intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm để thực hiện tốt phong trào “Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực

Chia sẻ: Hòa Phát | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:23

89
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này trình bày những vấn đề liên quan đến 5 nội dung của phong trào “Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm góp phần vào việc thực hiện tốt nhiệm vụ năm học, đào tạo con người mới phát triển toàn diện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm để thực hiện tốt phong trào “Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực

  1.   I. PHẦN MỞ ĐẦU  I.1. Lý do chọn đề tài  Năm 2008 ­ 2009 ngành giáo dục phát động phong trào thi đua “  Xây dựng   trường học thân thiện,   học sinh tích cực”, đây là bước tiến vượt bậc của   ngành, tạo cho giáo viên làm việc trong bầu không khí tích cực. Phong trào này  giúp cho việc giáo dục học sinh chủ  động thân thiện hơn, tích cực hoạt động  trong học tập, bước đầu rèn luyện kĩ năng sống cho các em như: Học để  biết.  Học để làm. Học để  tự  khẳng định mình. Học để  cùng chung sống. Phong trào  đã được bộ, sở, trường học, tổ  chuyên môn triển khai sâu rộng. Toàn ngành đã  ra sức thực hiện phong trào thi đua, đến nay đã thu được những thành tích đáng  kể, đóng góp một phần không nhỏ  vào việc nâng cao chất lượng giáo dục học  sinh, thi đua dạy tốt, học tốt, đào tạo nguồn nhân lực có đủ phẩm chất, năng lực   phục vụ  để  xây dựng đất nước. Trường học hiện nay không những cung cấp  cho học sinh những tri thức khoa học một cách có hệ thống, mà còn rèn cho các   em những kĩ xảo, kĩ năng sống cần thiết để  hình thành và phát triển những  phẩm chất tốt đẹp.  Năm học 2014­2015 ngành vẫn tiếp tục chỉ  đạo các trường đẩy mạnh  thực hiện phong trào này với những yêu cầu cao hơn, thiết thực hơn, phù hợp   với tình hình thực tế  của nhà trường. Để  phong trào thi đua “Xây dựng được   trường học thân thiện, học sinh tích cực” thực sự có bề rộng và chiều sâu, đem  lại hiệu quả cao, thiết thực trong hoạt động dạy và học, giúp các em hứng thú,   chủ  động, sáng tạo, có các mối quan hệ  thật sự  thân thiện, tôi luôn băn khoăn,  trăn trở với bao câu hỏi tự đặt ra cho bản thân: “  Làm thế nào để HS đi chuyên   cần?”;  “Làm thế  nào để các em hứng thú học tập hơn?”; “ Làm sao các em có   cảm giác, mỗi ngày đến trường là một niềm vui?” “ Làm sao giáo viên nói  ít   mà học sinh hiểu nhiều hơn ?”  Là một giáo viên chủ nhiệm tôi thấy rằng muốn   xây dựng được trường học thân thiện, học sinh tích cực thì phải bắt đầu từ việc   xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực. Vì mỗi lớp học thân thiện, học  sinh tích cực là một viên gạch nền móng vững chắc cho một ngôi trường thân  thiện, học sinh tích cực hoàn thiện và nhanh nhất. Chính những lí do trên đã thúc  đẩy tôi nghiên cứu, trải nghiệm đồng thời tích lũy những kinh nghiệm để  thực  hiện tốt phong trào “Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Góp phần  vào việc đào tạo thế  hệ  trẻ  phát triển một cách toàn diện đáp  ứng thời kì mở  cửa, hội nhập và phát triển của đất nước.  I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Thực tế  cho thấy ngành giáo dục đã từng bước chuyển mình, có những  thay đổi đáng kể để phù hợp với thời kì đổi mới. Nội dung, phương pháp, hình  thức dạy học, cách đánh giá cũng được đổi mới, trường học ngày một khang  1
  2. trang nhưng chất lượng giảng dạy vẫn còn hạn chế.  Vẫn còn học sinh đi học   chưa chuyên cần, vẫn còn nhiều học sinh chưa chủ động, tích cực, tự  giác học  tập, không khí lớp học không phải lúc nào cũng thoải mái… Vậy  “Làm thế  nào  để các em hứng thú học tập hơn?” “ Làm sao để các em có cảm giác, mỗi ngày   đến trường là một niềm vui?” “ Làm sao giáo viên nói  ít mà học sinh hiểu nhiều   hơn ?” “ Làm sao để các em lĩnh hội tri thức một cách nhẹ  nhàng, chủ  động? ”   Làm sao để huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà   trường để xây dựng một môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù  hợp với điều kiện thực tế  của trường, lớp, đáp  ứng nhu cầu của xã hội, khắc  phục được tính thụ  động của học sinh. Đó là một vấn đề  rất nan giải, không  phải giáo viên nào cũng làm được hay làm được ở tất cả các tiết học. Cha mẹ  học sinh cũng chưa nhận thấy rõ vai trò, trách nhiệm của mình  trong việc học của con cái. Sự  thân thiện giữa giáo viên, học sinh, cha mẹ  học   sinh có phần hạn chế. Hiện nay nền giáo dục nước nhà đang chú trọng vào giáo dục con người  phát triển toàn diện. Để góp phần vào việc thực hiện mục tiêu chung của ngành,   nâng cao chất lượng dạy và học, đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Xây   dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ta cần phải có bước đột phá  trong cách nghĩ cũng như  cách làm. Tiếp tục đẩy mạnh việc trang trí lớp, tạo  môi trường học tập thân thiện. Đẩy mạnh cách dạy học lấy học sinh làm trung  tâm. Nắm được dấu hiệu đặc trưng của dạy học truyền thống và dạy học lấy   học sinh làm trung tâm. Xác định được các hoạt động mà giáo viên và học sinh  có thể  tiến hành trong dạy ­ học. Tạo ra được môi trường học tập thân thiện  trong giảng dạy và giáo dục để  cuốn hút học sinh tích cực, chủ  động tham gia  vào học tập, rèn luyện. Tạo được cơ hội cho học sinh tự khám phá, tìm tòi. Để  làm tốt được việc đó thì giáo viên phải tự học, tự rèn để có một số kỹ năng cơ  bản, cần thiết và vận dụng linh hoạt vào quá trình dạy học. Người dạy cần   thực hiện đúng vai trò của mình chỉ là người cố vấn, tổ chức hoạt động, giúp đỡ  và hỗ trợ các em học tập. Học sinh phải phát huy được tính tích cực, chủ động,  sáng tạo trong hoạt động học tập. Tuyên truyền, động viên, khuyến khích được   cha mẹ học sinh, các lực lượng khác cùng chung tay góp sức để giúp đỡ  các em  trong quá trình học tập và rèn luyện. I.3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh và giáo viên giảng dạy  ở  tiểu học. Cụ  thể  là giáo viên và học   sinh khối lớp 5 và khối 2 trường TH Phan Bội Châu.  I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 2
  3. Học sinh và giáo viên giảng dạy  ở  tiểu học. Cụ  thể  là giáo viên và học   sinh khối lớp 5 và khối 2 năm học 2013­2014 và 2014­2015 của trường TH Phan   Bội Châu. Đề  tài này trình bày những vấn đề  liên quan đến 5 nội dung của phong  trào “Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm góp phần vào việc  thực hiện tốt nhiệm vụ năm học, đào tạo con người mới phát triển toàn diện. I.5. Phương pháp nghiên cứu            Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau : ­ Phương pháp thu thập, nghiên cứu, phân tích các tài liệu như công văn  chỉ  đạo thực hiện phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”  của các cấp, các văn bản chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm học, các tài liệu liên   quan.        ­ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.        ­ Dự giờ, trao đổi với đồng nghiệp.       ­ Dạy thực nghiệm, trải nghiệm thực tế.        ­ Kiểm tra bằng nhiều hình thức khảo sát chất lượng bám sát vào 5 nội   dung của phong trào từ đó đánh giá học sinh không chỉ về kiến thức mà cả các kĩ  năng.         ­ Đúc rút kinh nghiệm.   II.  NỘI DUNG II.1. Cơ sở lí luận Như mỗi chúng ta đã biết, một môi trường giáo dục tốt sẽ là nơi học sinh  phát triển nhân cách tốt. Các em thấy được mỗi ngày đến trường là một ngày   vui, từ  đó thêm yêu trường, yêu lớp, gắn bó với “Ngôi nhà thứ  hai” của mình.  Trang trí lớp học thân thiện là một sự  sáng tạo nhưng   phải phù hợp với đặc  điểm tâm lí của học sinh tiểu học. Giúp học sinh cảm nhận được cái đẹp và có  ý thức giữ gìn trường lớp của mình sạch sẽ. Lớp học thân thiện phải là một lớp  học không những trang trí đẹp mà phải có ý nghĩa và mang tính giáo dục cao.   Ngoài những qui định về  trang trí của ngành, giáo viên chủ  nhiệm có thể  sáng  tạo thêm sao cho hài hòa, đẹp. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cũng là  một việc làm hết sức quan trọng. Việc làm này phải thực hiện thường xuyên,   liên tục nhưng lại không có một tiết học riêng biệt mà cần phải có sự linh hoạt   trong việc tích hợp hài hòa của giáo viên trong các môn học, tiết học. Giáo dục  các em những kĩ năng sống cơ bản như biết quan tâm, chia sẻ , động viên, thăm   3
  4. hỏi lẫn nhau...Hình thành cho các em luôn có thái độ  thân thiện trong giao tiếp   với mọi người. Đối với mỗi giáo viên, để thực hiện tốt nhiệm vụ trồng người,   mỗi chúng ta cần tích cực học tập, rèn luyện, không ngừng phấn đấu vươn lên  để  có cả  đức và tài, thực sự  là tấm gương sáng cho các em noi theo. Vì  ở  lứa   tuổi học sinh tiểu học khác với những lứa tuổi khác. Giáo viên tiểu học tạo nền   móng cho các em vươn lên. Nền móng có vững thì sự  phát triển của các em sau   này sẽ  vững chãi. Người thầy, cô  ở  tiểu học phải thực sự là người cha, người  mẹ thứ hai của các em để các em không có cảm giác sợ sệt mà thay vào đó là sự  kính trọng, thân thiện.   Ở tiểu học phần lớn các em rất tò mò, hiếu động, thích tham gia các trò   chơi tập thể. Chính vì vậy mà việc tổ chức cho các em tham gia vào các trò chơi   tập thể   là một việc làm hết sức cần thiết. Thông qua các hoạt động“ Học mà  chơi – Chơi mà học” giúp các em dễ  hòa đồng với bạn bè, góp phần nâng cao  chất lượng giáo dục toàn diện.  Khi các lớp học đã học đã thực sự thân thiện, học sinh thực sự tích cực thì  sẽ  góp phần tạo nên một trường học thân thiên – học sinh tích cực. Mối thân  thiện giữa thầy và trò, nhà trường với cha mẹ  học sinh ngày một tăng thêm.  Giúp các em không những nắm được kiến thức một cách chủ  động, nhẹ  nhàng  mà còn rèn cho các em nhiều kĩ năng khác góp phần giáo dục con người mới,   con người phát triển toàn diện.  II. 2. Thực trạng a) Thuận lợi, khó khăn *  Thuận lợi ­ Được Ban giám hiệu quan tâm trang bị tương đối đầy đủ  về  cơ  sở  vật  chất như  phòng học khang trang, có bảng chống loá, tủ  đựng đồ  dùng, thiết bị  dạy học, bàn ghế đầy đủ... Hàng năm nhà trường mua sắm bổ sung thiết bị dạy   học, giáo viên thường xuyên tự làm đồ dùng để dạy học. Đội là một tổ chức hỗ  trợ tốt cho việc thực hiện phong trào này.            ­ Được Phòng giáo dục, Ban giám hiệu tạo điều kiện cho tham gia lớp   tập huấn và cung cấp đầy đủ  các văn bản có liên quan đến việc chỉ  đạo thực   hiện các nhiệm vụ và phong trào thi đua. ­ Một số  cha mẹ  học sinh đã quan tâm đến việc học của con, phối kết   hợp với giáo viên giúp các em học tập, rèn luyện tốt. Đóng góp đầy đủ  để  xây   dựng trường. Không những đóng góp kinh phí mà còn tự nguyện tham gia ngày,  giờ công để góp phần xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp. ­ Một số  học sinh đã có ý thức trong học tập, rèn luyện, tích cực hưởng   ứng phong trào thi đua. 4
  5. ­ Đây chính là kim chỉ nam giúp tôi càng hăng say nghiên cứu đề tài này.  * Khó khăn ­ Học sinh còn nhỏ  nên khả  năng giao tiếp còn hạn chế, bên cạnh đó só  em lại  ở  trọ  hoặc sống với cô, dì, ông bà, sự  dạy bảo, điều chỉnh các em thực   hiện kĩ năng soosngs còn hạn chế. ­   Đồ  dùng dạy học trong nhà trường chưa được được phong phú, đa  dạng.           ­ Để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập của học sinh và tạo hứng thú  học tập cũng như tích cực hưởng ứng phong trào thi đua cho học sinh, đòi hỏi ở  người giáo viên rất nhiều điều. Trước hết phải có tay nghề  vững vàng, phải   biết yêu nghề, mến trẻ, tức là phải có năng lực sư phạm, phải thực sự coi mình   là người mẹ thứ hai của các em, gần gũi để các em tâm sự, giãi bày.             ­ Một số đồng nghiệp không ủng hộ  vì để  làm được việc đó phải mất  nhiều công sức, thời gian. Một khó khăn nữa là khả năng cảm nhận cái đẹp của  mỗi giáo viên khác nhau, người thì khéo léo trong việc trang trí nhưng phần lớn  giáo viên lớn tuổi thì họ không hứng thú với điều này. Một số giáo viên vẫn còn   chỉ  coi trọng việc dạy kiến thức cho học sinh mà ít quan tâm tới giáo dục kĩ   năng cho các em.  Cũng có giáo viên đã quan tâm tới việc tích hợp giáo dục kĩ năng nhưng khả  năng tích hợp chưa linh hoạt.            ­ Để thực hiện được đề tài này đòi hỏi giáo viên phải tìm tòi, chịu hy sinh   thời gian của mình để  học hỏi, đưa ra nhiều tình huống có thể  xảy ra để  có  hướng giải quyết, phải nhiệt tình, hết lòng vì học sinh. Bước đầu thực hiện nên  còn gặp nhiều bỡ ngỡ, chưa có tính linh hoạt. ­ Thời gian được tập huấn nội dung này còn ít, giáo viên chưa được tham   quan mô hình thực hiện cụ thể mà chỉ mới chỉ thực hiện thông qua học lý thuyết  hiểu sao thì làm vậy. ­ Học sinh chưa quen với cách học mới, một số  em chưa đủ  đồ  dùng để  tham gia học, chưa có ý thức học tập. ­ Một số cha mẹ học sinh chưa quan tâm đến việc học và còn thờ  ơ  đến   việc trang bị  đồ  dùng học tập cho các em, đóng góp còn chậm. Một số  cha mẹ  còn coi nặng việc học kiến thức, xem nhẹ việc giáo dục các kĩ năng sống cho   các em.           b) Thành công, hạn chế            * Thành công 5
  6. ­ Lớp học trang trí đẹp, hài hòa, học sinh thích đến lớp, yêu quí lớp, khơi   dậy cho học sinh phải trăn trở mình phải đóng góp gì vào đây để lớp mình thêm  đẹp từ  đó các em tìm tòi và thể  hiện tài năng của mình có thể  là vẽ, viết, xé   dán...            ­ Học sinh thoải mái trao đổi, thắc mắc trong quá trình tiếp thu, lĩnh hội  kiến thức mới. Nắm, ghi nhớ được chắc kiến thức ngay tại lớp.            ­  Không khí lớp học tươi vui, tất cả học sinh đều phải làm việc, pháp   huy được tính chủ động, tích cực của học sinh, các hoạt động của lớp có sự thay   đổi rõ rệt. Các em biết quan tâm tới nhau hơn, tự  giác giúp đỡ  nhau trong học  tập cũng như  vui chơi. Lớp học trở  thành một khối đoàn kết thống nhất, tích   cực thi đua học tập và tham gia các phong trào mà các cấp phát động.            ­ Giáo viên điều chỉnh được những suy nghĩ chưa đúng đắn, còn lệch lạc,   mơ  hồ   ở  học sinh. Tạo được mối quan hệ  thân thiện trong giao tiếp với học   sinh giúp khoảng cách giữa giáo viên và học sinh gần gũi hơn. Giảng dạy, giáo  dục học sinh không chỉ là kiến thức của bài mà giáo dục toàn diện cho học sinh   như các kỹ năng giao tiếp, kĩ năng ứng xử ... ­ Giữ  gìn được bản sắc văn hóa của dân tộc thông qua các trò chơi dân  gian, hiểu để  từ  đó giữ  gìn và phát huy được giá trị  văn hóa của dân tộc, địa   phương. * Hạn chế Một số giáo viên chưa hiểu rõ về tầm quan trọng, tính giáo dục của việc  trang trí, cứ thấy đẹp là dán lên nên việc trang trí chưa khoa học, lòe loẹt, phòng  học tối vì trang trí nhiều hoa lá trên cửa sổ. Bước đầu thay đổi cách dạy học  mới, phần đa giáo viên thấy ngại, để  học sinh tự nêu câu hỏi, tự  nêu kiến thức   mà mình biết được sẽ làm thì mất thời gian vì vậy chọn lối dạy học cũ  là làm  thay, nói giùm học sinh để đảm bảo thời gian và tránh được người khác đánh giá  nề nếp lớp học không nghiêm túc. Giáo viên gặp phải tình huống sư  phạm khó   xử mà học sinh đưa ra sẽ bị lúng túng, e ngại với học sinh. Một số giáo viên sợ  mất thời gian nên thực hiện việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống còn qua loa, đại  khái, chưa có hiệu quả cao. Một số giáo viên chưa thực sự nhiệt tình, năng động  thì việc hướng dẫn học sinh tham gia trò chơi dân gian, tìm hiểu, phát huy các   giá trị văn hóa ở địa phương còn rất nhiều hạn chế. ­ Một số  ít học sinh nhút nhát, chưa tự  tin trước tập thể  thì không thích   tham gia. c) Mặt mạnh, mặt yếu            * Mặt mạnh 6
  7. ­ Khơi dậy  ở  các em tính thẩm mĩ, sự  sáng tạo trong trang trí cùng với ý  thức muốn góp sức để  làm đẹp lớp. Phát huy tinh thần đoàn kết, ý thức vì tập   thể của học sinh.           ­ Học sinh chủ động tiếp thu kiến thức, giáo viên chỉ là người hướng dẫn,   tổ  chức cho các em tìm tòi, khám phá kiến thức vì vậy nên các em hiểu bài sâu   hơn, ghi nhớ  bền lâu hơn. Tránh được tình trạng giáo viên nói nhiều, chỉ  mải  thuyết trình mà không biết học sinh nắm được gì? Nắm được đến đâu để  có  hướng khắc phục, điều chỉnh kịp thời. Tất cả các đối tượng học sinh đều được   tham gia bày tỏ  ý kiến. Tạo cho các em có tính nhút nhát mạnh dạn hơn. Tạo   môi trường thân thiên trong quá trình giảng dạy.  ­ Các em nhanh nhẹn, hoạt bát hơn khi tham gia các trò chơi và các hoạt  động tập thể. Tự  tin, mạnh dạn trong cuộc sống, khả  năng giao tiếp tốt, có  những kĩ năng cơ bản để ứng xử kịp thời. * Mặt yếu            Nếu giáo viên không có sự  tìm tòi, sáng tạo, chuẩn bị bài chưa chu đáo,   không lựa chọn hình thức tổ  chức phù hợp thì tiết học dẫn đến nhàm chán. Có  thể gặp phải tình huống khó xử khi học sinh hỏi. Từ đó sẽ lúng túng, mất tự tin  khi dạy, không linh hoạt và có kỹ  năng sư  phạm tốt thì sẽ  làm mất lòng tin   tưởng ở học sinh. ­ Nếu giáo viên không khôn khéo trong việc tận dụng các nguồn lực thì sẽ  không có nguồn kinh phí để thực hiện. Cái gì cũng thuê làm thì cũng không kích  thích được sự  sáng tạo của học sinh và trách nhiệm, ý thức của các em trong  việc bảo vệ, giữ gìn, thái độ tham gia sẽ không được nâng cao.  d) Nguyên nhân ­ Trường học được xây dựng kiên cố, nhưng chưa được trang bị đầy  đủ các thiết bị đồ dùng dạy học cho tất cả các tiết học, phòng  ngoại ngữ,  phòng âm nhạc, khu vui chơi, bãi tập... ­ Học sinh còn nhỏ, một số  em  ở xa đi lại còn khó khăn, nhất là lúc trời   mưa.  ­ Địa phương còn nhiều khó khăn, có nhiều học sinh thuộc hộ gia đình hộ  nghèo và cận nghèo. ­ Một số cha mẹ các em đi làm xa nhà, để con ở trọ hoặc gửi cho họ hàng   nên việc quan tâm đúng mức tới các em còn rất nhiều hạn chế. ­ Các em học sinh tiểu học còn nhỏ, còn ham chơi, chưa ý thức hết được   tầm quan trọng của việc học tập, chưa tự  giác học tập. Còn nhiều em đi học  7
  8. muộn, đi học chưa chuyên cần vì ngủ quên..., có em không có đủ sách vở và đồ  dùng để học tập. Vì vậy trong giờ học các em không có đồ dùng để  thực hành,  để  trải nghiệm nên  ảnh hưởng lớn đến việc nắm bắt kiến thức cũng như  các  kỹ năng cần thiết của tiết học.  ­ Phần lớn  ở  lứa tuổi này các em đều có tính hiếu động, tò mò, muốn   được giải thích thắc mắc hay một điều gì mà trong quá trình khám phá các em   chưa hiểu. Thích bày tỏ để các bạn và cô giáo thấy được kết quả khám phá của   mình dù đúng hay sai. Nếu không nắm được đặc điểm của lứa tuổi thì việc giáo  dục gặp rất nhiều trở ngại. ­ Để  đảm bảo các chỉ  tiêu của trường, lớp, ngành đề  ra, các áp lực công  việc về thời lượng tiết dạy, mục tiêu bài học, kết hợp  giáo dục lồng ghép, phân  hóa đối tượng học sinh, hồ  sơ  giáo viên….Không ít giáo viên đôi khi quá nóng  vội trong việc giáo dục học sinh để đảm bảo những chỉ tiêu và hoàn tất các công  việc đó. Chính vì lí do trên, giáo viên   dễ  rơi vào tình trạng áp đặt, nhồi nhét  kiến thức, răn đe, hình phạt, roi vọt, gò bó học sinh, chưa lắng nghe tâm tư  nguyện vọng tình cảm của các em . Việc đánh giá sửa sai còn khắt khe, chưa   dân chủ. Làm cho các em cảm thấy mệt mỏi, chán nản, sợ  học, triệt tiêu sự  ngây thơ, ham học hỏi, tính tích cực, sôi nổi của các em. ­ Một số  giáo viên chưa thường xuyên tự  bồi dưỡng thêm những kiến   thức  và kĩ năng sư  phạm cũng như  các kiến thức tâm sinh lí trẻ  thường xuyên  nên đôi khi thấy lúng túng trong các tình huống sư phạm. Giáo viên không chuẩn  bị  đồ  dùng dạy học cho một tiết dạy, dạy chay, dạy một chiều tiết học không   sinh động. Sự định hướng đúng đắn của giáo viên có vai trò rất quan trọng trong   mọi hoạt động. Nếu ta chủ  quan, lơ  là thì kết quả  không những không có tính  giáo dục mà còn làm mất đi sự  hứng thú tham gia của học sinh và cha mẹ  các  em. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng yếu kém, chán học, bỏ học, thụ  động, nhút nhát, mất tự tin, chưa thực sự yêu trường, mến lớp của học sinh.         e) Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra.   ­ Ban giám hiệu luôn tạo điều kiện về sơ sở vật chất, trang thiết bị cho  việc dạy và học. Thường xuyên động viên khuyến khích giáo viên đổi mới  phương pháp, tăng cường làm đồ  dùng phục vụ  giảng dạy, nâng cao mối quan  hệ thân thiện giữa thầy và trò, cha mẹ học sinh với giáo viên. Thông qua việc dự  giờ góp ý cho giáo viên đổi mới cách dạy, cách trang trí lớp nhằm cuốn hút, tạo  hứng thú cho các em trong học tập. Tổ  chức các chuyên đề  để  giáo viên được  trao đổi, học tập lẫn nhau. Tổ  chức thi làm đồ  dùng dạy học. Hàng tháng có   kiểm tra việc tự  làm đồ  dùng và sử  dụng đồ  dùng dạy học của giáo viên và   kiểm tra đột xuất việc chuẩn bị đồ dùng của học sinh, cách trang trí lớp của các  lớp.  8
  9. ­ Một số  giáo viên ngại đổi mới cho rằng kiến thức đơn giản, xưa nay   vẫn dạy vậy mà học sinh vẫn lên lớp, vẫn trưởng thành nên cứ  thế  mà làm,  không   cần  phải   mất   thời   gian  nghiên   cứu  chuẩn   bị,  vừa   tốn   kém  thời  gian  nghiên cứu, thời gian làm đồ  dùng, tốn kinh phí. Họ  chưa hiểu được rằng kiến   thức đó sẽ đọng lại trong đầu các em bao lâu, giúp ích gì cho các em trong cuộc  sống. Bên cạnh việc nắm kiến thức đó học sinh còn có thêm các kỹ năng gì để  vận dụng vào cuộc sống, góp phần giáo dục con người mới phát triển toàn diện  phù hợp với tình hình đất nước thời kỳ đổi mới. ­ Đồ dùng dạy học và các thiết bị dạy học được nhà trường bảo quản tốt,   hàng năm được mua sắm thêm. Mỗi năm giáo viên lại làm thêm nhiều đồ  dùng   để phục vụ dạy học. Phần lớn vẫn là đồ dùng mong hỏng, rẻ tiền. ­ Phương pháp dạy học cũ đã ăn sâu vào một số  giáo viên lớn tuổi, ngại   đổi mới. Để  thay đổi được quả là một vấn đề khó khăn. Qua tập huấn, chuyên  đề, dự  giờ, góp ý họ  cũng một phần nào nắm được phương pháp mới song sự  vận dụng còn gò bó, chưa linh hoạt, chưa thường xuyên nên kết quả giảng dạy   chưa cao.  ­ Cha mẹ  học sinh của một số  em thường xuyên quan tâm, kết hợp với   giáo viên để giúp con học tập thì các em đó tiếp thu tốt bài. Bên cạnh đó có một  số  cha mẹ  học sinh do điều kiện kinh tế  khó khăn lo lao vào làm kinh tế  nên  chưa có thời gian quan tâm đến sát sao đến con cái. Không cần qua tâm đến thái  độ, hành vi, cách ứng xử của các em. Đồ dùng học tập, sách vở của các em còn  thiếu, đi học còn quên đồ  dùng. Vì vậy trong giờ học các em không có đồ  dùng   để  thực hành, để  trải nghiệm nên  ảnh hưởng lớn đến việc nắm bắt kiến thức   cũng như  các kỹ  năng cần thiết của tiết học. Trong cuộc sống các em chưa  mạnh dạn, tự  tin,  ứng xử chưa thân thiện trong giao tiếp, chưa có kĩ năng  ứng  xử, đối phó kịp thời khi gặp tình huống trong đời sống hằng ngày.  ­ Học sinh phần lớn rất thích học theo phương pháp dạy học mới vì các  em được thoải mái hơn, thích thú hơn, hiểu bài hơn nên càng có hứng thú học  tập. Bên cạnh đó một số em tính nhút nhát thì không thích giao lưu, tiếp xúc với   bạn, với giáo viên. Một số em không có đồ dùng thì lo sợ khi nghe yêu cầu mang  đồ dùng ra học. Trước những vấn đề đó giáo viên cần có biện pháp kết hợp với  cha mẹ  các em tốt hơn, tham mưu với hội cha mẹ học sinh của trường, lớp và  các đoàn thể để giúp đỡ các em. Tạo cho các em không những nắm tốt nội dung   kiến thức mà còn có được những kỹ  năng cơ  bản của tiết học, mạnh dạn hơn  trước tập thể. III. 3. Giải pháp, biện pháp a) Mục tiêu của giải pháp, biện pháp. 9
  10. ­ Nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài  nhà trường xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp  với thực tế của trường, lớp. Tạo cho các em thực sự  yêu trường, mến lớp thấy  được mỗi ngày đến trường thực sự là một ngày vui. ­ Giúp học sinh có hứng thú trong học tập, thu hút được tất cả  học sinh  vào quá trình học. Học sinh chủ  động, tích cực học tập, ghi nhớ  kiến thức sâu  hơn, kĩ hơn, tiết học không nặng nề, đơn điệu. Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, thân   thiện nhưng vẫn đảm bảo được việc giáo dục toàn diện cho học sinh về  thái   độ, tình cảm, thẩm mĩ...Cập nhật được những vấn đề  xung quanh gắn với đời   sống thực tế của học sinh. Phát huy được tính năng động, sáng tạo trong các em.  b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp. Qua những năm thực tế  giảng dạy, tìm tòi học hỏi trên các phương tiện   và qua trao đổi với đồng nghiệp tôi rút ra được một số  kinh nghiệm để  “ Xây  dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”  như sau: * Công tác tham mưu ­ Làm tốt công tác tham mưu với lãnh đạo nhà trường để nâng cao về chất  lượng sơ  sở  vật chất, thiết bị dạy học. Mua sắm thêm tài liệu tham khảo, máy  chiếu, đồ  dùng phục vụ  tốt cho việc dạy và học. Tổ  chức có chất lượng các  chuyên đề để học tập, trao đổi kinh nghiệm dạy học. Tổ chức dự giờ tập trung   để  cùng góp ý cho nhau tiến bộ. Triển khai các sáng kiến kinh nghiệm có chất  lượng để cùng học tập. Đăng kí mua báo, tập san về giáo dục thời đại... ­ Tham mưu tốt với Ban tự quản thôn nơi học sinh cư trú để tuyên truyền,  vận động tốt việc đưa con em đến trường học đúng độ tuổi và trách nhiệm của  cha mẹ đối với việc học của con cái. ­ Tham mưu với Ban chấp hành hội cha mẹ  học sinh, cùng với họ  vận  động, tuyên truyền, giúp học sinh, phụ huynh tháo gỡ, khắc phục  khó khăn tạo   điều kiện giúp các em học tốt. ­ Kết hợp tốt với các đoàn thể trong nhà trường để giáo dục các em. ­ Kết hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh để có biện pháp điều chỉnh, giúp  đỡ các em kịp thời. * Tìm hiểu lí lịch của học sinh   Khi nhận lớp tôi bắt đầu ngay vào việc tìm hiểu lí lịch của học sinh cũng  như  lực học và sự  rèn luyện của các em. Nhận xét mối quan hệ  của các em  trong lớp từ  đó phân chia các đối tượng vào các tổ, các nhóm có đủ  các thành   phần giỏi, yếu, có hoàn cảnh khó khăn, hoàn cảnh tốt. Cũng từ  đây mà các em   có mối quan hệ  ràng buộc lẫn nhau vì vậy các em sẽ  quan tâm và giúp đỡ  lẫn   nhau để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo viên giao. 10
  11. * Tổ chức họp cha mẹ học sinh đầu năm  Nhằm báo cáo tình hình lớp, vận động sự hỗ trợ của cha mẹ học sinh vào  việc dọn vệ  sinh trường lớp đầu năm, việc hỗ  trợ  lớp thời gian để  lau mạng   nhện, lau nhà đối với học sinh lớp 2.  Tuyên truyền, vận động cha mẹ  các em  tham gia xây dựng “ Thư  viện thân thiện” của lớp để  giúp đỡ  các bạn có hoàn   cảnh khó khăn có sách, vở, đồ  dùng để  học tập. GV đưa ra mục tiêu, lấy ý  tưởng của cha mẹ học sinh, thảo luận, thống nhất việc đóng góp và trang trí lớp   cùng với việc giáo dục các em phát triển toàn diện.  * Tăng cường công tác trang trí lớp học   ­ Không khí lớp học xanh, sạch, đẹp, an toàn thân thiện là yếu tố rất quan  trọng góp phần thu hút trẻ  đến trường, đến lớp, góp thêm cho lớp học một  luồng không khí thân thiện, thoải mái, sinh động, hăng say trong giờ  học, rèn  luyện kĩ năng sống cho học sinh. Các khẩu hiệu trong lớp mang ý nghĩa quan   trọng, mang tính giáo dục cao “ Dạy tốt, học tốt”, “Mỗi ngày đến lớp  là một   niềm vui”, nội qui  học sinh, bảng ghi năm điều Bác Hồ  dạy. Vì thế  giáo viên  cần phải giải thích để  các em hiểu được nội dung, ý nghĩa của mỗi bảng, mỗi  khẩu hiệu. Di  ảnh Bác Hồ  được treo nơi trang trọng nhất, dễ  thấy. Giáo dục   lòng kính yêu nhớ ơn  Bác Hồ, lòng yêu nước. ­ Thường xuyên nhắc nhở  học sinh giữ gìn tài sản chung của nhà trường   từ  chỗ  ngồi, cửa sổ, lớp học, hành lang cho đến sân trường, “  Hãy giữ  gìn tài   sản chung của chúng ta”. ­ Lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng lại đạt được kết quả cao như: “Cho tôi  xin rác!” hay “Tắt đèn, tắt quạt bạn nhé!” nhằm nhắc nhở các em có ý thức tự  giác giữ vệ sinh trường lớp, tiết kiệm điện. ­ Lớp có đủ  ánh sáng, quạt, lọ hoa, cây xanh, tạo không khí thật sự thoải  mái, thân thiện gần gũi với thiên nhiên hơn. Bàn giáo viên có khăn trải bàn, lọ  hoa, tủ  đồ  dùng phải gọn gàng sắp xếp khoa học, sạch đẹp, dễ  đưa vào sử  dụng.  ­ Huy động học sinh và cha mẹ các em cùng tham gia xây dựng “ Tủ sách   thân thiện”của lớp, tạo điều kiện cho các em ham đọc sách, mở rộng hiểu biết,  phát triển khả  năng đọc cho các em. Rèn kĩ năng và trách nhiệm bảo quản tài  sản chung, gọn gàng, ngăn nắp.  ­ Vườn hoa học tập, bảng danh dự, phản ánh rõ ràng, chính xác, công khai  kết quả học tập của mỗi em tư đó kích thích học sinh tích cực học tập để  đạt  được kết quả  cao hơn.(như  hay có tên mình trên bảng danh dự, tên mình có  nhiều bông hoa  hơn..) ­ Sử  dụng cuối lớp làm  Bảng tin lớp em  được trang trí đẹp, nội dung  phong phú, phù hợp lứa tuổi của các em. 11
  12. HÌNH ẢNH TRANG TRÍ  LỚP CỦA LỚP 12
  13. ­ Chuyên mục: “Người tốt việc tốt” đưa tên các bạn đã làm được những  việc tốt trong tuần, tháng), tạo động lực cho học sinh làm nhiều điều tốt hơn,   lớp ngày càng thân thiện hơn.    ­ Ai tài thế ? Đây là nơi trưng bày những sản phẩm đẹp của các em trong   môn thủ công( Kĩ thuật), Mĩ thuật. Nội dung trưng bày này nhằm kích thích khả  năng sáng tạo của các em. ­ Mục văn hay chữ  đẹp( lưu lại các bài văn hay, chữ  viết đẹp của học   sinh). Tạo động lực cho các em có gắng viết chữ đẹp hơn, làm văn hay hơn.        ­ Góc ôn luyện nè! ( Bảng cộng, trừ, nhân, chia các qui tắc môn toán...).   Rèn các em có ý thức chủ  động trong học tập, ôn tập kiến thức vào thời gian   đầu giờ và giờ ra chơi.    ­   Ca dao, tục ngữ  là mục dành cho học sinh sưu tầm, GV trình bày lại  theo các chủ  điểm của tháng) nhằm mở rộng vốn từ, vốn hiểu biết.    ­ Bức ảnh do HS sưu tầm về cảnh đẹp, di tích lịch sử, làng nghề của các  dân tộc nơi mình sinh sống được bố trí vào mục “Đăk Lăk mến yêu!” Mục này  có tác dụng giúp các em hiểu thêm về quê hương con người quê mình, đồng thời   các em cũng giúp các em tự tin vào bản thân, yêu lao động, yêu quê mình hơn.    ­ Tưởng là bình thường nhưng lại góp phần quan trọng là mục“Điều em  muốn nói !” Mục này dán một cái hộp giấy để HS viết ý kiến, tâm tư của mình  để  vào đó. Tạo điều kiện cho các em mạnh dạn nói lên những suy nghĩ của  mình về  thầy cô, bạn bè, các mối quan hệ  hằng ngày, góp phần thực hiện tốt   quyền trẻ em, GV hiểu HS của  mình hơn, giúp giải quyết những khó khăn trong   suy nghĩ của các em. Cải thiện tốt mối quan hệ thầy ­ trò, trò ­ thầy.  ­   Tùy theo từng khối lớp, GV có thể  biến đổi bản tin này phù hợp lứa   tuổi HS lớp mình. * Đầu tư vào công tác giảng dạy ­ Tập trung đầu tư cao cho công tác giảng dạy tích cực hóa hoạt động dạy  học, GV chủ động, sáng tạo, lấy học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học.  Chuyển từ  chủ  yếu   cung cấp những kiến thức sang trang bị  những năng lực   cần thiết cho các em. Tạo điều kiện cho HS phát huy mọi năng lực, phát hiện  khả  năng của mình giúp các em tích cực, chủ động, tự  giác, tự  tin, có niềm vui   trong học tập. Từ đó hoạt động học tập trở nên nhẹ nhàng thoải mái, thiết thực,  có hiệu quả hơn. 13
  14. ­ Một tiết dạy để  đạt được hiệu quả  cao cần đảm bảo những yêu cầu   sau: +  Đối với giáo viên: ­  Tích cực tự  học, tự  rèn để  nâng cao trình độ  chuyên môn phù hợp với   thời kỳ đổi mới. Thường xuyên đọc sách báo, các tạp chí, học tập mọi nơi, mọi   lúc trên các thông tin đại chúng để có thêm kiến thức và kỹ năng sư phạm.             ­ Mỗi giáo viên phải thực sự là tấm gương sáng về đạo đức, tự học cho  HS noi theo. Nghiên cứu kĩ bài, sưu tầm tài liệu phục vụ  tốt cho bài dạy, soạn bài  có chất lượng, xác định được mục tiêu, trọng tâm kiến thức của bài học. Bám  sát chuẩn kiến thức kĩ năng, phân hóa đối tượng học sinh để dạy. Lựa chọn các  hình thức, phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh của lớp  mình. Đối với học sinh các biệt, những em chậm tiến thì làm tốt công tác chủ  nhiệm đối với giáo viên quả  là thử  thách lớn. Vì vậy người giáo viên phải có  “cái tâm với nghề” phải kiên trì, hiểu được tâm lí lứa tuổi ở trẻ, khéo léo trong  ứng xử, đặt biệt là yêu trẻ. Giao việc phải phù hợp với khả  năng của các em  ( VD: HS yếu mỗi ngày luyện đọc 4 câu trong bài tập đọc rồi đọc cho cả  lớp   nghe. Có thể tăng dần số câu lên, nên khen khi các em đó đã có chút tiến bộ như:  “Em đã có tiến bộ hơn rồi, cố gắng lên chút nữa em nhé !”. Câu nói nhẹ  nhàng   như thế nhưng mang lại hiệu quả cao.             ­ Tổ  chức mô hình đôi bạn học tập, để  các em đoàn kết, giúp đỡ  nhau  cùng tiến bộ. Tạo cơ  hội để  các em này phát huy hoàn thành nhiệm vụ, tin   tưởng vào bản thân. Hướng các em có niềm tin: “Mình cũng có thể học giỏi như  các bạn khác”. Tạo động lực để các em cố gắng. ­ Nếu GV có phương pháp giáo dục hợp lí thì HS dù có cá biệt đến đâu   cũng sẽ  vươn lên thành một học trò ngoan được. GV cần có cái nhìn thiện cảm  với HS  cá biệt để các em mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ, khó khăn của mình. Nếu vì  hoàn cảnh gia đình khó khăn, không cha, mất mẹ, không được gia đình quan tâm  đúng mức.Tôi vận động nhà trường, địa phương, các bạn trong lớp tặng sách  vở, dụng cụ học tập, quần áo, cặp để  các em giảm bớt khó khăn, có niềm vui.  Từ  đó thắt chặt tình nghĩa thầy trò, bè bạn. Vận động gia đình tiếp tục động   viên khuyến khích con em mình cố gắng học tập. Đối với những HS bị lôi kéo,   có suy nghĩ lệch lạc, trốn học đi chơi, chọc phá bạn, có những biểu hiện lệch   lạc về đạo đức. Tôi đã tìm hiểu HS đó qua người thân, bạn bè. Kết hợp với gia   đình, Đội, động viên, hướng dẫn, phân tích những điều lợi hại nhằm dẫn dắt   các em có suy nghĩ, việc làm đúng đắn hơn, hòa nhập lại với môi trường giáo  dục. 14
  15. ­ Chuẩn bị  tốt hệ  thống câu hỏi cho bài học và cho từng đối tượng học   sinh. Chú ý phát triển bồi dưỡng HS khá giỏi bộ  môn. Dự  kiến những sai lầm   của HS(nếu có)và cách khắc phục, có kế  hoạch bồi dưỡng HS yếu trong từng   tiết dạy.        ­ Ví dụ: Môn tập đọc: HS Khá giỏi đọc phân vai, thi đua đọc diễn cảm   đoạn, toàn bài, trả lời các câu hỏi khó trong và ngoài bài. Còn HS yếu đọc câu,  đoạn ngắn và trả  lời các câu hỏi dễ  hơn trong bài. Có thể  chẻ  nhỏ  các câu hỏi  cho phù hợp với khả  năng của các em. Chỉ  cần các em này đọc được một lần  được GV và các bạn tuyên dương lần sau các em này sẽ có tiến bộ rõ rệt. + Đồ dùng dạy học không chỉ truyền thụ thông tin mà còn là quá trình của  truyền thụ  tri thức, giáo dục tư  cách, rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS. Nó   điều khiển mọi hoạt động nhận thức của HS từ trực quan sinh động đến tư duy   trừu tượng. Góp phần nâng cao hiệu quả  giảng dạy, khắc phục tình trạng dạy  học một chiều, gây hứng thú, khuyến khích tư  duy cho HS, hiểu bài, khắc sâu  kiến thức. Vì vậy đồ dùng dạy học phải phát huy hết tính sư phạm, rõ ràng, bắt   mắt, đủ  lớn, phù hợp nội dung bài học, bao gồm(Tranh  ảnh, vật thật, bản đồ,   biểu đồ, dụng cụ sắm vai..). Đồ dùng không chỉ được sử dụng trong hình thành   kiến thức mới mà còn được sử dụng ở các tiết ôn tập, trò chơi củng cố. Ví dụ: Kể  chuyện: “Chuyện bốn mùa”(Lớp 2) với nhân vật là bốn nàng  tiên, bà Đất, nếu không có dụng cụ sắm vai, các em sẽ khó phân biệt được bạn  nào đóng vai nào? Hoạt động sắm vai khuyến khích HS mở  rộng vốn từ, phát  huy khả  năng sáng tạo của HS.Nếu dụng cụ  sắm vai đẹp, phù hợp, thì hoạt   động này không chỉ  dành riêng cho các bạn khá, giỏi mà cho cả  HS trung bình  yếu nữa. Vì HS những em này cũng muốn được thành những nàng tiên xinh đẹp  nên các em cố gắng nhớ lời thoại của nhân vật qua việc đọc tập đọc nhiều lần.  Giúp HS tự tin vào bản thân mình, ngày càng thân thiện hơn. + Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy để tạo không khí học tập  sôi nổi vì hình  ảnh, màu sắc, âm thanh, sinh động đẹp. Dễ  dàng thu hút tất cả  các em vào hoạt động học tập. +  Phiếu giao việc  trong các tiết dạy có tác dụng nhằm hướng tới mục   tiêu: “ GV nói ít, học sinh hiểu được nhiều”. Giảm bớt bệnh nói nhiều, giảng   nhiều của GV, tăng thời gian tư  duy luyện tập của HS. Phối hợp nhịp nhàng  giữa thầy và trò, trò và trò, tìm ra kiến thức mới.  + Lựa chọn hình thức và phương pháp dạy học đặt trưng của môn học: ­ Việc lựa chọn hình thức và phương pháp giảng dạy cũng tùy thuộc vào  nội dung và mục đích cụ  thể  của bài. Nghiên cứu, lựa chọn phương pháp dạy   học sao cho phù hợp sẽ giúp tiết dạy không quá nặng nề nhưng lại sôi nổi, thân  thiện và đạt được hiệu quả cao nhất. 15
  16.     ­ Những kiến thức mà các em có ích nhiều kinh nghiệm hoặc chứa đựng  các hiểu biết khác nhau, chúng ta tổ chức theo nhóm để rèn luyện khả năng trình  bày, đi đến thống nhất ý kiến. Qua đó HS dễ nhớ kiến thức,nhớ sâu sắc và bền  vững hơn. Cần thường xuyên thay đổi nhóm trưởng để  mỗi em có cơ  hội phát  huy bản lĩnh, năng lực tự  tin hơn. GV nhận xét sửa sai nhẹ  nhàng, đừng quá  khắc khe mà kịp thời động viên, tuyên dương  các em HS nhút nhát, chậm tiến ở  khía cạnh khác. + Tổ chức các trò chơi học tập để  GV và HS thân thiện nhau hơn, giảm   bớt căng thẳng mệt mỏi, tăng khả  năng tiếp thu bài, khắc sâu kiến thức, giáo  dục kĩ năng sống.  + Việc đánh giá học sinh phải  được thực hiện tường xuyên, kịp thời,   chính xác, công tâm, phản ánh đúng sức học, những tiến bộ, năng khiếu của HS  qua từng tháng, từng phân môn. Kiểm tra phải được thực hiện nghiêm túc, đảm  bảo khách quan, công bằng. Thường xuyên liên hệ với cha mẹ  các em  để  trao   đổi những ưu điểm và hạn chế của HS để có hướng giúp đỡ các em phát huy ưu  điểm,  khắc phục kịp thời tồn tại. +  Đối với học sinh: ­ Giúp HS nhận ra được: “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui, nhưng   vui để học”, có trách nhiệm với mọi người. ­ Đến lớp có đủ sách vở, dụng cụ học tập. ­ Chuẩn bị bài trước khi đến lớp. ­ Tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường, địa phương như:  Múa hát sân trường, sinh hoạt Sao Nhi đồng. Thi vẽ  tranh về  nhà giáo, về  môi   trường, về an toàn giao thông… Thi làm báo ảnh chào mừng ngày 20/11.Thi kể  chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thi viết chữ đẹp cấp trường, cấp  huyện. Nhặt rác, trồng cây xanh trong lớp học, sân, vườn trường. Tham gia đi  thăm viếng nghĩa trang liệt sĩ và tặng quà cho bộ  đội phục viên và các gia đình  có công với cách mạng, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. * Tổ chức các hoạt động tập thể           Lứa tuổi Tiểu học các em rất ham chơi, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến  tình trạng trốn học của HS. Vì thế, tạo một sân chơi lành mạnh, bổ  ích thân  thiện cho HS là điều cần thiết nhằm hướng tới mục tiêu: “Thầy trò cùng học,   cùng vui”. Mỗi tuần 2 lần vào tiết sinh hoạt tập thể, dưới sự  hướng dẫn của  GV, phụ trách Sao, HS lại được vui chơi thoải thích, biết thêm các trò chơi dân   gian như: kéo co, rồng rắn lên mây, tập tầm vông. Thi đố vui để học, thi tìm cao   dao tục ngữ, hò, vè dân gian. Tìm hiểu về  An toàn giao thông, về  các ngày chủ  điểm trong tháng. Kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, các hoạt động   văn nghệ, thể dục, thể thao. Ngoài ra còn kết hợp với Đội tổ  chức cho các em   16
  17. thi văn nghệ, dự triển lãm tranh tuyên truyền về chủ quyền biển đảo của Việt   Nam. Thi làm báo tường đối với học sinh lớp 5. * Rèn kĩ năng sống cho học sinh ­ GV cần lồng ghép tích hợp các nội dung theo hướng dẫn của ngành qui   định. Ngoài ra cần linh hoạt trong giảng dạy  để  lồng ghép phù hợp với địa  phương, đối tượng HS của lớp. ­ Giáo dục các em có thói quen biết quan tâm, chia sẻ, động viên, thăm hỏi  lẫn nhau trong học tập và cuộc sống. Các thành viên trong lớp đối xử  với nhau  một cách công bằng.  ­ Rèn luyện các kĩ năng ứng xử hợp lí với các tình huống trong cuộc sống,   sinh hoạt. Xây dựng kĩ năng ứng xử văn hóa. ­ Qua phiếu giao việc giáo dục HS tinh thần đoàn kết, tự  phân công và  điều khiển công việc, giải quyết vấn đề, xử  lí tình huống, ra quyết định, đảm  nhận trách nhiệm, hợp tác…Qua hệ  thống câu hỏi giáo dục tư  tưởng, kĩ năng  sống, tình cảm, tính thẩm mĩ, tình yêu quê hương, yêu người thân, bạn bè, yêu  lao động. Biết bảo vệ  môi trường, phòng chống một số  bệnh thông thường,  phòng tránh tai nạn thương tích, tai nạn giao thông…Thấy được trách nhiệm của  mình trong việc bảo vệ Biển đảo quê hương, bảo vệ đất nước. ­ Qua hoạt động tập thể giúp cho HS có sức khỏe, nhanh nhẹn, hoạt bát,  rèn kĩ năng sống, tính kỉ luật, hợp tác, giáo dục tình cảm yêu thầy cô,bạn bè, gia   đình, quê hương, đất nước, nhớ ơn Bác. Đây chính là dịp để các em phát huy sở  trường và vốn hiểu biết của mình: Hát, múa, kể chuyện, đọc thơ…. ­ Ngoài ra giáo viên chủ  nhiệm phải nắm được ngày sinh của học sinh   trong lớp thông báo trên bảng tin của lớp để lớp tổ chức sinh nhật cho bạn một   cách đơn giản nhưng có ý nghĩa. Quà sinh nhật có thể là những lời chúc hay lời   ca, tiếng hát của các bạn trong lớp. GV có thể chuẩn bị một món quà nhỏ tự tay   mình làm để tặng cho các em như một chú thỏ, một con chim do mình gấp…Từ  đó giúp các em tự  tin trong học tập và rèn luyện cũng như  tham gia các hoạt  động tập thể.  ­ Phát động phong trào “ Nói lời hay, làm việc tốt” để  hình thành cho các  em thái độ thân thiện với nhau trong giao tiếp.  *  Tổ chức cho HS tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị  các di   tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương: Điều kiện trường còn nhiều khó khăn, HS còn nhỏ nhưng tôi đã tham mưu   với nhà trường, Đội tổ  chức cho các em đi viếng nghĩa trang liệt sĩ. Giao lưu,  tặng quà cựu chiến binh và gia đình có công với cách mạng tại địa phương.  Tham gia đóng góp xây dựng công trình măng non tại nghĩa trang liệt sĩ của  huyện.  Qua đó giáo dục các em truyền thống, uống nước nhớ  nguồn, lòng tự  17
  18. hào dân tộc, biết  ơn các thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng. Tổ  chức sinh hoạt chủ  điểm ngày 10/3 hướng dẫn học sinh tìm hiểu về  truyền  thống yêu nước nồng nàn, tinh thần chiến đấu  bất khuất của ông cha ta từ  đó  phát huy huy truyền thống vẻ vang của ông cha, bản sắc của dân tộc. Tổ  chức   cho các em thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để  thấy được tính   giản dị, cần cù, chịu khó, lòng yêu nước thương dân, sự hi sinh của Bác …từ đó  học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tổ chức cho các em tìm  hiểu văn hóa của dân tộc qua lễ hội cồng chiêng, hội đua voi, hội đua thuyền…. c) Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp Giáo viên phải thật sự có tâm huyết với nghề, có năng lực sư phạm (Năng  lực sư  phạm gồm: Năng lực khoa học; hiểu học sinh; ngôn ngữ; tổ  chức; phân   phối chú ý; trình bày bài giảng; óc tưởng tượng sư phạm). Ngoài ra, muốn phát  huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh cần phải biết lựa chọn phương  pháp và hình thức tổ  chức linh hoạt, thích hợp, trong đó có các phương pháp  thuyết minh; đàm thoại; quan sát; thảo luận; thí nghiệm; hỏi đáp; nêu vấn đề… Ngoài ra còn phải óc thẩm mĩ, tính sáng tạo trong việc trang trí lớp cũng như  trong giảng dạy. Giáo viên phải thực sự cởi  mở, thân thiện, thái độ  ân cần đối  với học sinh, luôn gần gũi, động viên, nhắc nhỏ các em làm cho các em có cảm  giác thầy cô như  người cha, người mẹ thứ hai của mình để  không có cảm giác  sợ sệt. Mỗi lời nói, cử chỉ, việc làm của giáo viên phải hết sức thận trọng vì nó   đều có ảnh hưởng lớn tới các em. d) Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp   Các giải pháp và biện pháp trong đề  tài có mối quan hệ  mật thiết với  nhau. Mỗi giải pháp, biện pháp đều có những ưu điểm riêng nếu ta biết kết hợp  linh hoạt, hài hoà sẽ giúp cho việc “ Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích  cực” đạt hiệu quả cao. Khi đó tiết học sẽ phong phú, đa dạng, thu hút được sự  chú ý của học sinh, phát huy được tính tích cực, chủ  động, sáng tạo  ở  các em,  nâng cao được mối quan hệ  thầy trò. Học sinh thực sự  cảm nhận được “ Mỗi   ngày đến lớp là một ngày vui” góp phần tích cực vào việc “ Xây dựng trường   học thân thiện, học sinh tích cực”. Giúp cho giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ  năm học, việc giáo dục học sinh một cách toàn diện đạt hiệu quả  cao. Nhằm   đào tạo con người mới có đủ  kiến thức, kĩ năng phục vụ  cho thời kì phát triển   của đất nước. e) Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu * Kết quả khảo nghiệm Trước khi thực hiện đề tài Sau khi thực hiện đề tài ­ Học sinh nhút nhát, hạn chế  kỹ  ­   Học   sinh   mạnh   dạn   hơn,   có   kỹ   năng  18
  19. năng   giao   tiếp,   không   thân   thiện  giao tiếp tốt hơn, luôn thân thiện với thầy  với bạn bè và thầy cô giáo, thiếu  cô và bạn bè, biết quan tâm, chia sẻ, giúp  tính đoàn kết. đỡ   nhau,   đoàn   kết   thực   hiện   nhiệm   vụ  với thái độ phấn khởi, hăng hái. ­ Yêu trường, mến lớp, thấy vui khi được  ­   Nhiều   em   chán   không   muốn   đi  đến trường, tích cực đi học, đi học đúng  học,   tình   trạng   nghỉ   học   không   lí  giờ. do, đi học trễ vẫn còn. ­ Thiếu trách nhiệm trong việc xây  ­ Có ý thức giữ  gìn vệ  sinh, bảo vệ  tài  dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp,  sản của trường lớp, cố gắng tìm tòi, sáng  an toàn. tạo có được sản phẩm mang tên mình để  trang   trí   lớp.   Linh   hoạt,   sáng   tạo   trong  trang   trí.   Tích   cực   chăm   sóc,   trồng   cây  xanh trong lớp. Không bẻ  cành, hái lá cây  ­  HS ngồi học không tập trung, hay   trong trường, lớp. nghịch ngợm, làm việc riêng, ngủ  ­ Học sinh hăng say thực hành, thảo luận,   gật   trong   giờ   học,   không   nắm  tranh luận để  tìm ra kiến thức, nhớ  kiến  được   nội   dung   bài   hoặc   nắm   bài  thức tốt hơn, hiểu nội dung bài học sâu  nhưng ngày mai lại quên. Tiếp thu  hơn, chủ động nắm bắt kiến thức.  thụ động. ­   Khi   được   gọi   tới   thì   hay   giật  ­ Tích cực phát biểu xây dựng bài, có ý  mình. thức trong việc học và chuẩn bị  bài cũng  như đồ dùng trước khi đến lớp. ­   Giáo   viên   truyền   thụ   kiến   thức   nhẹ  ­ Giáo viên phải giảng giải, thuyết  nhàng hơn.  trình nhiều.  ­ Bên cạnh nắm kiến thức các em còn lĩnh  ­   Các   kỹ   năng   nghe,   nhìn,   ...khả  hội được rất nhiều kỹ năng cần thiết cho  năng phản xạ chậm. cuộc sống như  quan sát, phân tích, tổng  hợp, giao tiếp.... ­ Nhiều cha mẹ  bỏ  mặc việc dạy  ­ Cha mẹ phải chung tay cùng nhà trường  cho nhà trường hoặc chỉ  chú ý tới  để giáo dục các em.... kiến thức   mà không chú ý đến kĩ  năng sống của các em...  ­   Chất   lượng   giáo   dục   hạn   chế  ­ Chất lượng giáo dục được nâng lên rõ  hơn. rệt. ­   HS   không   hứng   thú   trong   các  19
  20. phong trào thi đua. ­ Đạt kết quả cao trong các phong trào thi  đua của trường nhất là phong trào giúp đỡ  bạn   nghèo   vượt   khó,   uống   nước   nhớ  ­   HS   nhút   nhát,  tự  ti,  không  thích  nguồn... tham gia trò chơi... ­ Tích cực, chủ  động, tự  tin, mạnh dạn  khi tham gia trò chơi, thể  hiện tinh thần   đoàn kết cao trong nhóm, lớp. ­ HS tự  giác kiểm tra bài, ôn luyện, đố  nhau về  kiến thức đã học được  trong giờ ra chơi. Giúp nhau làm vệ sinh lớp, giúp nhau trong học tập, phụ đạo  cho các bạn học yếu trong lớp vào đầu giờ và giờ giải lao. ­ Hình thành sở thích đọc truyện, đọc sách trong giờ giải lao. ­ HS trong lớp tự quản lí, nhắc nhở nhau thực hiện tốt nội qui của trường,   của lớp, tự  tiến hành sinh hoạt lớp dưới sự  cố  vấn của GV, tích cực tham gia   vào bản tin lớp em. Tự giác tham gia ủng hộ người nghèo, người khuyết tật. * Giá trị khoa học Góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục con người   mới phát triển toàn diện tạo tiền đề cho một xã hội, một tương lai tươi sáng có   những con người hội tụ  đầy đủ  những phẩm chất và năng lực đáp  ứng được  thời kì mới của đất nước. II. 4. Kết quả  ­ Bản thân ngày một tự  tin, linh hoạt hơn trong việc thực hiện tốt phong  trào” Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. ­ Sử dụng triệt để đồ dùng dạy học trong nhà trường, có sự sáng tạo trong  làm đồ  dùng. Do phải tự  học, tự  rèn nhiều nên trình độ  nhận thức cũng như  chuyên môn cũng được nâng lên. ­ Được các em và phụ huynh yêu quý, gần gũi, thân thiện, tin tưởng hơn. ­ Phụ huynh có trách nhiệm hơn đối với việc học của con cái. ­  Học sinh mạnh dạn, tự  tin, nắm vững kiến thức đã học, nhanh nhẹn,  hoạt bát hơn, có các kỹ năng cơ bản để vận dụng vào cuộc sống. ­ Với các giải pháp, biện pháp đã nêu trên đã tạo cho HS học tập một cách  tích cực, tự giác, độc lập và sáng tạo. Mặt khác còn kích thích được phong trào   thi đua học tập trong lớp, trong trường. Do đó, kết quả  mang lại rất khả quan;  nhiều em rụt rè nay đã hăng hái phát biểu xây dựng bài, lớp học sôi nổi, học sinh   hứng thú, tiếp thu kiến thức nhanh chóng. Giáo viên không phải nói thay, làm  thay, nói nhiều mà học sinh vẫn hiểu bài. Học sinh tự giác, hứng thú đi học mà  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
210=>0