Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 6
lượt xem 2
download
Mục đích nghiên cứu đề tài là nghiên cứu phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 6 nhằm có những giải pháp tích cực để giáo dục các em học sinh cá biệt có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 6
- CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng sáng kiến Ngành GD&ĐT TX Bình Long Tôi ghi tên dưới đây: Số Họ và Ngày Nơi công Chức Trình độ Tỷ lệ (%) đóng TT tên tháng tác (hoặc danh chuyên góp vào việc năm sinh nơi thường môn tạo ra sáng trú) kiến (ghi rõ đối với từng đồng tác giả, nếu có) 1 LÊ 13/06/1981 Trường Giáo CĐSP 100% THỊ TH-THCS viên VĂN- BÍCH THANH THCS NHẠC THỦY LƯƠNG, TX BÌNH LONG, BÌNH PHƯỚC 1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 6” cấp Thị xã năm học 2020-2021 2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là chủ đầu tư ra sáng kiến 3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục ( Chủ nhiệm lớp) 4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 15/09/2020 5. Mô tả bản chất của sáng kiến: 5.1. Tính mới của sáng kiến: Sự nghiệp giáo dục đào tạo hiện đang được toàn Đảng toàn dân quan tâm. Vai trò của người giáo viên trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa giảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người. Gần đây, trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình đã lên tiếng khá nhiều về tình hình học sinh cá biệt. Vấn dề này đã trở thành mối lo ngại của xã hội, nhất là với gia đình và nhà trường. Thực tế hiện nay, trong các nhà trường, học sinh cá biệt không nhiều, song lại là “lực cản” rất lớn, thậm chí là thế lực “đen” đe dọa, khống chế những nhân tố tích cực dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải ở trong lớp, trong trường. Vấn đề đó đó đặt giáo viên và các nhà quản lý giáo dục trước thực tế: làm thế nào để cảm hóa và giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả là một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và đang trở thành một thách
- 2 thức lớn với toàn xã hội nói chung và đặc biệt là ngành giáo dục nói riêng, trong đó chủ yếu là nhiệm vụ của các giáo viên chủ nhiệm trong nhà trường. Trong mấy năm qua, ở trường TH-THCS Thanh Lương có rất nhiều sáng kiến nghiên cứu về phương pháp dạy học. Tuy nhiên về công tác chủ nhiệm thì tôi thấy chưa có giáo viên nào đặc tâm nghiên cứu về vấn đề này, nên bản thân tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 6 nhằm có những giải pháp tích cực để giáo dục các em học sinh cá biệt có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. 5.2. Nội dung sáng kiến: 5.2.1. Thực trạng: Giáo dục học sinh cá biệt là một trong những nhiệm vụ thiết yếu trong nhà trường THCS nhằm hạn chế được những đối tượng học sinh yếu về mặt đạo đức và góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Trong thực tế ở các lớp trong các trường THCS hiện nay có một bộ phận học sinh cá biệt, làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng giáo dục của nhà trường. Trường tôi cũng không ngoại lệ. Bản thân tôi đã nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, gặp không ít học sinh cá biệt, nhưng mỗi em một vẻ cá biệt khác nhau, vì vậy đòi hỏi trong qúa trình giáo dục phải có nhiều sáng tạo mới có hiệu quả. Năm học 2020-2021 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 6/6. Ngay ngày đầu tiên nhận lớp, tôi phát hiện có hai học sinh có biểu hiện khác thường. Tôi liên tục theo dõi trong những ngày tiếp theo thì thấy biểu hiện cá biệt của hai em học sinh này ngày càng rõ rệt: hai em thường xuyên vi phạm nội quy của trường của lớp, hay cúp tiết đi chơi, không học bài làm bài ở nhà, trong giờ học hay nói chuyện, hay bày trò chọc ghẹo các bạn trong lớp… làm ảnh hưởng tới việc học tập và rèn luyện của tập thể lớp. Mặc dù tôi đã nhắc nhở nhiều lần nhưng hai en này vẫn không thay đổi. Trước tình hình đó bản thân là một giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi luôn băn khoăn suy nghĩ: Làm sao để giáo dục hai em học sinh cá biệt này trở thành trò ngoan, có đạo đức tốt, biết chấp hành nội quy của trường, của lớp? Làm thế nào để sau này các em trở thành một người có ích cho xã hội? Những câu hỏi đó cứ làm tôi trăn trở và tôi đã quyết định vận dụng những kinh nghiệm mà bản thân đã tích lũy được để giáo dục, uốn nắn hai học sinh này với hy vọng sẽ giúp các em thay đổi nhận thức của mình, phấn đấu vươn lên trở thành con ngoan trò giỏi. 5.2.2. Nội dung các biện pháp đã thực hiện. Với thực trạng trên cùng với việc nhận thấy vai trò quan trọng của việc giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường, để giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 6/6 trường TH-THCS Thanh Lương đạt hiệu quả trong năm học 2020-2021, tôi đã thực hiện những biện pháp sau: 5.2.2.1 Tìm hiểu kĩ từng đối tượng học sinh cá biệt:
- 3 Không phải tự dưng khi sinh ra con người ta cũng đều trở nên xấu xa cả, cái gì cũng có lý do của nó. Sinh thời, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng nói: Hiền dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên Và đối với trường hợp của các em học sinh cá biệt cũng vậy, chắc chắn là vì nhiều yếu tố tác động nên mới khiến các em như thế. Đó có thể là do gia đình, do xã hội, nhà trường hoặc là do bản thân học sinh. Vì thế tôi thông qua gia đình, bạn bè, thầy cô giáo cũ để nắm rõ hoàn cảnh gia đình, tính tình, sở thích, năng lực học tập của từng đối tượng và để biết được nguyện nhân dẫn đến tình trạng học sinh cá biệt. Để từ đó đưa ra cách tiếp cận phù hợp cũng như có sự quan tâm, gần gũi hơn và thấu hiểu về những chuyện mà các em gặp phải. Trở lại với lớp tôi đang chủ nhiệm, sau khi quan sát, theo dõi, phát hiện ra hai em có hành vi cá biệt như thường xuyên vi phạm nội quy trường lớp, tôi nhắc nhở nhiều lần mà các em vẫn cứ tái phạm. Tôi tìm hiểu từ bạn bè, thầy cô chủ nhiệm những năm trước và đặc biệt tôi đến nhà của từng học sinh tìm hiểu và trao đổi trực tiếp với phụ huynh của các em học sinh này để nắm hoàn cảnh gia đình, tính tình, sở thích cũng như kết quả học tập ở các năm trước của các em. Qua tìm hiểu, tôi biết được cả hai hai em có hoàn cảnh gia đình rất đặc biệt: Em Vũ thì bố, mẹ ly dị bỏ em cho bà nội nuôi. Bà cũng đã già, cuộc sống vất vả. Hàng ngày hai bà cháu chỉ dựa vào mảnh vườn nhỏ để sống. Do thiếu tình yêu thương chăm sóc của cha, mẹ, hoàn cảnh kinh tế lại khó khăn, em ngày càng ít nói, học tập ngày càng sa sút, rồi mất căn bản đâm ra chán học. Còn em Đạt, gia đình khá giả hơn, cả cha và mẹ đều bận bịu làm kinh tế không quan tâm đến việc học của con, lại hay được cha mẹ cho tiền tiêu vặt. Từ một học sinh khá ở những năm tiểu học, lên bậc THCS, Đạt theo bạn bè hay bỏ học, chơi game, rồi dần dần học sa sút cộng thêm tính hiếu động nên hay bày trò nghịch ngợm, chọc ghẹo các bạn trong lớp và cuối cùng là ở lại lớp 6. Như vậy nguyên cơ bản dẫn đến tình trạng cá biệt ở hai học sinh lớp tôi là xuất phát từ gia đình. Do gia đình thiếu sự quan tâm, kèm cặp. Sau khi tìm hiểu kĩ từng đối tượng học sinh cá biệt, tôi phân ra từng dạng học sinh cá biệt rồi đưa ra một số biện pháp giáo dục phù hợp cho từng đối tượng. 5.2.2.2- Giáo dục học sinh cá biệt bằng sự nhẹ nhàng, mềm mỏng: Tuổi mới lớn thì nghịch phá là chuyện khó tránh khỏi. Đôi khi những biện pháp mạnh như kỷ luật hay lớn tiếng trách mắng, la rầy học sinh sẽ không có tác dụng bằng sự mềm mỏng, kiên nhẫn bởi“lạt mềm buộc chặt”. Việc dùng tâm lí để cảm hóa học sinh là một biện pháp rất hiệu quả trong việc giáo dục học sinh cá biệt đặc biệt là đối với tứa tuổi học sinh lớp 6 lại rất thích nhẹ nhàng, mềm mỏng. Để thực hiện biện pháp này, trước hết tôi tạo mối quan hệ gần gũi với các em học sinh cá biệt, có nghĩa là thể hiện sự quan tâm của tôi đối với các em ấy. Tiếp xúc tìm hiểu tâm tư nguyện vọng để động viên, khuyến khích các em tạo cho các em chỗ dựa đáng tin cậy để các em ấy thấy được sự quan tâm của tôi như người cha người mẹ, luôn nâng đỡ dìu đắt các em những khi vấp phải khó
- 4 khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống. Trong quá trình tiếp xúc, tôi luôn tỏ thái độ cởi mở, chân tình, vui vẻ, tôn trọng và lắng nghe các em để cảm hóa các em. Tạo được mối quan hệ tốt thì các em mới chân tình thổ lộ, sẻ chia cũng như tâm sự những khó khăn, nỗi niềm riêng tư thầm kín của các em với giáo viên chủ nhiệm và những lời khuyên răn dạy bảo của chúng ta lúc này mới có tác dụng. Khi các em phạm lỗi, tôi nhẹ nhàng phân tích những khuyết điểm những cái sai trong nhận thức cũng như hành động của các em để từ dó giúp các em nhận ra lỗi lầm của bản thân mà sửa chữa. Tuyệt đối tôi không la mắng, chửi bới các em vì điều này dễ gây ra những tâm lý tiêu cực và khiến các em tệ hơn lúc trước. Khi cần chúng ta có thể gặp riêng các em để nhắc nhở, trao đổi. Trường hợp hai em cá biệt của lớp tôi, sau khi tìm hiểu, phân tích hoàn cảnh gia đình của từng em, tôi gặp riêng từng em. + Đầu tiên là em Vũ, trước mặt tôi em tỏ ra rất ngoan, không có biểu hiện gì. Tôi bắt đầu từ việc hỏi thăm gia đình: Bà em có khỏe không? Ba, mẹ có hay về hoặc gọi điện thăm em không? Trước sự quan tâm của tôi, em Vũ đã kể chuyện với tôi rất chân tình. Khi thấy em không ngần ngại trong tâm sự cùng tôi, tôi bắt đầu dùng tình của một người mẹ để động viên: Em là niềm an ủi đối với bà trong lúc này, hoàn cảnh gia đình của em cô hiểu. Em cần cố gắng học tập thật tốt để bà được vui. Bà già rồi vẫn phải làm việc vất vả để nuôi em ăn học cho bằng bạn. Thế mà em lại lười học đi theo các bạn bỏ học để đi chơi, em không thương bà em hay sao? Nói tới đây, em không giám nhìn tôi, nước mắt rưng rưng. Tôi đã cảm hóa được em. Từ đó tôi thường xuyên tâm sự với em nhiều hơn. Tôi tìm những tiến bộ của em để khen ngợi. + Còn trường hợp em Đạt, tôi theo dõi em nhiều hơn, hễ em có vi phạm gì là tôi biết ngay. Mỗi lần trao đổi với em, tôi đều đưa ra những chi tiết chính xác để em thấy rằng tất cả những việc làm của em tôi đều biết. Tôi động viên em bằng những lời lẽ chân tình: Cha mẹ em bận công việc cốt là để tạo sự nghiệp, tạo điều kiện cho em ăn học, lo cho tương lai của em. Nhiều bạn có hoàn cảnh khó khăn hơn, phải vất vả phụ giúp gia đình mà các bạn vẫn học tốt, còn em có điều kiện tốt mà lại không lo học rồi sau này em sẽ có thể làm được gì? Cha mẹ em sẽ ra sao khi có một đứa con như em?… Dần dần Đạt đã thấy được cái sai của mình và cũng đã sửa đổi. 5.2.2.3. Phân công cho học sinh cá biệt một số nhiệm vụ ở lớp. Là một giáo viên chủ nhiệm, chúng ta đừng bao giờ để bụng những lỗi lầm của học sinh, không nên có cái nhìn kì thị, thái độ ghét bỏ, coi thường các em học sinh cá biệt. Dù là học sinh cá biệt và có khó giáo dục đến đâu chăng nữa thì bên trong các em vẫn luôn tiềm ẩn những nhân tố, những phẩm chất, khả năng tích cực. Chúng ta hãy cố gắng phát hiện ra những ưu đểm ẩn sâu trong mỗi em để khơi gợi làm thức tỉnh khôi phục niềm tin cho các em để các em thấy rằng mình không hề kém cỏi, không phải là thứ bỏ đi. Từ đó các em vứt bỏ được sự tự ti mặc cảm trong bản thân và chủ động hội nhập với các bạn trong lớp. Ngoài ra điều này còn giúp các em phát huy được điểm mạnh của mình góp
- 5 phần vào xây dựng tập thể vững mạnh, dần dần hình thành được phẩm chất tự tin, kiên định trước tập thể cũng như khẳng định được khả năng của bản thân. Đối với lớp tôi chủ nhiệm, sau khi tìm hiểu sở trường của từng em, tôi tin tưởng giao cho học sinh cá biệt thực hiện một số công việc tập thể phù hợp với khả năng của từng em. Cụ thể là : Em Vũ vì to, khỏe nên tôi giao cho em làm Lớp phó lao động. Còn Đạt thì rất nhanh nhẹn, hiếu động nên tôi giao cho em phụ trách mảng thể dục thể thao, để từ đó các em thấy được vai trò của mình trong tập thể lớp đồng thời phát huy tính làm chủ của các em. Đây là việc làm mang tính hai mặt, vì vậy để đạt hiệu quả thì tôi thường xuyên theo dõi, giám sát, hướng dẫn từng hoạt động các em xem các em có những biểu hiện như thế nào: say mê, hứng thú, nhiệt tình, tích cực hay qua loa chiếu lệ, đùn đẩy. Từ đó có biện pháp phát huy sở trường của từng em. Từ những nhiệm vụ được giao, tôi luôn trân trọng những tiến bộ của các em dù chỉ là nhỏ nhất. Khi các em tiến bộ, tôi biểu dương, khen ngợi các em kịp thời. Đặc biệt là cuối tháng, tôi khích lệ, biểu dương các em ấy trước tập thể lớp bằng những món quà nho nhỏ như quyển tập, chiếc bút… bởi vì đối với các em, một lời động viên, khen ngợi còn có giá trị hơn rất nhiều lần so với một lời phê bình hay một bản kiểm điểm. 5.2.2.4. Giáo dục học sinh cá biệt bằng tập thể: Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi dễ bị ảnh hưởng bởi những thói hư tật xấu, nhưng cũng dễ tiếp thu những điều hay lẽ phải, dễ hòa mình vào những trò chơi có tính tập thể, tính giáo dục cao. Vì thế nên tôi tổ chức cho tập thể lớp tận tình quan tâm, giúp đỡ những em học sinh cá biệt này dưới mọi hình thức như: phân công một nhóm bạn tốt, cùng hoàn cảnh, cùng sở thích, ước mơ sinh hoạt, học tập với đối tượng này dần dần lôi kéo các em hòa nhập vào các cuộc chơi bổ ích, từ đó xóa bỏ các mặc cảm là học sinh hư để rồi cùng với các thành viên trong lớp xây dựng tập thể vững mạnh. Cụ thể ở lớp tôi chủ nhiệm, tôi phân công cho một em học giỏi, ngoan trực tiếp giúp đỡ em Vũ trong việc học tập, thường xuyên truy bài cùng bạn, hướng dẫn bạn giải những bài tập khó. Còn Đạt tôi lại cho em tự chọn một người học tốt, ngoan ở trong lớp để giúp đỡ mình trong học tập, rèn luyện. - Hàng ngày phải báo cáo kết quả cho tôi để nắm bắt được sự chuyển biến của các em Từ đó kịp thời tháo gỡ những khó khăn cho các em cũng như có hình thức khen thưởng động viên khuyến khích các em. Với biện pháp này không những giúp nhũng em học sinh cá biệt này tiến bộ mà còn làm cho tập thể lớp ngày càng đoàn kết, biết giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau trong việc học tập, rèn luyện cũng như trong cuộc sống. 5.2.2.5 Giáo dục học sinh cá biệt bằng cách nêu gương: Đây là một biện pháp giáo dục rất khả quan bởi vì ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở thường thích bắt chước, thể hiện mình. Nên trong các tiết sinh hoạt lớp tôi thường nêu gương tốt ở trong trường, trong lớp, cho các em xem một clip về học sinh vượt khó hay giới thiệu cho các em đọc cuốn sách “Tôi tài giỏi, Bạn cũng thế” của tác giả Ađam Kho nhằm tạo cho các em ý chí vươn lên. Tôi tin rằng khi các em trực tiếp xem, nghe người thực việc thực, các em sẽ tự nhận thức được những hạn chế của bản thân tự phấn đấu đi lên.
- 6 5.2.2.6. Phối hợp chặt chẽ với gia đình, các đoàn thể. Hợp tác giữa giáo viên và gia đình và các đoàn thể là điều cần thiết để giáo dục học sinh cá biệt. Để dạt được hiệu quả tôi đã thực hiện như sau: - Kết hợp với gia đình: + Gặp riêng gia đình, trao đổi và thống nhất các biện pháp giáo dục như : hạn chế cho các em đi chơi với các thanh niên hư hỏng ở địa phương, nắm rõ lịch học của HS để quản lí thời gian, giờ giấc, nhắc nhở, động viên các em học bài làm bài ở nhà... + Thiết lập sổ theo dõi giữa gia đình và lớp: Hàng tuần giáo viên đánh giá nhận xét việc học tập cũng như hành động của các em vào sổ gửi về cho bố mẹ thông qua sổ liên lạc, vnEdu.vn hoặc Zalo. Đồng thời cũng lấy ý kiến từ gia đình để giáo viên có biện pháp giáo dục khác, từ đó gia đình luôn nắm bắt được tình hình học tập của con em mình, cùng với nhà trường kèm cặp học sinh tốt hơn. - Kết hợp với giáo viên bộ môn: Tôi thường xuyên trao đổi với các giáo viên bộ môn để nắm rõ tình hình, thái độ, kết quả học tập để từ đó có hướng động viên, giúp đỡ các em cố gắng trong từng môn học. - Kết hợp với tổ chức Đoàn Đội là một biện pháp giáo dục có hiệu quả rất cao trong việc giáo dục đạo đức học sinh. + Tôi thường yêu cầu các em chấm sao đỏ ghi lại những học sinh vi phạm để kịp thời xử lí dứt điểm. + Còn với Tổng phụ trách đội thì tôi thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ. Tôi kết hợp biện pháp “vừa đấm vừa xoa”. Ở lớp tôi đã dùng biện pháp mềm mỏng, thuyết phục rồi thì tôi nhờ tổng phụ trách đội dùng biện pháp cứng rắn hơn. 5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến: Đề tài “Một số giải pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 6” có khả năng áp dụng cho giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường THCS trong toàn tỉnh Bình Phước. Ngoài ra còn có thể áp dụng trong công tác chủ nhiệm ở trường THCS cho các tỉnh, huyện khác. 6. Những thông tin cần được bảo mật: Không có 7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Để các giải pháp đạt hiệu quả tốt hơn cần các điều kiện như: - Cần có sự phối kết hợp chặt chẽ và thường xuyên giữa giáo viên chủ nhiệm, với giáo viên bộ môn, với các đoàn thể trong và ngoài nhà trường và đặc biệt là với gia đình. - Cần có sự quan tâm hỗ trợ của cấp chính quyền ở địa phương. 8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: Sau một thời gian thực hiện các biện pháp trên đây để diáo dục, cảm hoá học sinh cá biệt ở lớp 6/6 trường TH-THCS Thanh Lương, tôi thấy tính hiệu quả của các biện pháp này là rất khả quan. Hai em học sinh cá biệt của lớp tôi sau một thời gian không lâu được tôi tác động đã có nhiều tiến bộ vượt bậc: hai em trở nên ngoan ngoãn hơn, đi học đúng giờ, không bỏ học, hay phát biểu trong
- 7 giờ học, ít vi phạm nội quy... Qua đợt kiểm tra giữa kì và cuối kì I, các em đạt được điểm số trên trung bình ở các môn học và được thầy cô bộ môn khen ngợi. Đặc biệt là em Đạt từ một học sinh có học lực kém, hạnh kiểm trung bình ở năm học 2019-2020, sang học kì I năm học 2020-2021, em đã được xếp loại học lực trung bình, hạnh kiểm khá. Không chỉ hai em học sinh cá biệt này tiến bộ mà cả tập thể lớp 6/6 cũng có những chuyển biến rất rõ rệt. Từ đầu năm, các em trong lớp là những học sinh từ các trường Tiểu học trong địa bàn xã Thanh Lương chuyển lên, không hề quen biết nhau vậy mà chỉ trong một thời gian ngắn các em đã hòa nhập, đoàn kết với nhau, biết yêu thương, giúp đỡ nhau trong trong học tập cũng như trong cuộc sống. Kết quả xếp thi đua hàng tuần hàng tháng luôn đứng đầu trong toàn khối. Kết quả xếp loại hai mặt cụ thể của lớp như sau: SS Học lực Hạnh kiểm Giỏi Khá TB Yếu Kém Tốt Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % 38 10 26,3 11 29 17 44,7 0 0 0 0 28 73,7 10 26,3 0 0 0 0 Từ bảng thống kê trên cho thấy, kết quả học tập và rèn luyện của các em lớp 6/6 đã cao hơn rất nhiều so với kết quả của toàn trường nói chung và của khối 6 nói riêng. Từ những học sinh kém về học lực, trung bình về hạnh kiểm, khi được giáo dục bằng các giải pháp trên, các em đã có tiến bộ vượt bậc. Đó là một kết quả khiến tôi rất hài lòng sau một học kì thực hiện các biện pháp trên đây để giáo dục học sinh cá biệt. Tuy nhiên không vì thế mà tôi dừng lại ở đó, với những kinh nghiệm của bản thân cũng như trách nhiệm của người giáo viên, tôi sẽ cố gắng từng bước khắc phục những khó khăn trước mắt để tạo điều kiện và giúp đỡ các học sinh cá biệt vươn lên, tiến bộ hơn nữa trong thời gian tới. 9. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử
- 8 10. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu: Số Họ và Ngày Nơi công Chức Trình độ Nội dung công TT tên tháng tác (hoặc danh chuyên việc hỗ trợ năm nơi thường môn sinh trú) Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Thanh Lương, ngày 01 tháng 01 năm 2021 Người nộp đơn (Ký và ghi rõ họ tên) Lê Thị Bích Thủy CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
- 9 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến Trường TH- THCS Thanh Lương Hội đồng sáng kiến Ngành GD&ĐT TX Bình Long Tôi ghi tên dưới đây: Số Họ và Ngày Nơi công Chức Trình độ Tỷ lệ (%) TT tên tháng tác (hoặc danh chuyên đóng góp vào năm sinh nơi thường môn việc tạo ra trú) sáng kiến (ghi rõ đối với từng đồng tác giả, nếu có) 1 CAO 12/02/1978 Trường Giáo CĐSP 100% NGỌC TH-THCS viên TDTT CƯỜNG THANH THCS LƯƠNG, TX BÌNH LONG, BÌNH PHƯỚC 1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 6” cấp Thị xã năm học 2020-2021 2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là chủ đầu tư ra sáng kiến 3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục ( Chủ nhiệm lớp) 4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 15/09/2020 5. Mô tả bản chất của sáng kiến: - Nghiên cứu thực tiễn về sự hứng thú, tích cực của học sinh trong hoạt động khởi động và ảnh hưởng của hoạt động khởi động đến toàn bộ quá trình tiết học của bộ môn Địa lí. - Đề xuất những giải pháp đổi mới trong hoạt động khởi động để phát huy tính tích cực của học sinh, tạo tâm lý sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập một cách chủ động và sáng tạo.
- 10 - Thông qua những trải nghiệm thực tế rút ra được những bài học kinh nghiệm cho bản thân để đổi mới có hiệu quả hoạt động dạy học, đặc biệt là xây dựng có hiệu quả các tình huống khởi động nhằm mang lại hứng thú cho học sinh, kích thích các em tích cực và chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức một cách tự nhiên, không miễn cưỡng, gò bó. - Hơn hết đây là một trong những bước trong tiến trình bài dạy theo định hướng phát phiển phẩm chất năng lực của học sinh trong “Chương trình giáo dục phổ thông mới”. Sau đây tôi xin được chia sẻ với đồng nghiệp những giải pháp mà bản thân tôi đã thực hiện trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài. 5.2. Nội dung sáng kiến 5.2.1.Thực trạng dạy và học môn Địa lí tại trường THCS Tình hình thực tế hiện nay, đa số giáo viên đều có tinh thần tự đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh tuy nhiên phần lớn các thầy cô giáo đều hướng đến việc đổi mới trong hoạt động hình thành kiến thức là chủ yếu, chưa quan tâm đúng mức tới hoạt động khởi động cũng như vai trò của khởi động trong việc định hướng tiết dạy, tạo tâm lý tích cực cho học sinh để các em chủ động và tích cực khai thác, khám phá kiến thức mới nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đề ra về kiến thức, kỹ năng và những năng lực cần hình thành cho học sinh sau mỗi tiết học hoặc nếu có cũng thực hiện 1 cách sơ sài mang tính hình thức. Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động khởi động có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ tiến trình tiết dạy, ảnh hưởng lớn đến việc chủ động sẵn sàng tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh nên tôi đã tiến hành thực hiện giải pháp “Phát huy tính tích cực của học sinh qua hoạt động khởi động trong dạy học Địa lí ở bậc THCS”. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện tôi thấy còn một số thuận lợi, khó khăn sau: a. Thuận lợi - Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, ham thích tìm hiểu kiến thức Địa lí. - Phòng giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường quan tâm đến quá trình đổi mới phương pháp, luôn tạo điều kiện kịp thời để người dạy phát huy tốt khả năng của bản thân, có nhiều biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học. b. Khó khăn Qua thực tế giảng dạy và dự giờ thăm lớp học hỏi kinh nghiệm ở các đồng nghiệp tôi nhận thấy. Về phía giáo viên: Một số giáo viên chưa chủ động trong việc học hỏi, tiếp thu phương pháp và kỹ năng dạy học tích cực để vận dụng trong quá trình dạy học.Tâm lý giáo viên còn nặng về truyền thụ kiến thức bài học mới, còn sợ dành nhiều thời gian cho hoạt động khởi động có thể bị “cháy giáo án” hoặc không đủ thời gian dành cho việc khai thác kiến thức mới.Việc ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên trong một số tình huống chưa tốt nên còn ngại trong việc đổi mới phương pháp dạy học và thiết kế giáo án theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động khởi động. Về phía học sinh: Nhiều học sinh có tâm lý học lệch, thiên về một số môn KHTN nên ở các môn KHXH còn lại chưa có sự đầu tư, chưa quan tâm
- 11 chuẩn bị bài chưa chu đáo, dẫn đến tiết học còn thụ động.Áp lực học tập từ nhiều bộ môn khác nhau trong cùng một buổi học nên khả năng tập trung tư duy, tích cực và sáng tạo dành cho môn Địa lí còn ít.Tâm lý sợ về nhà không có nội dung để học nên nhiều học sinh trong giờ học chưa thực sự tích cực và chủ động dành thời gian tìm hiểu, khai thác kiến thức mà còn nặng về việc ghi chép nội dung bài học 1 cách thụ động. 5.2.2.Giải pháp thực hiện Với hình thức đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh ngay từ hoạt động khởi động, do đó khởi động cần tổ chức thành hoạt động để học sinh trực tiếp tham gia nên sẽ cần lượng thời gian nhiều hơn. Do đó khi xây dựng ý tưởng cho hoạt động khởi động giáo viên cần lưu ý không lấy những nội dung không thiết thực với bài học, tránh lấy những nội dung mang tính chất minh họa mà cần cụ thể: Sử dụng nội dung bài học để khởi động sao cho trong khởi động sẽ bao quát được nội dung bài học, qua đó giúp giáo viên biết được học sinh đã có kiến thức gì trong bài mới và chưa biết gì để khai thác sâu vào những nội dung học sinh chưa biết (điều này có thể sẽ khác nhau ở từng lớp nên giáo viên cần có sự điều chỉnh kịp thời để phù hợp với đối tượng học sinh ở các lớp). Hoạt động khởi động là bước “thực hiện các động tác nhẹ trước khi thực hiện nội dung bài dạy” nên việc khởi động cũng cần nhẹ và sinh động để tạo sự hấp dẫn cho học sinh. Việc đặt câu hỏi hay tình huống khởi động cần chú ý tạo được hứng thú cho học sinh để học sinh được thực hiện nhiệm vụ, được tham gia trả lời câu hỏi hoặc tham gia vào các tình huống khởi động. Câu hỏi/tình huống đưa ra ở phần này cũng cần có nhiều mức độ trong đó nhất thiết phải có câu dễ học sinh nào cũng có thể trả lời được, khi các em trả lời được sẽ phần nào sẽ cảm thấy vui vẻ, thích thú để tạo tâm lý tốt khi vào bài học. Ở mỗi hoạt động khởi động đều xuất phát từ nội dung bài học, nhưng nếu tình huống nào đưa ra học sinh cũng giải quyết được thì các em sẽ không có hứng thú tìm hiểu kiến thức mới, không kích thích được trí tò mò và nhu cầu học tập một cách chủ động và tích cực của các em. Do đó bên cạnh câu hỏi dễ cần có một lượng nhất định các câu hỏi khó liên quan đến nội dung bài học, đòi hỏi học sinh phải tư duy, phải chủ động khai thác kiến thức mới thì mới trả lời được. Do đó, trong hoạt động khởi động nếu giáo viên tìm ra được tình huống khó nhưng lại hấp dẫn, kích thích trí tò mò của các em thì dù là học sinh khá giỏi hay học sinh trung bình, học sinh yếu cũng sẽ có nhu cầu tìm hiểu để trả lời. Từ đó dẫn các em vào bài học một cách tư nhiên, không gò bó mà các em tự giác, tích cực học tập để giải quyết cái khúc mắc đã được đưa ra từ tình huống ban đầu. Khi áp dụng tổ chức hoạt động khởi động cho tất cả các tiết học ở các lớp thì giáo viên nên lưu ý: Kế hoạch hoạt động đã xây dựng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm học sinh của từng lớp; tránh việc xây dựng 1 tình huống cố định dùng chung cho tất cả các lớp trong cùng một khối. Phương án xây dựng tình huống khởi động giữa các tiết, các bài học nên có sự đổi mới về hình thức, phương pháp; tránh sự nhàm chán cho học sinh khi tiết học nào cũng
- 12 tổ chức hoạt động khởi động theo kiểu “đến hẹn lại lên” với các bước tuần tự như nhau. 5.2.3. Minh họa một số bài giảng phát huy tính tích cực của học sinh qua hoạt động khởi động trong giờ học Địa lí ở bậc THCS *Địa lí 6 Bài 8: Sự chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời Giáo viên cho học sinh đóng vai Trái Đất và Mặt Trời. Sau đó lần lượt gọi một số em lên hướng dẫn nhân vật Trái Đất chuyển động quanh trục đồng thời dự đoán hướng chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời. Giáo viên khái quát lại đáp án chính xác và giới thiệu vào bài mới. Bài 9: Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa Giáo viên đọc hai câu ca dao: “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng Ngày tháng mười chưa cười đã tối” Cho học sinh dự đoán đây là hiện tượng gì? Vì sao lại có hiện tượng đó? Học sinh sẽ khó để trả lời cho câu hỏi thứ hai. Vì thế nên khi học sinh gặp khó khăn trong việc giải thích hiện tượng trên, giáo viên sẽ kích thích trí tò mò của học sinh bằng việc dẫn nhập vào bài mới. Bài 12: Tác động của nội lực và ngoại lực trong việc hình thành địa hình bề mặt Trái Đất. Để giới thiệu vào bài học này, giáo viên cho học sinh quan sát hoặc trình chiếu hình ảnh về các hiện tượng tự nhiên và các cảnh quan trên bề mặt Trái Đất. Sau đó, học sinh sẽ thử xác định những hình ảnh nào có nguồn gốc từ bên trong Trái Đất, những hình ảnh nào hình thành bên ngoài Trái Đất. Từ đó giáo viên khuyến khích các em đưa ra định nghĩa về nội lực và ngoại lực. *Địa lí 7 Bài 17: Ô nhiễm môi trường ở đới ôn hòa Cả lớp xem một đoạn trích ngắn, hấp dẫn về hiện trạng ô nhiễm môi trường ở các đô thị lớn. Sau đó thảo luận trên phạm vi cả lớp (ví dụ: cái gì, ở đâu, tại sao, khi nào, như thế nào?) Cuối cùng, giáo viên sẽ củng cố câu trả lời của học sinh và dẫn nhập vào nội dung bài học. Bài 19: Môi trường hoang mạc Giáo viên tự sáng tác một đoạn thơ về môi trường hoang mạc: Châu Phi nhiều hoang mạc Nắng nóng và hiếm mưa Một vùng mênh mông cát Xương rồng- loài cây vua! Sau đó, giáo viên khuyến khích học sinh thử phổ nhạc cho đoạn thơ cô vừa sáng tác. Cả lớp sẽ cùng nhau hát tập thể bài hát vừa mới được phổ nhạc trước khi vào bài học mới. Bài 26: Thiên nhiên châu Phi Giáo viên cung cấp các hình ảnh như: hoang mạc XA-HA-RA, người da đen, kim cương, HIV-AIDS, kênh đào xuy-ê….
- 13 Cho học sinh dự đoán về nội dung mà giáo viên đang muốn đề cập tới sau đó, học sinh sẽ giới thiệu sơ qua về nội dung đó cho cả lớp nghe. Giáo viên dựa trên phần giới thiệu của học sinh bổ sung một số chi tiết hấp dẫn về Châu Phi và dẫn dắt vào bài mới. Bài 47: Châu Nam Cực- châu lục lạnh nhất thế giới. GV tổ chức cho HS chơi trò chơi: Cả lớp chia thành 2 nhóm lần lượt viết lên bảng một từ liên quan đến chủ đề CHÂU NAM CỰC. Không thể lặp lại từ. Đội nào ghi được nhiều từ hơn trong cùng một thời gian sẽ giành chiến thắng. Sau đó giáo viên sẽ dựa vào những từ đã có sẵn trên bảng để dẫn nhập vào bài mới. * Địa lí 8 Bài 10: Điều kiện tự nhiên khu vực Nam Á Giáo viên hướng dẫn học sinh chơi trò chơi “Ai chỉ đúng ?” Giáo viên chuẩn bị sẵn các băng giấy ghi tên các địa danh: Dãy núi Himalaya, đỉnh Everest, đồng bằng Ấn Hằng, Ấn Độ, Hoang mạc Tha… Nhiệm vụ của các đội chơi, lần lượt lên bốc thăm, trúng địa danh nào đội đó phải chỉ trên bản đồ địa lí tự nhiên châu Á. Nếu chỉ đúng vị trí đội ghi được 3 điểm; nếu chỉ sai đội đó bị trừ 1 điểm. Thời gian chơi 5 phút. Sau đó giáo viên giới thiệu một cách khái quát về khu vực Nam Á dựa trên những địa danh mà học sinh vừa tham gia chơi để bắt đầu vào bài mới. Bài 29: Đặc điểm các khu vực địa hình GV tổ chức cho HS chơi trò chơi: chia lớp thành 2 dãy, gọi là 2 đội và đặt tên (Đội 1: Khu vực đồi núi; đội 2: Khu vực đồng bằng). Mỗi đội chia thành 3 nhóm nhỏ, tiến hành thảo luận trong thời gian 5 phút để giới thiệu về những thế mạnh và hạn chế của khu vực địa hình mà nhóm mình phụ trách để thu hút khách tham quan và nhà đầu tư. Đồng thời chỉ ra những khó khăn về khu vực địa hình của đội bạn. (Học sinh yếu và trung bình chỉ tìm được những thế mạnh và hạn chế cơ bản trong sách đã nêu. Học sinh khá giỏi phân tích được mối quan hệ giữa các yếu tố để rút ra thuận lợi khó khăn và bổ sung cho đội bạn Qua phần trình bày của học sinh, giáo viên nhận xét chỗ đúng và chưa đúng, từ đó giáo viên dẫn dắt vào nội dung của các khu vực đồng bằng. Bài 31: Đặc điểm khí hậu Việt Nam Học sinh sẽ nghe trước lời ca khúc: “Thật diệu kỳ là mùa đông phương Nam Muốn gửi ra em một chút nắng vàng Thương cái rét của thợ cày thợ cấy Nên cứ muốn chia nắng đều ra ngoài ấy Có tình thương tha thiết của trong này...” Sau đó, giáo viên giải thích cho các em hiểu sở dĩ không khí mùa đông ở miền Bắc lạnh, miền Nam vẫn ấm do miền Bắc chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc, khi xuống phía Nam gió mùa đông bắc yếu dần và bị chặn lại ở dãy Bạch Mã... *Địa lí 9 Bài 17, 18: Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ
- 14 Giáo viên cho cả lớp xem một đoạn clip ngắn về những địa danh nổi tiếng của vùng Trung du miền núi Bắc Bộ. Sau khi xem xong, đại diện của các tổ sẽ vào vai những hướng dẫn viên du lịch giới thiệu về những nội dung đã được xem trong đoạn clip. Giáo viên nhận xét và chọn ra những thông tin thú vị từ phần giới thiệu của các tổ để dẫn nhập vào bài mới. Bài 20, 21: Vùng Đồng bằng sông Hồng Giáo viên đưa ra những bức tranh với những nội dung không đúng với địa điểm, đặc điểm của vùng Đồng bằng sông Hồng. Yêu cầu học sinh nhận diện những điểm lỗi và sau đó giải thích lý do. Kết nối những nội dung đã được học sinh chỉnh sửa và tạo ra nội dung mới cần thiết cho bài học. 5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến: Sáng kiến có thể áp dụng rộng rãi ở tất cả các bài, các khối lớp của môn Địa lí tại trường TH- THCS Thanh Lương và có thể nhân rộng ở các trường khác trong toàn Thị Xã 6. Những thông tin cần được bảo mật: Không có 7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến Để các giải pháp đạt hiệu quả tốt hơn cần các điều kiện như: - Vật chất: Phòng máy chiếu hoặc ti vi - Về việc tiến hành sử dụng giải pháp cần: + Giáo viên cần có sự sáng tạo nghiên cứu thông tin liên quan, sử dụng hình ảnh hoặc video phù hợp + Học sinh cần có tính tích cực trong tìm hiểu thông tin 8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả Sáng kiến giúp học sinh yêu thích bộ môn, luôn có sự chuẩn bị tốt cho tiết học, nâng cao ý thức học tập do đó cũng nâng cao hiệu quả tiếp thu. Học sinh không chỉ học trong sách giáo khoa mà còn rèn kĩ năng liên hệ thực tế. Học sinh biết vận dụng nội dung đã học vào thực tế cũng như từ thực tế so sánh lại vào môn học. Giúp học sinh tránh được tâm lí nặng nề khô khan khi học tập và thấy được vai trò của môn học trong quá trình phát triển toàn diện của bản thân. 9. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử Ý kiến nhận xét, đánh giá của Hội đồng khoa học trường TH-THCS Thanh Lương
- 15 10. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu: Số Họ và Ngày Nơi công Chức Trình độ Nội dung công TT tên tháng tác (hoặc danh chuyên việc hỗ trợ năm nơi thường môn sinh trú) Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Thanh Lương, ngày 02 tháng 01 năm 2021 Người nộp đơn (Ký và ghi rõ họ tên) Trần Thị Huyền
- 16 MỘT SỐ LƯU Ý: 1. Đơn yêu cầu công nhận sáng kiến in một mặt, trình bày theo Thông tư 01 (thống nhất cỡ chữ 14), đánh số trang và chữ ký nháy của tác giả sáng kiến ở góc dưới bên phải văn bản. 2. Không đóng quyển, không in màu, không cần phải có trang bìa, chỉ bấm lại thành tập văn bản gửi đi. 3. Đơn yêu cầu sáng kiến không quy định số trang, tùy từng giải pháp mà tác giả trình bày sao cho người đọc hiểu nội dung, có thể minh họa bằng hình ảnh, biểu đồ,…
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở THCS
33 p | 97 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS thông qua các tiết sinh hoạt dưới cờ
36 p | 38 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Ứng dụng một số phần mềm nhằm tăng khả năng tương tác của học sinh trong dạy học trực tuyến môn Công nghệ 7
11 p | 164 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
37 p | 38 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Hóa học lớp 8, 9
24 p | 161 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Lồng ghép giải thích các hiện tượng thực tế trong giảng dạy môn hóa học 9 ở trường THCS
22 p | 144 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục tư tưởng đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp
22 p | 64 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh THCS
27 p | 82 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng giáo án điện tử để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí ở trường THCS
13 p | 15 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để dạy - học môn Hóa học lớp 8 THCS
22 p | 24 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục truyền thống cho học sinh thông qua hoạt động ngoại khóa
20 p | 44 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS
19 p | 24 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn giáo viên Ngữ văn đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh ở trường THCS Lương Thế Vinh
25 p | 25 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Nghiên cứu áp dụng một số bài tập nhằm giáo dục sức nhanh cho học sinh lứa tuổi 13, 14
12 p | 8 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana
20 p | 52 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh THCS trong các bài vẽ tranh
17 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường THCS
43 p | 32 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục kỷ luật theo hướng tích cực đối với học sinh lớp 6 ở trường THCS
11 p | 44 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn