho các em đọc thành  tiếng vô cùng đơn giản. Nhưng đối với   các em học sinh người dân tộc Êđê thì kỹ  năng đọc   thành tiếng là một kỹ năng quan trọng mà các cô phải là người vất vả rèn giũa  từ lớp Một đến hết bậc Tiểu học. Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng hiện tại có 59,6% học sinh dân tộc   thiểu số. Hầu hết học sinh dân tộc thiểu số   ở   đây là người dân tộc Êđê.  Người Êđê  ở  buôn ÊCăm là dân gốc sống  ở  cao Nguyên từ  lâu đời. Thế  hệ  ông bà các em nhiều người không biết tiếng Kinh, thế hệ bố mẹ các em biết   nói tiếng Kinh nhưng một số  không biết đọc, không biết viết. Vì thế, vốn  tiếng Việt của các em khi vào lớp Một rất hạn chế. Tiếng Việt vừa là môn học cơ bản, vừa là môn học công cụ để học sinh   chiếm lĩnh tri thức và kỹ  năng của các bộ  môn khác trong chương trình giáo  dục. Tuy nhiên, do sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau trong quá trình dạy   học, chất lượng học tiếng Việt của học sinh dân tộc chưa cao, kéo theo sự  hạn chế về phát triển năng lực tư duy, ít nhiều tạo ra bất lợi cho việc đạt đến  những chuẩn mực trong mục tiêu giáo dục của  bậc học  Tiểu học. Thực tế nhiều năm làm công tác quản lý ở trường tôi đã rất trăn trở về  kỹ năng đọc của học sinh mình. Tất cả các em học sinh người Êđê từ khối lớp  Một đến khối lớp Năm đều có kỹ năng đọc hạn chế. Bên cạnh đó, do đòi hỏi  của xu hướng, của yêu cầu đa dạng về  môn học và các hoạt động trong nhà  trường, nên môn  Tiếng Việt mặc dù đã được  ưu tiên nhưng vẫn không đáp  ứng được yêu cầu thích đáng về thời gian để giáo viên dạy và để các em được  học. Môn Tiếng Việt  ở  bậc Tiểu học được xác định là môn công cụ. Các   em phải học được môn Tiếng Việt thì mới học được các môn học khác. Trong  môn Tiếng Việt thì có rất nhiều phân môn các em cần học, cần được trang bị  Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 2
  3. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng nhưng trong đó, tôi quan tâm trước hết là phân môn Tập đọc. Môn Tập đọc  Nhằm trang bị và  phát triển cho các em các kỹ năng nghe, nói, sử dụng tiếng  Việt. Trên cơ  sở  những kiến thức cơ bản về đọc, nhằm từng bước giúp học  sinh làm chủ  được ngôn ngữ  tiếng Việt để  học tập trong nhà trường và giao   tiếp một cách đúng đắn, mạch lạc, tự  nhiên, tự  tin trong môi trường xã hội  thuộc phạm vi hoạt động của lứa tuổi các em. Tập đọc góp phần cùng các   môn học khác rèn luyện các thao tác tư duy cơ bản cho học sinh tiểu học, cung   cấp những hiểu biết sơ  giản về  xã hội, tự  nhiên, con người... Từ  đó bồi  dưỡng cho học sinh tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp, yêu cái thiện, yêu lẽ  phải và sự  công bằng. Có ý thức nói đúng, đọc đúng, nghe đúng tiếng Việt.   “Đọc” trở  thành đòi hỏi đầu tiên của học sinh khi đi học. Đọc là kĩ năng sẽ  giúp học sinh phát triển khả năng cảm thụ ngôn ngữ. Chúng giúp học sinh phát  hiện và ghi nhớ rất nhiều câu nói, nhiều từ vựng.  Trong kỹ  năng đọc thì có đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc diễn cảm,..   nhưng với học sinh trường mình, điều tôi cần nhất đó là kỹ  năng đọc thành   tiếng. Bởi lẽ, trong các kỹ năng trên thì kỹ năng đọc thành tiếng là kỹ năng cơ  bản nhất đối với các em. Rèn kỹ  năng đọc thành tiếng đối với một số  trường tất nhiên sẽ  là  không quan trọng bỡi lẽ đa số  học sinh đã đọc tốt, có cần chăng thì chỉ  quan   tâm cho việc rèn học sinh cách cảm thụ  văn bản, cách đọc sao cho hay, diễn  cảm các văn bản đó nhưng đối với thực tế học sinh trường mình công tác, đây  là một vấn đề  to lớn mà bản thân tôi thấy cần phải giải quyết, cần có kế  hoạch và phương pháp đồng bộ để giúp giáo viên giải quyết bài toán khó, giải   quyết một thực tế  là học sinh đứng lên đọc bài mà cô và bạn không nghe,   không hiểu được văn bản. Với học sinh mình, môn Tiếng Việt là môn phải ưu tiên, phân môn tập   đọc là phân môn phải ưu tiên, kỹ năng đọc là kỹ năng phải ưu tiên nhưng bản  thân tôi chọn một kỹ năng mà tôi thấy quan trọng nhất, cần thiết nhất cho các   em đó là kỹ năng Đọc thành tiếng. Quan nhiều năm chỉ đạo triển khai đồng bộ các giải pháp, tôi đã rút ra   nhiều kinh nghiệm để  bổ  sung, hoàn thiện dần trong công tác quản lý hoạt   động dạy học của mình đặc biệt là hoạt động dạy các kỹ  năng đọc thành  tiếng cho học sinh. Vì thế, lần này tôi chọn nội dung đọc thành tiếng cho học   sinh để  làm bài viết trao đổi kinh nghiệm của bản thân với đồng nghiệp với   đề  tài Kinh nghiệm chỉ  đạo thực hiện dạy kỹ  năng đọc thành tiếng cho học  sinh dân tộc thiểu số trường TH Đinh Tiên Hoàng. Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 3
  4. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu:  Đọc thành tiếng là một kỹ năng cần thiết, kỹ năng công cụ để  các em học   môn Tiếng Việt. Các biện pháp, giải pháp sau đây nhằm giúp người dạy giải   quyết được những khó khăn trong hoạt động dạy đọc cho các em nhất là hoạt  động đọc thành tiếng. Đó là giải quyết khó khăn trong việc dành thời gian cho   hoạt động đọc trong quỹ thời gian hạn hẹp của 40 phút/ 1 tiết với quá nhiều   yêu cầu cần phải đạt được đối với học sinh dân tộc.  Nhiệm vụ:  Nêu được cách thức để  người dạy thực hiện nhằm tháo gỡ  được những khó khăn vướng mắc cho giáo viên trong hoạt động dạy học, cho  việc tăng thời lượng dạy học và các biện pháp đồng bộ  khác khuyến khích  học sinh thực hiện tốt kỹ năng đọc của mình. 3. Đối tượng nghiên cứu ­ Phương pháp dạy Tiếng Việt, kỹ năng dạy đọc và kỹ năng dạy đọc thành   tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số. 4. Giới hạn của đề tài Học sinh trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng các năm học 2014­2015, 2015­ 2016 và 2016­2017 5. Phương pháp nghiên cứu. ­ Phương pháp phân tích ­ tổng hợp tài liệu; ­ Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập; ­ Phương pháp điều tra, khảo sát; ­ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục;  ­ Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động; ­ Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm. II. Phần nội dung 1. Cơ sở lý luận  “Ngôn ngữ  là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người”  (Lênin). Luận điểm này không chỉ đơn thuần khẳng định ngôn ngữ là phương  tiện giao tiếp mà là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất và là phương tiện  giao tiếp đặc trưng của loài người. Không có ngôn ngữ, xã hội không thể tồn   tại.  Mục đích dạy tập đọc cho học sinh nói chung và dạy kỹ  năng đọc  thành tiếng nói riêng trong nhà trường là để cho HS có thể sử dụng ngôn ngữ  làm phương tiện sắc bén để  giao tiếp, vì vậy phát triển lời nói là nhiệm vụ  quan trọng nhất của việc dạy học tiếng trong nhà trường. Tất cả các giờ dạy   Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 4
  5. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng tiếng Việt, cả  dạy đọc, viết, cả  nghiên cứu ngữ  pháp, từ  ngữ... phải đi theo  khuynh hướng này. HS phải ý thức được chức năng của ngôn ngữ, nắm vững   các phương tiện, kết cấu và quy luật cũng như  hoạt động hành chức của nó.   HS cần hiểu rõ người ta nói và viết không phải chỉ để cho mình mà cho người   khác cho nên ngôn ngữ cần chính xác, rõ ràng, đúng đắn, dễ hiểu. Đồng thời,  vì ngôn ngữ  là phương tiện giao tiếp nên phải lấy hoạt động giao tiếp làm   phương tiện để dạy và học Tiếng Việt. Như  chúng ta đã biết, ngôn ngữ  luôn luôn gắn bó chặt chẽ  với tư  duy,  “Ngôn   ngữ   là   hiện   thực   trực   tiếp   của   tư   tưởng”   (C.   Mác).   Ngôn   ngữ   là  phương tiện của nhận thức lôgíc, lí tính. Chính trong các đơn vị và dạng thức   ngôn ngữ  có sự  khái quát hóa, trừu tượng hóa. Tư  duy của con người không  thể  phát triển nếu thiếu ngôn ngữ. Việc chiếm lĩnh ngôn ngữ  nhằm tạo ra  những tiền đề để phát triển tư duy. Từ đây người ta rút ra những kết luận có   tính chất phương pháp: kiến thức, kĩ xảo ngôn ngữ phải được xem xét như là  những yếu tố của phát triển tư duy, các hệ thống dạy học tiếng Việt cần bảo  đảm mối liên hệ giữa lời nói và tư duy. Phải thường xuyên luyện tập cho HS  khả  năng diễn đạt tư  tưởng của mình bằng những hình thức ngôn ngữ  khác  nhau. Lời nói cần có nội dung, đó chính là tư duy. Dạy tiếng phải dựa trên kinh nghiệm sống và kinh nghiệm lời nói của   HS. Những quan sát và  ấn tượng sống của trẻ  em phải là cơ  sở  cho bài học   tiếng Việt. HS sẽ  đi từ  việc quan sát tiếng nói trong đời sống của nó, thông  qua việc phân tích tổng hợp đến những khái quát hóa, những định nghĩa lí  thuyết, những quy tắc và từ  đó lại quay về  thực tiễn giao tiếp lời nói sống  động trong dạng nói và dạng viết. Kết quả  là các em tiếp nhận được những  mẫu lời nói và quy tắc ngôn ngữ một cách có ý thức.  Trong Phương pháp dạy học Tiếng Việt có thể tìm thấy các nguyên tắc cơ  bản của Lí luận dạy học: nguyên tắc giáo dục và phát triển của dạy học,   nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc khoa học, nguyên tắc hệ  thống, nguyên tắc  gắn liền lí thuyết với thực hành, nguyên tắc trực quan, nguyên tắc tiếp cận cá  thể và phân hóa trong dạy học... Phương pháp dạy học Tiếng Việt vận dụng   những nguyên tắc này theo đặc trưng riêng của mình. Ví dụ  nguyên tắc gắn   liền lí thuyết và thực hành trong phương pháp dạy học Tiếng Việt đòi hỏi  một hoạt động lời nói thường xuyên, biểu hiện ý nghĩ bằng lời nói, viết, cùng   với việc thường xuyên vận dụng những hiểu biết lí thuyết trong bài tập.   Nhiệm vụ  phát triển lời nói đã quy định việc xây dựng chương trình Tiếng  Việt mà tất cả các phân môn đều có mục đích phát triển bốn kĩ năng nghe, nói,  đọc, viết.  Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 5
  6. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng Tiếng Việt là ngôn ngữ  quốc gia và là ngôn ngữ  chính thức dùng trong   nhà trường nên phải xác lập việc dạy tiếng Việt có "quán triệt đặc điểm dân  tộc" Việc tính đến đặc điểm dân tộc đòi hỏi coi trọng biện pháp quy nạp,  biện pháp trực quan, biện pháp giao tiếp, đặc biệt là biện pháp được nâng lên  như một phương pháp "biện pháp đối chiếu” (PGS.Trương Dĩnh). Có thể đối  chiếu trên tất cả cấp độ ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách,...   theo hướng đối chiếu tương đồng để việc dạy học có hiệu quả. Các căn cứ để thực hiện là Công văn 896/BGDĐT­GDTH ngày 13­2­2006  về Hướng dẫn điều chỉnh việc dạy và học cho học sinh tiểu học; Công văn số  9832/ BGDĐT­GDTH ngày 1­9­2006 về  Hướng dẫn thực hiện chương trình  các môn học lớp 1, 2, 3, 4, 5; Công văn số  1015/SGDĐT­GDTH “Hướng dẫn   điều chỉnh nội dung dạy học giáo dục phổ thông cấp tiểu học”  Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 1008/QĐ­TTg củaThủ tướng  Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non và học  sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số”. ngày 17/8/2016.  Công văn số 8114/BGDĐT­GDTH về việc nâng cao chất lượng dạy học  tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu  Dạy học tiếng Việt, trong đó có hoạt động rèn cho học sinh kỹ  năng  đọc là hoạt động thường xuyên, liên tục trong từng tiết học và được dạy từ  lớp Một đến lớp Năm của bậc học tiểu học. Cùng với việc đổi mới phương   pháp dạy học, đổi mới các kỹ  năng dạy học đã được tập huấn và triển khai  trong nhiều năm nay thì chất lượng học môn Tiếng Việt nói chung và chất  lượng đọc thành tiếng của học sinh nói riêng cũng đã có nhiều chuyển biến  đáng kể.  Nhiều năm nay, học sinh dân tộc thiểu số trong trường không còn hiện  tượng lên lớp năm rồi mà còn đánh vần, đọc không ra văn bản nhưng thực tế  thì chất lượng đọc ở nhiều em chưa đáp ứng được Chuẩn kiến thức kỹ năng  cần đạt. Đa số  các em đọc còn sai dấu câu( Đây là lỗi phổ  biến nhất). Phát âm  sai phần vần, đọc sai chữ, ngắt nghỉ không đúng chỗ, đúng nhịp. Các em còn  đọc rất chậm và rất nhỏ, đọc không đúng tốc độ, ngắt ngứ  dẫn đến việc   không diễn đạt được trọn vẹn câu, người nghe khó hiểu. Đọc quá nhỏ cả lớp  và cô không nghe được. Việc học trong đó đa phần là sinh dân tộc thiêu số  đọc thành tiếng   Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 6
  7. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng chưa đảm bảo yêu cầu là do nhiều nguyên nhân: ­ Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của các em. Học tiếng Việt đối với các   em sẽ gặp khó khăn gấp đôi so với học sinh người Kinh. Các em lớp Một đến  trường với vốn từ  vựng tiếng Việt vô cùng hạn hẹp, kiến thức ngữ  pháp và   kỹ năng giao tiếp tiếng Việt ít ỏi.  ­ Mặc dù cả trường đã tổ chức dạy học 9 buổi/ tuần, mỗi tuần các em có   32 tiết thực học  ở  lớp nhưng vì đòi hỏi của môi trường, đòi hỏi của xã hội   phát triển nên số  lượng các môn học cũng nhiều hơn trước đây. Vì thế  thời  lượng dành cho môn Tiếng Việt không nhiều. ­ Vì không đánh giá đúng yêu cầu và tầm quan trọng của việc đọc   thành tiếng trong môn Tiếng Việt nên giáo viên chưa ưu tiên dành nhiều thời  gian để tổ chức cho hoạt động này vì thế hiệu quả không cao. ­ Phương pháp và hình thức tổ  chức đọc không đa dạng vì thế  các em  dễ nhàm chán, không tập trung và không chú ý đọc. ­ Chưa làm tốt công tác phối hợp với gia đình nên không tận dụng được   thời gian ở nhà để các em luyện đọc. Cùng với thực tế thời gian đọc ở  lớp là  quá ít nên các em không được rèn đọc nhiều vì thế ảnh hưởng đến chất lượng   đọc. Cuối năm học 2014­2015: Chất lượng đọc của học sinh như sau: Khối lớp Tổng  HS   đọc  HS   đọc  HS   đọc  HS   đọc  HS   chưa  số   học  diễn  to,   rõ,  đạt   yêu  còn  đọc  sinh cảm tốt trôi chảy cầu(   Đạt  chậm,  được Chuẩn  nhỏ,   sai  KT­KN) nhiều Khối 1 66 3 26 26 8 3 4,5% 39,4% 39,4% 12,1% 4,5% Khối 2 78 4 28 39 5 2 5,1% 35,9% 50% 6,4% 2,5% Khối 3 63 5 14 37 6 1 7,9% 22,2% 58,7% 9,5% 1,6% Khối 4 66 7 25 30 4 Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 7
  8. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 10,6% 37,9% 45,5% 6,0% Khối 5 66 9 20 34 3 13,6% 30,3% 51,5% 4,5% Cuối năm học 2015­2016: Chất lượng đọc của học sinh như sau: Khối lớp Tổng  HS   đọc  HS   đọc  HS   đọc  HS   đọc  HS   chưa  số   học  diễn  to,   rõ,  đạt   yêu  còn  đọc  sinh cảm tốt trôi chảy cầu(   Đạt  chậm,  được Chuẩn  nhỏ,   sai  KT­KN) nhiều Khối 1  50 1 22 19 6 2 2,0% 44,0% 38,0% 12,0% 4,0% Khối 2 67 6 15 41 4 1 8,9% 22,4% 61,2% 5,9% 1,5% Khối 3 78 7 27 40 4 8,9% 34,6% 51,3% 5,1% Khối 4 59 8 27 21 3 13,5% 45,8% 35,6% 5,1% Khối 5 65 11 29 23 2 16,9% 44,6% 35,4% 3,1% 3. Nội dung và hình thức của giải pháp a. Mục tiêu của giải pháp Các giải pháp nhằm tháo gỡ  những khó khăn vướng mắc, đưa ra các biện   pháp ưu tiên trong việc dạy hoạt động đọc thành tiếng cho học sinh. Các giải  pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng đọc. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp. 1. Tăng thời lượng cho môn Tiếng Việt Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 8
  9. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng Xác định môn Tiếng Việt là môn học công cụ, tôi đã giao quyền chủ  động cho giáo viên và các tổ khối trưởng tự lên thời khóa biểu, lựa chọn môn  học và nội dung giáo dục  ưu tiên trong các tiết tăng thêm. Trong đó lưu ý ưu  tiên thời lượng cho môn Tiếng Việt. Trong 3 năm học này, ở học kỳ I khối Một và Hai luôn dành thời lượng   tăng thêm cho môn Tiếng Việt 6­8 tiết/tuần. Sang học kỳ II, tùy lớp, tùy thực   tế học sinh có thể giảm bớt 2­3 tiết Tiếng Việt để tăng cho môn Toán. Ở khối lớp Một  và  Hai, vì môn học theo quy định ít hơn các lớp trên  nên thời lượng để tăng cường cho môn Tiếng Việt nhiều, thuận lợi cho giáo  viên và học sinh.  Việc tăng thời lượng cho môn Tiếng Việt trong năm học 2016­2017 này  không áp dụng được cho khối lớp 4 và 5 vì tổng tiết học của các môn theo quy   định đã là 32 tiết. Vì thế, với khối lớp 4 và 5, giáo viên chủ  nhiệm và giáo viên bộ  môn  phải chú ý ưu tiên cho hoạt động đọc cho học sinh trong tất cả các môn học,   trong mọi hoạt động. Chủ động tăng thời lượng cho hoạt động đọc trong tiết  Tập đọc cũng như trong tất cả các môn học khác. * Số tiết được dạy trong hai năm học 2015­2016 và 2016­2017 như sau: Tổng số tiết  Số tiết theo  Số tiết tăng  Khối Môn học thực dạy quy định thêm Toán 6 4 2 Tiếng Việt 16 10 6 Âm Nhạc 1 1 1 Mĩ Thuật 1 1 Đạo đức 1 1 Thủ công 1 1 TNXH 1 1 Thể Dục 1 1 SHTT 2 2 Tiếng Anh 2 2 Thư viện 1 1 Tổng 32 Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 9
  10. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng Số tiết theo  Số tiết tăng  Khối Môn học Tiết quy định thêm Tiếng Việt 14 8 6 Toán 7 5 2 2 Mĩ Thuật 1 1 Đạo đức 1 1 Thủ công 1 1 Thể Dục 2 2 SHTT 2 2 Tiếng Anh 1 1 Thư viện 1 1 TNXH 1 1 Tổng 32 Số tiết theo  Số tiết tăng  Khối Môn học Tiết quy định thêm Tiếng Việt 9 8 1 Toán 6 5 1 TNXH 2 2 Âm Nhạc 1 1 3 Mĩ Thuật 1 1 Đạo đức 1 1 Thủ công 1 1 Thể Dục 2 2 SHTT 2 2 Tiếng Anh 4 4 Thư viện 1 1 Tin học 2 2 Tổng 32     Số tiết theo  Số tiết tăng  Khối Môn học Tiết quy định thêm Tiếng Việt 8 8 Toán 5 5 Khoa học 2 2 Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 10
  11. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng Âm Nhạc 1 1 4 Mĩ Thuật 1 1 Đạo đức 1 1 Kĩ Thuật 1 1 Thể Dục 2 2 SHTT 2 2 Tiếng Anh 4 4 Lịch sử 1 1 Địa lý 1 1 Thư viện 1 1 Tin học 2 2 Tổng 32 32     Số tiết theo  Số tiết tăng  Khối Môn học Tiết quy định thêm Tiếng Việt 8 8 Toán 5 5 Khoa học 2 2 Âm Nhạc 1 1 5 Mĩ Thuật 1 1 Đạo đức 1 1 Kĩ Thuật 1 1 Thể Dục 2 2 SHTT 2 2 Tiếng Anh 4 4 Lịch sử 1 1 Địa lý 1 1 Thư viện 1 1 Tin học 2 2 Tổng 32 32 Việc ưu tiên dành nhiều thời gian cho môn Tiếng Việt đã giải quyết được  nhiều vấn đề trong đó quan trọng nhất là cô trò đã có khoảng thời gian thích   đáng cho việc rèn luyện kỹ năng đọc thành tiếng. Với học sinh dân tộc thiểu số, một tiết học vần ít  ỏi không thể  nào  Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 11
  12. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng giáo viên hoàn thành mục tiêu bài học. Vì thế, tiết tăng thêm chính là giải  pháp, tiết học này cô trò không phải bó buộc về thời gian. Giáo viên có thể  tổ  chức dạy phân hóa đối tượng học sinh. Tổ chức cho học sinh năng khiếu, học   sinh người Kinh, học sinh đã đọc tốt, học sinh đã đạt chuẩn làm các loại bài  tập khác hoặc luyện đọc các nội dung mới. Với học sinh chưa đọc tốt, giáo  viên dành thời gian đến tận nơi hướng dẫn đọc. Các em cần được rèn phát âm   chuẩn, cần được hướng dẫn cách đọc cho to, rõ ràng, cách đọc đúng. Việc tăng thời lượng dạy cho môn Tiếng Việt không chỉ  là tăng thêm số  tiết để  dạy mà còn tăng thời gian trong các tiết dạy. Vận dụng công văn số  5842/BGD­ĐT, Công văn 896/BGD­ĐT và các hướng dẫn khác. Căn cứ  tình  hình thực tế của học sinh, giáo viên có thể giảm thời lượng cho các tiết học   khác để tăng thời lượng cho môn tiếng Việt. Ví dụ: Ở tiết Thủ công, khi dạy  bài xé dán ngôi nhà, nếu đa số học sinh đã thao tác tốt hoạt động xé dán, giáo  viên có thể  kết thúc tiết học sớm hơn 40 phút. Sau đó,  ở  tiết Tập đọc, giáo  viên chủ động tăng thời lượng lên phù hợp. Để thực hiện được điều này, việc  bố  trí giáo viên dạy thay và giáo viên chủ  nhiệm  phải hợp lý, giáo viên cũng  cần có sự  trao đổi, gắn kết và cộng đồng trách nhiệm trong việc đảm bảo   chất lượng học sinh. Trong mọi môn học, tiết học, giáo viên cần chú ý tăng hoạt động đọc  thành tiếng cho học sinh. Học sinh cần nhiều thời gian để  luyện kỹ  năng đọc,  do đó, tôi chỉ đạo toàn trường, bất kể là giáo viên chủ nhiệm, giáo viên dạy thay  hay giáo viên dạy môn chuyên  đều phải chú ý đến việc rèn kỹ  năng đọc cho   học sinh. Việc dành cho học sinh cơ  hội đọc là điều không khó đối với giáo   viên trong một tiết dạy nếu giáo viên chú ý. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc to   thành tiếng trong hoạt động kiểm tra bài cũ, trong hoạt động đọc để  khai thác   chiếm lĩnh tri thức mới, đọc trong phần yêu cầu luyện tập, đọc trong các nội  dung trò chơi, các nội dung củng cố,... Từ  đó, các em được đọc to thành tiếng   nhiều thay vì đọc thầm các yêu cầu và các nội dung. Đây cũng là một hoạt động  góp phần to lớn trong việc rèn kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh.  Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 12
  13. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 2. Tổ  chức các chuyên đề  nâng cao kỹ  năng dạy tập đọc cho học  sinh. Muốn tiết học và các hoạt động dạy học đạt hiệu quả  thì người dạy   phải có các kỹ năng dạy học nhất định. Đây là một yếu tố quan trọng. Ngoài  đòi hỏi giáo viên phải tận tâm, thương yêu học sinh và có thinh thần trách  nhiệm thì người giáo viên cần có một phương pháp và hình thức tổ chức dạy   học phù hợp. Điều này quyết định chất lượng dạy học. Với học sinh bình thường và nhận thức của học sinh ttrong lớp tương  đối đồng đều thì việc tổ chức dạy học sẽ dễ dàng hơn, ít mất thời gian hơn.   Nhưng với lớp có nhiều đối tượng học sinh và lớp có nhiều học sinh dân tộc  thiểu số  không đáp  ứng được yêu cầu về  đọc thì mỗi người giáo viên cần   phải có một số yêu cầu nhất định để đáp ứng yêu cầu dạy học. Vì thế, tôi đã chỉ  đạo bộ  phận chuyên môn và các khối trưởng lên kế  hoạch chuyên đề, tập huấn về dạy học Tiếng Việt và quan trọng là dạy Tập  đọc cho học sinh. Tùy từng khối lớp mà tổ chức các chuyên đề phù hợp. Khối lớp Một của trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng trong hai năm học  Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 13
  14. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 2015­2016   và   2016­2017   đang   học   chương   trình   Tiếng   Việt   Công   Nghệ.   Chương trình này có nhiều ưu điểm nhưng cũng không ít khó khăn đối với học   sinh dân tộc thiểu số. Với học sinh có trình độ  tiếp thu khá, cách học này dễ  kích thích tư  duy logich, các em nắm bắt nhanh và đọc, viết khá hoàn chỉnh   tiếng Việt sau khi hoàn thành lớp Một. Với học sinh dân tộc thiểu số  và các  em tiếp thu chậm, các em sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận dạng, tư  duy để  đọc lên một tiếng. Vì thế khối lớp Một sẽ  tổ chức những chuyên đề  thiết thực về cách thức để hướng dẫn học sinh đọc. Các tiết chuyên đề  cũng  phải sáng tạo và phù hợp nội dung cần giải quyết. Một tiết dạy chuyên đề  không nhất nhất phải dạy hết cả tiết, góp ý hết cả  tiết mà sẽ  bốc tách từng   hoạt động, từng nội dung cần giải quyết. Ví dụ, ở học kỳ II khối lớp Một tổ chức chuyên đề: “Nâng cao kỹ năng   đọc thành tiếng cho học sinh lớp Một”. Nhà trường sẽ  định hướng cho giáo   viên và khối trưởng khối Một những nội dung cần chuẩn bị. Tất nhiên nội  dung này chính là những yêu cầu cần thiết của giáo viên dạy khối Một. Nội  dung chuyên đề phải có hai phần. Phần lý thuyết phải nêu được thực trạng và  những nội dung cần đạt tới. Phần thực hành giáo viên dạy minh họa bằng một  số hoạt động. Không nhất thiết phải dạy hết cả một tiết, một bài mà chỉ cần   chọn lựa những nội dung cho thấy việc “ Nâng cao kỹ năng đọc thành tiếng”   cho học sinh. Đây là hoạt động cốt lõi mà giáo viên thực hiện chuyên đề cần   chuyển tải. Giáo viên cần thể  hiện được nội dung phải làm gì, đã làm gì để  rèn, để nâng cao kỹ  năng đọc thành tiếng cho các em. Sau đó, toàn trường sẽ  góp ý, rút ra những kinh nghiệm cần thiết trong dạy học. Các tiết chuyên đề  này rất thiết thực. Đây là một trong những hình   thức nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên đồng thời đáp  ứng yêu cầu  đòi hỏi hiện tại để  mỗi giáo viên hoàn thành nhiệm vụ. Từ  đó, nâng cao kỹ  năng đọc thành tiếng cho học sinh. Với khối lớp Bốn và Năm, cũng nội dung chuyên đề  “ Nâng cao kỹ  năng đọc thành tiếng cho học sinh”. Hình thức và nội dung giải quyết sẽ khác.  Nghĩa là chuyên đề  phải giải quyết được vấn đề: Làm sao nâng cao kỹ  năng  đọc cho học sinh trong điều kiện thời gian hết sức hạn hẹp. Không có tiết   Tiếng Việt tăng thêm, thời gian để các em học các môn khác là quá nhiều. Tiết  Tập đọc được tổ chức trong 40 phút đòi hỏi các em phải giải quyết nhiều vấn  đề hơn là chỉ đọc thành tiếng. Dĩ nhiên, khối lớp Bốn và Năm không phải tìm   giải pháp để  học sinh đánh vần được nhưng phải giải quyết vấn  đề  còn  nhiều em đọc quá yếu, đọc quá chậm, đọc quá nhỏ, đọc sai từ, ngắt nghỉ  sai   nhịp, sai dấu câu,...Đọc chưa đạt yêu cầu của Chuẩn kiến thức­ kỹ  năng về  Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 14
  15. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng tộc độ và các yêu cầu khác.  Như  vậy, trước những yêu cầu thiết thực trên, khối lớp Bốn và Năm  sẽ  tổ  chức chuyên đề  thiên về  lý thuyết, tất nhiên cũng phải có thực hành   minh họa. Giáo viên sẽ đưa ra các cách thức giải quyết các vấn đề trên, sau đó   thảo luận để thống nhất và thực hiện. Trong quá trình áp dụng thực hiện còn  phải điều chỉnh bổ sung để tìm ra cách thức hay nhất. Ví dụ, ở khối lớp Năm hiện nay còn có nhiều em đọc chưa đạt chuẩn, giáo  viên chủ nhiệm không thể chỉ dành thời gian cho em luyện mỗi việc đọc thành  tiếng bởi còn có rất nhiều nội dung cần giải quyết trong tiết học, còn rất  nhiều học sinh khác cần được giúp đỡ. Vì vậy, chuyên đề đưa ra các giải pháp  yêu cầu sự vào cuộc của mọi giáo viên. Bất cứ  giáo viên nào dạy vào lớp đó   cũng phải chú ý các em, cũng phải  ưu tiên dành cho các em thời gian được  đọc. Phải chú ý rèn cho các em kỹ năng phát âm đúng, đọc to, đọc rõ, đọc đúng   tộc độ,... Các giải pháp trên được thảo luận, thống nhất trong chuyên đề  và  đã thực hiện hiệu quả. 3. Đổi mới phương pháp và các hình thức dạy học Phương pháp dạy học là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng dạy   học. Giáo viên không có phương pháp dạy học phù hợp thì sẽ  không đạt yêu  cầu như mong muốn. Vì thế, giáo viên luôn phải đổi mới và lựa chọn phương   pháp dạy học pù hợp. Đối với từng khối lớp thì hoạt động đọc thành tiếng có đặt trưng riêng.  Với học sinh lớp Một, hoạt động đọc là hoạt động chủ  đạo, đa số  thời gian  trên lớp được dành cho các em học để  nhận dạng chữ, tiếng, từ, để  các em   tập đọc. Đến lớp Hai, Ba, các em phải tự đọc nhiều hơn vì thời gian còn cần   nhiều cho các hoạt động khác. Lên đến lớp Bốn, Năm, hoạt động rèn kỹ năng   đọc chỉ  còn gói gọn trong thời gian ngắn  ở  phân môn Tập đọc, ngoài hoạt   động đọc, các em còn phải tìm hiểu văn bản và các nội dung khác cần giải   quyết. Vì thế, người giáo viên cần phải linh động, phải tùy thực tế và tùy vào   học sinh để dành thời gian tổ chức hoạt động này phù hợp. Không nhất thiết  vì một em đọc chưa đạt yêu cầu mà bắt cả  lớp phải rèn đọc đi đọc lại một  văn bản mà phải dạy theo đối tượng học sinh để đạt kết quả cao nhất. Việc dạy phân hóa đối tượng học sinh là rất quan trọng. Đối với các em  học sinh có khả năng tiếp thu chậm hơn bạn, giáo viên cần quan tâm đúng khả  năng để các em được học vừa sức và hiệu quả. Ví dụ, thay vì bắt một em học sinh lớp Hai ( em này có khả  năng tiếp thu   chậm, đọc chưa tốt) phải làm hết một bài toán giải, có trình bày lời giải, phép  Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 15
  16. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng tính, đáp số hoàn chỉnh như  các bạn thì cô có thể  thay yêu cầu khác. Vì ai đã  trải qua giảng dạy cũng biết điều này, với một học sinh lớp Hai mà tiếp thu  chậm, đọc chưa tốt thì yêu cầu này là không khả thi. Vì vậy, giáo viên có thể  thay yêu cầu cho em đó là phải tập đọc và cố hiểu đề. Giáo viên dành cho em  thời gian tự đọc đề bài toán, sau đó giáo viên đến bên nghe em đọc, phải kiên  nhẫn nghe em đọc xong đề. Giáo viên chỉ cần hỏi một vài câu theo yêu cầu ví  dụ  như: Bài toán yêu cầu tìm gì em? Thế  em đã đọc đề  rồi, đã biết Tổng số  cây ăn trái là bao nhiêu không?,...Có thể  yêu cầu với em chỉ  dừng lại  ở  đó.  Trong tiết học này, dù mục tiêu chính là học Toán nhưng giáo viên cũng đã   quan tâm dành cho học sinh thời gian đọc, đã cho học sinh cơ hội được rèn cái  mình cần. Và các yêu cầu sẽ  dần dần được bổ  sung để  học sinh thấy việc  học không nặng nề, không áp lực. Từ  đó các em đến trường thường xuyên  hơn. Chất lượng học tập ngày càng cải thiện hơn. Giáo viên cần linh hoạt trong việc lựa chọn và phối hợp các phương pháp  dạy học. Linh hoạt trong việc tổ  chức các hình thức cho từng hoạt động cụ  thể. Quan trọng là giáo viên phải phân hóa được đối tượng học sinh để  có   phương pháp dạy phù hợp và hiệu quả. Ở đây đang nói đến việc đổi mới phù hợp hướng giải quyết cho học sinh   được tiếp cận nhiều với văn bản, cho học sinh được rèn đọc thành tiếng   nhiều và là tiết dạy chú ý phân loại đối tượng học sinh theo trình độ đọc.  Và việc đổi mới đó đòi hỏi với tất cả giáo viên dạy ở tất cả  các môn chứ  không riêng môn Tiếng Việt. 4. Lồng ghép dạy kỹ năng đọc trong tất cả các môn học và hoạt động  Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 16
  17. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng giáo dục Đây là giải pháp đồng bộ  trong trường. Đứng trước thực tế  khả  năng  đọc thành tiếng của học sinh dân tộc và một số  ít học sinh người Kinh trong   trường, tôi mạnh dạn chỉ  đạo tất cả  giáo viên tiểu học và các giáo viên bộ  môn thực hiện tăng cường dạy đọc cho học sinh. Trong tất cả các môn học, hoạt động đọc thành tiếng cho học sinh phải   là hoạt động  ưu tiên. Giáo viên cần coi trọng việc cho học sinh đọc tốt nội   dung trước khi khai thác tìm hiểu bài. Các em sẽ được đọc cá nhân, đọc nhóm,   đọc đồng thanh,... các kênh chữ, các đoạn văn bản chứa nội dung cần khai   thác trước. Ví dụ: Với giáo viên dạy Âm nhạc, khi dạy bài hát Bàn tay mẹ  (lớp  Hai), giáo viên sẽ   ưu tiên hoạt động đọc lời bài hát nhiều hơn bình thường.   Thay vì   chỉ  đọc 2 lần lời bài hát , cô sẽ  cho học sinh dân tộc đọc 4­5 lần.  Thay vì mỗi lượt là một em đọc bài hát, giáo viên cho học sinh dân tộc thiểu  số đọc 1 hoặc 2 câu nối tiếp. Như vậy, sẽ nhiều em được đọc. Các em được   đọc thành tiếng nhiều lần, cô phải chú ý theo dõi sửa sai cụ  thể   nhờ  thế  kỹ  năng đọc được nâng cao hơn, các hoạt động khác có thể ít thời gian hơn. Với giáo viên dạy các môn Tin học, Thể dục hay Mỹ thuật, Thủ công  cũng tương tự. Tùy vào thực tế bài dạy mà sử dụng thời  gian để ưu tiên cho  học sinh được đọc cá nhân nhiều hơn. Ví dụ đọc kênh chữ trong phần hướng  dẫn thực hành trước khi thực hành trên máy  ở  môn Tin học, đọc phần giới  thiệu, nhận xét  ở  môn Mỹ  thuật hay thậm chí có thể  đưa một văn bản ngắn   như  một hiệu lệnh, một trò chơi để  học sinh đọc trước khi thực hiện trong   môn Thể dục. Trong các  hoạt   động  giáo dục  khác,  giáo viên  cũng càn  chú  ý kỹ   năng   đọcthành tiếng cho học sinh. Phần thiết kế chương trình bao giờ cũng lưu ý có  nội dung cho học sinh đọc. Tạo điều kiện cho các em được giao lưu để  phát  triển các kỹ năng giao tiếp thông qua hoạt động đọc. Năm học 2016­2017, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng là một trong bảy  trường tiểu học của huyện Krông Ana được tổ  chức Room to Read chọn tổ  chức thư viện thân thiện. Thư viện thân thiện được thiết lập và đưa vào hoạt  động. Rất nhiều điều thú vị và bổ ích cho học sinh khi tổ chức hoạt động này.   Học sinh được đọc nhiều sách, truyện hay, nội dung phong phú trong không  gian đẹp. Việc này góp phần kích thích các em muốn đến thư  viện. Ngoài ra,  mỗi tuần các em sẽ có 01 tiết đọc thư  viện. Tiết đọc thư  viện có nhiều hình   thức đọc đa dạng, từ đó các em cũng được rèn nhiều kỹ năng đọc. Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 17
  18. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng Ngoài các tiết đọc thư  viện trong chương trình, nhà trường luôn có nhiều  hình thức khuyến khích các em đọc. Học sinh còn được mượn truyện về  lớp  đọc, về nhà đọc. 5. Tổ chức thi đọc thành tiếng Đây là hoạt động xuyên suốt trong nhiều năm. Hoạt động này nhằm   khuyến khích các em đọc. Vào các tiết sinh hoạt tập thể, tôi chỉ đạo giáo viên   Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 18
  19. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng chủ   nhiệm   lồng  ghép  vào   nội  dung  thi   đọc.  Vào  tiết  Chào   cờ   đầu  tháng,   chương trình dành khoảng 15 phút để thi đọc cho từng khối. Từ  tháng 10, sẽ  tổ chức cho các em học sinh khối Năm. Các em được lựa chọn là học sinh đã   được lựa chọn  ở  các lớp trong các lần sinh hoạt tuần. Rồi lần lượt đến các   khối lớp khác.  Yêu cầu đòi hỏi  ở  đây không cao. Nội dung đọc diễn cảm không đòi hỏi  nhiều. Mà yêu cầu chính là đọc to, rõ cho cả  trường cùng nghe. Yêu cầu này   giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn trước tập thể.  Sau m ỗi bu ổi, các em sẽ có  những phần quà nhỏ để khuyến khích. Như vậy không chỉ những em đọc hay,   đọc diễn cảm tốt mới đọc mà rất nhiều em được đọc trước tập thể. Đây là kinh nghiệm tôi học hỏi được khi là giáo viên dạy  ở  trường Tiểu  học Trần Phú. Ở đây, hoạt động thi đua đọc được diễn ra hàng tuần trong tiết  chào cớ đầu tuần. Hoạt động này rất hay và đã phát hiện, bồi dưỡng được rất  nhiều học sinh đọc diễn cảm.  Đối với trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng, nội dung và thang điểm chấm  khác, không đòi hỏi nhiều ở yêu cầu đọc diễn cảm. Bởi mục đích ở đây không   chỉ để phát hiện học sinh đọc tốt mà còn là một phong trào thi đua nhẹ nhàng   thiết thực để  nhiều em được đọc, nhiều em được thể  hiện trước đám đông   nhằm rèn kỹ năng đọc  cho các em và quàn trọng là để các em thấy hoạt động   đọc thành tiếng là một việc quan trọng. Từ đó, các em có ý thức tự đọc, tự rèn   kỹ  năng đọc và bồi dưỡng cho các em tự  tin hơn, mạnh dạn hơn trong mọi   hoạt động. 6. Phối hợp với gia đình và khuyến khích học sinh đọc mọi lúc,   mọi nơi. Một yếu tố  không thể  tách rời trong việc giáo dục và rèn luyện học  sinh đó là gia đình. Thời gian các em  ở  nhà không ít. Việc đọc thành tiếng  ở  nhà phải là một hoạt động thường xuyên. Các em ngân nga câu, chữ ở nhà khi  nấu cơm, quét nhà giúp mẹ, khi trông em,...cũng là niềm vui cho gia đình và   góp một phần to lớn trong việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc. Vì thế, trong những lần họp cha mẹ học sinh, nhất là lần họp đầu năm,   tôi yêu cầu giáo viên chủ nhiệm phải đưa vào nội dung nhắc nhở cha mẹ các  em. Giáo viên chủ nhiệm trao đổi riêng với cha mẹ các em có kỹ năng đọc còn   hạn chế để hướng dẫn cách giúp đỡ, chỉ bảo các em đọc. Với một số  cha mẹ không biết tiếng Việt, việc nhắc nhở con em đọc  cũng dễ  dàng, cha mẹ  chỉ  cần nhắc thường xuyên và lắng nghe các em đọc,  cho các em biết rõ rằng, việc không biết đọc tiếng Việt như  mẹ( cha) là vô  Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 19
  20. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh dân tộc thiểu số   trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng cùng bất tiện. Và với các con, các con cần luyện đọc nhiều, chăm chỉ đọc để  ngày càng đọc đúng, đọc hay. Việc phối hợp với gia đình trên thực tế đã có những kết quả nhất định.  Cha mẹ  quan tâm hơn đến việc học của con. Học sinh lấy việc đọc bài văn,  bài thơ cho cha mẹ nghe làm niềm vui nên các em có nhiều hứng thú hơn trong  việc luyện đọc. Ở  nhà, các em có thói quen đọc nên cũng quan tâm đến việc người khác   đọc. Anh chị  lớp trên cũng có thói quen chú ý, rèn đọc và sửa sai cho các em   lớp dưới. Việc này được cha mẹ  học sinh hoan nghênh. Tạo được dư  luận   tốt, đồng tình trong phụ huynh. c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp. Tất cả các biện  pháp trên có mối quan hệ rất chặt chẽ, trong đó việc  chỉ  đạo đồng bộ  tăng thời lượng dạy tiếng Việt cho học sinh đã giải quyết  được rất nhiều khó khăn cho giáo viên và tạo được nhiều thuận lợi cho học   sinh trong học tập môn Tiếng Việt nói chung và thời gian rèn kỹ năng đọc nói  riêng. Hồ Thị Mỹ Hạnh, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2