intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS qua môn GDCD

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:50

33
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài "Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS qua môn GDCD" nhằm giúp thầy cô hiểu được cách tổ chức để giáo dục kĩ năng sống trong môn GDCD và giáo dục theo hướng hiện đại. Giúp cho học sinh rèn luyện kĩ năng sống trong quá trình học tập và biết vận dụng vào cuộc sống hàng ngày, trong quan hệ với mọi người xung quanh. Mời quý thầy cô và các em cùng tham khảo nội dung chi tiết tại đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS qua môn GDCD

  1. A.  PHÂN M ̀ Ở ĐÂU: ̀      Môn Giáo dục công dân (GDCD) ở trường Trung học cơ sở có vai trò quan  trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục, góp phần hình thành nhân cách  toàn diện cho học sinh, góp phần hình thành và phát triển ở các em  những  phẩm chất năng lực cần thiết của công dân trong một xã hội công bằng ,dân  chủ, văn minh . Môn Giáo dục công dân đam bao cân đôi ,hai hoa gi ̉ ̉ ́ ̀ ̀ ữa yêu câu ̀  ́ ̣ ́ ức với viêc ren luyên ki năng,phat triên thai đô tich c trang thiêt bi kiên th ̣ ̀ ̣ ̃ ́ ̉ ́ ̣ ́ ực cuả   ̣ ̣ hoc sinh,la môn hoc co nhiêu c ̀ ́ ̀ ơ hôi giao duc ki năng sông cho hoc sinh.Đ ̣ ́ ̣ ̃ ́ ̣ ặc  biệt với mục tiêu hình thành phẩm chất, năng lực học sinh và phát huy tiềm  năng sáng tạo của cá nhân, hoạt động trải nghiệm sáng tạo có vai trò quyết  định để đạt mục tiêu đó.     Như chúng ta đã biết, hiện nay Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện   bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng   lực của người học nhằm chuyển từ  phương pháp “truyền thụ  một chiều”  sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức,rèn luyện kĩ năng hình thành  năng lực và phẩm chất, chuyển từ  chương trình định hướng nội dung dạy   học sang chương trình định hướng năng lực nhằm  dạy  bảo đảm chất lượng  đầu ra của việc dạy học thực hiện mục tiêu  phát triển toàn diện các phẩm  chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống   thực tiễn nhằm chuẩn bị  cho con người năng lực giải quyết các tình huống  cuộc sống và nghề nghiệp.    Trong tiến trình, xu thế đổi mới chung đó, môn Giáo dục công dân ở  trong   trường Trung học cơ  sở  có vai trò quan trọng trực tiếp trong quá trình hình  thành   ý   thức   chính   trị,   hành   vi   đạo   đức,   pháp   luật   và   lối   sống   cho   học   sinh.Môn học này có đặc điểm là gần gũi, gắn bó mật thiết với đời sống thực   tiễn sinh động của gia đình, nhà trường và xã hội. Đặc điểm này tạo cho môn  Giáo dục công dân có những lợi thế để giáo viên có thể sử dụng các phương   pháp giảng dạy tích cực nhằm phát triển các năng lực cho học sinh.      Mặt khác, trong giảng dạy môn Giáo dục công dân nói chung và Giáo dục  công dân Trung học cơ sở nói riêng để đạt được mục tiêu đổi mới dạy học theo  phát triển định hướng năng lực của học sinh thì điều quan trọng trong môn Giáo  dục công dân phải thực hiện tốt các hoạt động trải nghiệm sáng tạo.      Hoạt động trải nghiệm.sẽ tạo cơ hội cho học sinh huy động, tổng hợp kiến  thức, kĩ năng của các môn học, các lĩnh vực giáo dục khác nhau để có thể trải  nghiệm thực tiễn trong nhà trường, gia đình và xã hội. Đồng thời giúp các em có                                                                                         1 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm                                                 Môn Giáo dục công dân    
  2. cơ hội để tham gia các hoạt động phục vụ cộng đồng và hoạt động hướng  nghiệp.    Đặc biệt tất cả các hoạt động này phải dưới sự hướng dẫn, tổ chức của nhà  giáo dục. Qua đó hình thành những phẩm chất chủ yếu, những năng lực chung  đã được xác định tại chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.    Các năng lực và phẩm chất chung này sẽ được thực hiện trong hoạt động trải  nghiệm thông qua 3 mục tiêu của hoạt động trải nghiệm. Hoạt động trải nghiệm sẽ được tổ chức cả ở trong và ngoài lớp học, trong và  ngoài nhà trường theo các quy mô: cá nhân, nhóm, lớp học, khối lớp hoặc quy mô  trường   Từ nhưng trăn tr ̃ ở đo, tôi đa rut ra đ ́ ̃ ́ ược: “Một số kinh nghiệm tổ chức hoạt  động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh THCS qua môn GDCD”.     Theo tôi, đây là vấn đề thực sự quan trọng và cần thiết để có những giờ dạy   giáo dục công dân thật hiệu quả.            II.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.                   Học sinh khối lớp 6 đến 9 môn Giáo dục công dân.Sáng kiến chỉ  dừng lại ở việc giáo dục kĩ năng sống trong tiết dạy Giáo dục công dân.    III. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu:  ­ Qua qúa trình tổ chức hoạt động trải nghiệm, giúp hiểu được cách tổ chức  để giáo dục kĩ năng sống trong môn GDCD và giáo dục theo hướng hiện đại. ­ Giúp cho học sinh rèn luyện kĩ năng sống trong quá trình học tập và biết   vận dụng vào cuộc sống hàng ngày,trong quan hệ với mọi người xung quanh.    ­ Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được cho là có thể mang lại cho học sinh cơ  hội và điều kiện phát triển năng lực, phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo  và vận dụng kiến thức, kĩ năng. Với hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hình thức   và không gian dạy học được đổi mới, mở rộng ra ngoài lớp học; lực lượng tham   gia quá trình dạy học không chỉ là giáo viên trong trường mà có sự tham gia của   các thành phần xã hội,...  IV. Phương pháp nghiên cứu ­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu:  Là phương pháp nghiên cứu các tài  liệu có liên quan đến giáo dục kĩ năng sống trong tiết dạy Giáo dục công dân   như:Tài   liệu  giáo  dục  kĩ  năng  sống.Sách  Hướng  dẫn học  GDCD  6 mô  hình  trường học mới.Giáo dục công dân 7,8,9 nhà xuất bản GD.Tài liệu dạy học theo   định hướng phát triển năng lực của học sinh và một số tài liệu tham khảo khác. 2
  3. ­ Phương pháp quan sát: Là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng  nghiên cứu. Dùng phương pháp này để  quan sát học sinh qua các tiết dạy, qua  quá trình học tập, xem thái độ  học tập, thói quen và hành vi bảo vệ  môi trường  của các em như thế nào? Qua đó tìm hiểu sâu về vấn đề nghiên cứu  ­   Phương   pháp   trò   chuyện­   trao   đổi:  Dùng   phương   pháp   này   để   trò  chuyện với học sinh để biết được kết quả việc tiến hành loại bài này.  ­ Phương pháp phân tích sản phẩm: Nghiên cứu sản phẩm học tập của  học sinh qua các buổi lao động, ngoại khóa… và giảng dạy của giáo viên. Giúp  ta xác định khả  năng nhận thức, trình độ  nhận thức, thái độ  hứng thú học tập  của học sinh, trình độ  nghiệp vụ  kiến thức, đặc điểm, tính cách và khả  năng  vươn tới của giáo viên  ­   Phương pháp điều tra, khảo sát:  Qua một thời gian nghiên cứu, giáo  viên tiến hành điều tra, khảo sát, so sánh, đối chiếu với số  liệu cũ với số  liệu   mới để thấy kết quả nghiên cứu của đề tài.  ­ Phương pháp thảo luận nhóm: Phương pháp thảo luận nhóm được sử  dụng nhằm giúp cho mọi học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học   tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẽ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải   quyết các vấn đề có liên quan đến bài học, tạo cơ hội cho các em được giao lưu,  học hỏi lẫn nhau, cùng hợp tác giải quyết những nhiệm vụ chung.  ­ Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình: Phương pháp nghiên  cứu trường hợp điển hình là phương pháp sử dụng một câu chuyện có thật hoặc  chuyện được viết dựa trên những trường hợp thường xảy ra trong cuộc sống   thực tiễn, để minh chứng cho một vấn đề hay một số vấn đề.  ­ Phương pháp giải quyết vấn đề: Phương pháp giải quyết vấn đề là xem  xét, phân tích những vấn đề, tình huống cụ thể thường gặp phải trong đời sống  hành ngày và xác định cách giải quyết, xử lí vấn đề  tình huống đó một cách có  hiệu quả.  ­ Phương pháp đóng vai và giải quyết tình huống:  Đóng vai là phương  pháp tổ chức cho học sinh thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong  một tình huống giả  định. Đây là phương pháp nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu   sắc về một vấn đề, bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa   thực hiện hoặc quan sát được.                                                                                         3 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm                                                 Môn Giáo dục công dân    
  4. ­ Phương pháp trò chơi: Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho  học sinh tìm hiểu một vấn đề  hoặc thể  nghiệm những hành động, những thái  độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó.  ­  Phương pháp động não:  Phương pháp động não thường được sử  dụng  trong bài học trước khi giới thiệu bài mới, giới thiệu một nội dung mới hoặc kết   thúc một nội dung nào đấy . Phương pháp này góp phần rèn luyện tư  duy độc  lập, năng lực sang tạo, năng lực giao tiếp cho học sinh. ­ Phương pháp dạy học trải nghiệm và khám phá: Phương pháp này góp  phần phát triển cho học sinh năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực  tự nghiên cứu, năng lực sáng tạo và năng lực chịu trách nhiệm. V. Dự báo đóng góp của đề tài. ­ Đây là vấn đề  được cả  xã hội quan tâm, có thể  tích hợp giáo dục trong   nhiều môn học, riêng môn Giáo dục công dân là môn có nhiều cơ hội thực hiện   hoạt động  trải nghiệm tốt, phù hợp cho bản thân để  đạt mục tiêu giáo dục nói  chung trở  thành những con người phát triển một cách toàn diện để  năng động,   sáng tạo phù hợp với một xã hội hiện đại đang phát triển.                                                B.PHÂN NÔI DUNG ̀ ̣ I. Cơ sở lí luận:          Việc đưa hoạt động trải nghiệm sáng tạo vào trong chương trình giáo dục  của nhà trường góp phần khắc phục những tồn tại của chương trình giáo dục  hiện nay, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.         Hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo là các hoạt động trải nghiệm định  hướng giáo dục. Cách gọi tên có thêm cụm từ  “sáng tạo” nhằm mục đích nhấn  mạnh vai trò của chủ  thể  hoạt động và mục đích, ý nghĩa của loại hoạt động  này.        Triển khai hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo chính là thực hiện quan   điểm, định hướng “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất,   nhà trường gắn liền với xã hội”.     Từ thời kì đầu của nền giáo dục nước Việt Nam dân chủ  cộng hòa, Chủ  tịch   Hồ  Chí Minh đã chỉ  rõ phương pháp để  đào tạo nên những người tài đức là:   “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn  liền với xã hội!”.  4
  5.      Đây cũng là nguyên lí giáo dục được qui định trong Luật giáo dục hiện hành   của Việt Nam. Tuy vậy, trong thời gian vừa qua, do cách hiểu và cách làm, giáo  dục ­đào tạo chưa đạt được nhiều thành công trong việc thực hiện nguyên lí này.        Trên thế giới, từ giữa thế kỉ XX, nhà khoa học giáo dục nổi tiếng người Mĩ,  John Dewey, với tác phẩm Kinh nghiệm và Giáo dục (Experience and Education)   đã chỉ  ra hạn chế của giáo dục nhà trường và đưa ra quan điểm về  vai trò của   kinh nghiệm trong giáo dục.     Với triết lí giáo dục đề cao vai trò của kinh nghiệm, Dewey cũng chỉ  ra rằng,   những kinh nghiệm có ý nghĩa giáo dục giúp nâng cao hiệu quả  giáo dục bằng   cách kết nối người học và những kiến thức được học với thực tiễn.        Kolb (1984) cũng đưa ra một lí thuyết về  học từ  trải nghiệm (Experiential   learning), theo đó, học là một quá trình trong đó kiến thức của người học được  tạo ra qua việc chuyển hóa kinh nghiệm; nghĩa là, bản chất của hoạt động học  là quá trình trải nghiệm.           Một số  quan niệm khác của các học giả  quốc tế  cho rằng giáo dục trải  nghiệm coi trọng và khuyến khích mối liên hệ  giữa các bài học trừu tượng với  các hoạt động giáo dục cụ thể để tối ưu hóa kết quả học tập (Sakofs, 1995); học  từ trải nghiệm phải gắn kinh nghiệm của người học với hoạt động phản ánh và   phân tích (Chapman, McPhee and Proudman, 1995); chỉ có kinh nghiệm thì chưa  đủ  để  được gọi là trải nghiệm; chính quá trình phản ánh đã chuyển hóa kinh  nghiệm thành trải nghiệm giáo dục (Joplin, 1995).     Như vậy, hoạt động bao giờ cũng có thuộc tính trải nghiệm, sáng tạo của chủ  thể. Các hoạt động giáo dục trong nhà trường được tổ  chức phù hợp với bản  chất hoạt động của con người đều có thể  được coi là hoạt động giáo dục trải  nghiệm sáng tạo, bao gồm cả các hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục trong   và ngoài nhà trường.       Do đó, có thể  chia hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo thành 2 nhóm:   Hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo theo nghĩa hẹp nhằm hình thành các   giá trị, phẩm chất, hành vi và hoạt động dạy học trải nghiệm sáng tạo nhằm tổ  chức hoạt động nhận thức ­ học tập sáng tạo cho người học.      Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục thông qua sự  trải   nghiệm và sáng tạo của cá nhân trong việc kết nối kinh nghiệm học được trong  nhà trường với thực tiễn đời sống, nhờ  đó các kinh nghiệm được tích lũy thêm   và dần chuyển hoá thành năng lực.      Hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo mang tính tích hợp nhiều lĩnh vực   học tập và giáo dục; đòi hỏi khả  năng phối hợp liên kết nhiều lực lượng giáo  dục trong và ngoài nhà trường.                                                                                         5 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm                                                 Môn Giáo dục công dân    
  6.       Hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo được tổ chức dưới nhiều hình thức  khác nhau như trò chơi, hội thi, cuộc thi, diễn đàn, giao lưu, tham quan học tập,  sân khấu hóa (kịch, tiểu phẩm, thơ, hát,...) thể  dục thể  thao, câu lạc bộ, nghiên   cứu khoa học kĩ thuật,...  Các hoạt động này tạo cơ hội cho học sinh phát huy tính tích cực, chủ  động, tự  giác và sáng tạo của bản thân, huy động sự tham gia của học sinh vào tất cả các   khâu của quá trình hoạt động. Học sinh được trình bày và lựa chọn ý tưởng,   tham gia chuẩn bị, thiết kế  hoạt động, trải nghiệm, bày tỏ  quan điểm, tự  đánh  giá, tự khẳng định. Như  vậy, hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo không hoàn toàn xa lạ  đối   với giáo dục Việt Nam trước đây cũng như trong thời gian gần đây.  Nhằm định hướng đổi mới căn bản, toàn diện, nhiều hoạt động dưới dạng trải   nghiệm sáng tạo đã được triển khai thực hiện.       Để  các hoạt động trải nghiệm sáng tạo  giáo dục kĩ năng sống cho học sinh  Đảng và Nhà nước và những người làm công tác giáo dục đã đề  ra nhiều chủ  trương biện pháp tích cực đồng bộ  ,nhiều văn bản mang tính pháp quy được   thông qua:…….           Bộ,sở, nghành Giáo dục­Đào tạo đã thực sự rất quan tâm có nhiều chương  trình tập huấn, chuyên đề  về  hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh nói  chung và trong môn Giáo dục công dân nói riêng, đưa vị trí môn học vào các môn  bắt buộc, môn học này chỉ giáo viên đào tạo đúng chuyên nghành đảm nhận.    II. Cơ sở thực tiễn:       Ở Tiểu học được gọi là Hoạt động trải nghiệm, ở THCS và THPT là Hoạt  động trải nghiệm­ Hướng nghiệp. Tuy nhiên, 2 tên gọi này vẫn đang trong quá  trình xin ý kiến của dư luận.          Hội thảo Hoạt động trải nghiệm sáng tạo của học sinh phổ thông năm 2015   của Bộ  giáo dục và Đào tạo tập trung một số  nghiên cứu, bài viết của một số  nhà khoa học giáo dục Việt Nam về cơ sở lí luận, thực tiễn triển khai hoạt động  giáo dục trải nghiệm sáng tạo ở  một số quốc gia có nền giáo dục phát triển và  một số gợi ý áp dụng vào giáo dục phổ thông ở Việt Nam.     Trải nghiệm và sáng tạo là bản chất của hoạt động  ở  người. Bản chất hoạt  động của người học nói riêng, của con người nói chung là hoạt động mang tính  trải nghiệm, sáng tạo.     Như vậy, hoạt động bao giờ cũng có thuộc tính trải nghiệm, sáng tạo của chủ  thể. Các hoạt động giáo dục trong nhà trường được tổ  chức phù hợp với bản  chất hoạt động của con người đều có thể  được coi là hoạt động giáo dục trải  nghiệm sáng tạo, bao gồm cả các hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục trong   và ngoài nhà trường.  6
  7.         Do đó, có thể chia hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo thành 2 nhóm:   Hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo theo nghĩa hẹp nhằm hình thành các   giá trị, phẩm chất, hành vi và Hoạt động dạy học trải nghiệm sáng tạo nhằm tổ  chức hoạt động nhận thức ­ học tập sáng tạo cho người học.      Hoạt động giáo  dục trải nghiệm sáng tạo được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như trò   chơi, hội thi, cuộc thi, diễn đàn, giao lưu, tham quan học tập, sân khấu hóa (kịch,   tiểu phẩm, thơ, hát,...) thể  dục thể  thao, câu lạc bộ, nghiên cứu khoa học kĩ   thuật,...         Các hoạt động này tạo cơ hội cho học sinh phát huy tính tích cực, chủ động,  tự  giác và sáng tạo của bản thân, huy động sự  tham gia của học sinh vào tất cả  các khâu của quá trình hoạt động. Học sinh được trình bày và lựa chọn ý tưởng,   tham gia chuẩn bị, thiết kế  hoạt động, trải nghiệm, bày tỏ  quan điểm, tự  đánh  giá, tự khẳng định.     HĐTNST được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như hoạt động câu  lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, các  hội thi, hoạt động giao lưu, hoạt động nhân đạo, hoạt động tình nguyện, hoạt  động cộng đồng, sinh hoạt tập thể, lao động công ích, sân khấu hóa (kịch, thơ,  hát, múa rối, tiểu phẩm, kịch tham gia,…), thể dục thể thao, tổ chức các ngày  hội,… Mỗi hình thức hoạt động trên đều mang ý nghĩa giáo dục nhất định. Dưới  đây là một số hình thức tổ chức của HĐTNST trong nhà trường phổ thông: 4.1. Hoạt động câu lạc bộ (CLB) Câu lạc bộ là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học sinh cùng sở  thích, nhu cầu, năng khiếu,… dưới sự định hướng của những nhà giáo dục nhằm  tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với nhau và giữa  học sinh với thầy cô giáo, với những người lớn khác. Hoạt động của CLB tạo  cơ hội để học sinh được chia sẻ những kiến thức, hiểu biết của mình về các  lĩnh vực mà các em quan tâm, qua đó phát triển các kĩ năng của học sinh như: kĩ  năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe và biểu đạt ý kiến, kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý  tưởng, kĩ năng viết bài, kĩ năng chụp ảnh, kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm, kĩ  năng ra quyết định và giải quyết vấn đề,… CLB là nơi để học sinh được thực  hành các quyền trẻ em của mình như quyền được học tập, quyền được vui chơi  giải trí và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; quyền được tự do biểu  đạt; tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin,… Thộng qua hoạt động của các  CLB, nhà giáo dục hiểu và quan tâm hơn đến nhu cầu, nguyện vọng mục đích  chính đáng của các em. CLB hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, thống nhất,                                                                                         7 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm                                                 Môn Giáo dục công dân    
  8. có lịch sinh hoạt định kì và có thể được tổ chức với nhiều lĩnh vực khác nhau  như: CLB học thuật; CLB thể dục thể thao; CLB văn hóa nghệ thuật; CLB võ  thuật; CLB hoạt động thực tế; CLB trò chơi dân gian… 4.2. Tổ chức trò chơi Trò chơi là một loại hình hoạt động giải trí, thư giãn; là món ăn tinh thần nhiều  bổ ích và không thể thiếu được trong cuộc sống con người nói chung, đối với  học sinh nói riêng. Trò chơi là hình thức tổ chức các hoạt động vui chơi với nội  dung kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có tác dụng giáo dục “chơi mà  học, học mà chơi”. Trò chơi có thể được sử dụng trong nhiều tình huống khác nhau của HĐTNST  như làm quen, khởi động, dẫn nhập vào nội dung học tập, cung cấp và tiếp nhận  tri thức; đánh giá kết quả, rèn luyện các kĩ năng và củng cố những tri thức đã  được tiếp nhận,… Trò chơi giúp phát huy tính sáng tạo, hấp dẫn và gây hứng thú  cho học sinh; giúp học sinh dễ tiếp thu kiến thức mới; giúp chuyển tải nhiều tri  thức của nhiều lĩnh vực khác nhau; tạo được bầu không khí thân thiện; tạo cho  các em tác phong nhanh nhẹn,… 4.3. Tổ chức diễn đàn Diễn đàn là một hình thức tổ chức hoạt động được sử dụng để thúc đẩy sự tham  gia của học sinh thông qua việc các em trực tiếp, chủ động bày tỏ ý kiến của  mình với đông đảo bạn bè, nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ và những người lớn  khác có liên quan. Diễn đàn là một trong những hình thức tổ chức mang lại hiệu  quả giáo dục thiết thực. Thông qua diễn đàn, học sinh có cơ hội bày tỏ suy nghĩ,  ý kiến, quan niệm hay những câu hỏi, đề xuất của mình về một vấn đề nào đó  có liên quan đến nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng của các em. Đây cũng là dịp để  các em biết lắng nghe ý kiến, học tập lẫn nhau. Vì vậy, diễn đàn như một sân  chơi tạo điều kiện để học sinh được biểu đạt ý kiến của mình một cách trực  tiếp với đông đảo bạn bè và những người khác. Diễn đàn thường được tổ chức  rất linh hoạt, phong phú và đa dạng với những hình thức hoạt động cụ thể, phù  hợp với từng lứa tuổi học sinh. Mục đích của việc tổ chức diễn đàn là để tạo cơ hội, môi trường cho học sinh  được bày tỏ ý kiến về những vấn đề các em quan tâm, giúp các em khẳng định  vai trò và tiếng nói của mình, đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích cực để  khẳng định vai trò và tiếng nói của mình, đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích  cực để khẳng định mình. Qua các diễn đàn, thầy cô giáo, cha mẹ học sinh và  những người lớn có liên quan nắm bắt được những băn khoăn, lo lắng và mong  8
  9. đợi của các em về bạn bè, thầy cô, nhà trường và gia đình,… tăng cường cơ hội  giao lưu giữa người lớn và trẻ em, giữa trẻ em với trẻ em và thúc đẩy quyền trẻ  em trong trường học. Giúp học sinh thực hành quyền được bày tỏ ý kiến, quyền  được lắng nghe và quyền được tham gia,… đồng thời giúp các nhà quản lí giáo  dục và hoạch định chính sách nắm bắt, nhận biết được những vấn đề mà học  sinh quan tâm từ đó có những biện pháp giáo dục và xây dựng chính sách phù  hợp hơn với các em. 4.4. Sân khấu tương tác Sân khấu tương tác (hay sân khấu diễn đàn) là một hình thức nghệ thuật tương  tác dựa trên hoạt động diễn kịch, trong đó vở kịch chỉ có phần mở đầu đưa ra  tình huống, phần còn lại được sáng tạo bởi những người tham gia. Phần trình  diễn chính là một cuộc chia sẻ, thảo luận giữa những người thực hiện và khán  giả, trong đó đề cao tính tương tác hay sự tham gia của khán giả. Mục đích của  hoạt động này là nhằm tăng cường nhận thức, thúc đẩy để học sinh đưa ra quan  điểm, suy nghĩ và cách xử lí tình huống thực tế gặp phải trong bất kì nội dung  nào của cuộc sống. Thông qua sân khấu tương tác, sự tham gia của học sinh  được tăng cường và thúc đẩy, tạo cơ hội cho học sinh rèn luyện những kĩ năng  như: kĩ năng phát hiện vấn đề, kĩ năng phân tích vấn đề, kĩ năng ra quyết định và  giải quyết vấn đề, khả năng sáng tạo khi giải quyết tình huống và khả năng ứng  phó với những thay đổi của cuộc sống,… 4.5. Tham quan, dã ngoại Tham quan, dã ngoại là một hình thức tổ chức học tập thực tế hấp dẫn đối với  học sinh. Mục đích của tham quan, dã ngoại là để các em học sinh được đi thăm,  tìm hiểu và học hỏi kiến thức, tiếp xúc với các di tích lịch sử, văn hóa, công  trình, nhà máy… ở xa nơi các em đang sống, học tập, giúp các em có được những  kinh nghiệm thực tế, từ đó có thể áp dụng vào cuộc sống của chính các em. Nội dung tham quan, dã ngoại có tính giáo dục tổng hợp đối với học sinh như:  giáo dục lòng yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước, giáo dục truyền thống cách  mạng, truyền thống lịch sử, truyền thống của Đảng, của Đoàn, của Đội Thiếu  niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Các lĩnh vực tham quan, dã ngoại có thể được tổ  chức ở nhà trường phổ thông là: Tham quan các danh lam thắng cảnh, di tích lịch  sử, văn hóa; Tham quan các công trình công cộng, nhà máy, xí nghiệp; Tham quan                                                                                         9 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm                                                 Môn Giáo dục công dân    
  10. các cơ sở sản xuất, làng nghề; Tham quan các Viện bảo tàng; Dã ngoại theo các  chủ đề học tập; Dã ngoại theo các hoạt động nhân đạo…            4.6. Hội thi / cuộc thi Hội thi/cuộc thi là một trong những hình thức tổ chức hoạt động hấp dẫn, lôi  cuốn học sinh và đạt hiệu quả cao trong việc tập hợp, giáo dục, rèn luyện và  định hướng giá trị cho tuổi trẻ. Hội thi mang tính chất thi đua giữa các cá nhân,  nhóm hoặc tập thể luôn hoạt động tích cực để vươn lên đạt được mục tiêu  mong muốn thông qua việc tìm ra người/đội thắng cuộc. Chính vì vậy, tổ chức  hội thi cho học sinh là một yêu cầu quan trọng, cần thiết của nhà trường, của  giáo viên trong quá trình tổ chức HĐTNST. Mục đích tổ chức hội thi/cuộc thi nhằm lôi cuốn học sinh tham gia một cách chủ  động, tích cực vào các hoạt động giáo dục của nhà trường; đáp ứng nhu cầu về  vui chơi giải trí cho học sinh; thu hút tài năng và sự sáng tạo của học sinh; phát  triển khả năng hoạt động tích cực và tương tác của học sinh, góp phần bồi  dưỡng cho các em động cơ học tập tích cực, kích thích hứng thú trong quá trình  nhận thức. Hội thi/cuộc thi có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác  nhau như: Thi vẽ, thi viết, thi tìm hiểu, thi đố vui, thi giải ô chữ, thi tiểu phẩm,  thi thời trang, thi kể chuyện, thi chụp ảnh, thi kể chuyện theo tranh, thi sáng tác  bài hát, hội thi học tập, hội thi thời trang, hội thi học sinh thanh lịch,… có nội  dung giáo dục về một chủ đề nào đó. Nội dung của hội thi rất phong phú, bất cứ  nội dung giáo dục nào cũng có thể được tổ chức dưới hình thức hội thi/cuộc thi.  Điều quan trọng khi tổ chức hội thi là phải linh hoạt, sáng tạo khi tổ chức thực  hiện, tránh máy móc thì cuộc thi mới hấp dẫn. 4.7. Tổ chức sự kiện Tổ chức sự kiện trong nhà trường phổ thông là một hoạt động tạo cơ hội cho  học sinh được thể hiện những ý tưởng, khả năng sáng tạo của mình, thể hiện  năng lực tổ chức hoạt động, thực hiện và kiểm tra giám sát hoạt động. Thông  qua hoạt động tổ chức sự kiện học sinh được rèn luyện tính tỉ mỉ, chi tiết, đầu  óc tổ chức, tính năng động, nhanh nhẹn, kiên nhẫn, có khả năng thiết lập mối  quan hệ tốt, có khả năng làm việc theo nhóm, có sức khỏe và niềm đam mê. Khi  tham gia tổ chức sự kiện học sinh sẽ thể hiện được sức bền cũng như khả năng  chịu được áp lực cao của mình. Ngoài ra, các em còn phải biết cách xoay xở và  ứng phó trong mọi tình huống bất kì xảy đến. Các sự kiện học sinh có thể tổ  chức trong nhà trường như: Lễ khai mạc, lễ nhập học, lễ tốt nghiệp, lễ kỉ niệm,  lễ chúc mừng,…; Các buổi triển lãm, buổi giới thiệu, hội thảo khoa học, hội  diễn nghệ thuật; Các hoạt động đánh giá thể lực, kiểm tra thể hình, thể chất của  10
  11. học sinh; Đại hội thể dục thể thao, hội thi đấu giao hữu; Hoạt động học tập  thực tế, du lịch khảo sát thực tế, điều tra học thuật; Hoạt động tìm hiểu về di  sản văn hóa, về phong tục tập quán; Chuyến đi khám phá đất nước, trải nghiệm  văn hóa nước ngoài… 4.8. Hoạt động giao lưu Giao lưu là một hình thức tổ chức giáo dục nhằm tạo ra các điều kiện cần thiết  để cho học sinh được tiếp xúc, trò chuyện và trao đổi thông tin với những nhân  vật điển hình trong các lĩnh vực hoạt động nào đó. Qua đó, giúp các em có tình  cảm và thái độ phù hợp, có được những lời khuyên đúng đắn để vươn lên trong  học tập, rèn luyện và hoàn thiện nhân cách. Hoạt động giao lưu có một số đặc  trưng sau: ­ Phải có đối tượng giao lưu. Đối tượng giao lưu là những người điển hình, có  những thành tích xuất sắc, thành đạt trong các lĩnh vực nào đó, thực sự là tấm  gương sáng để học sinh noi theo, phù hợp với nhu cầu hứng thú của học sinh. ­ Thu hút sự tham gia đông đảo và tự nguyện của học sinh, được học sinh quan  tâm và hào hứng. ­ Phải có sự trao đổi thông tin, tình cảm hết sức trung thực, chân thành và sôi nổi  giữa học sinh với người được giao lưu. Những vấn đề trao đổi phải thiết thực,  liên quan đến lợi ích và hứng thú của học sinh, đáp ứng nhu cầu của các em. Với những đặc trưng trên, hoạt động giao lưu rất phù hợp với các HĐTNST theo  chủ đề. Hoạt động giao lưu dễ dàng được tổ chức trong mọi điều kiện của lớp,  của trường. 4.9. Hoạt động chiến dịch Hoạt động chiến dịch là hình thức tổ chức không chỉ tác động đến học sinh mà  tới cả các thành viên cộng đồng. Nhờ các hoạt động này, học sinh có cơ hội  khẳng định mình trong cộng đồng, qua đó hình thành và phát triển ý thức “mình  vì mọi người, mọi người vì mình”. Việc học sinh tham gia các hoạt động chiến  dịch nhằm tăng cường sự hiểu biết và sự quan tâm của học sinh đối với các vấn  đề xã hội như vấn đề môi trường, an toàn giao thông, an toàn xã hội,… giúp học  sinh có ý thức hành động vì cộng đồng; tập dượt cho học sinh tham gia giải  quyết những vấn đề xã hội; phát triển ở học sinh một số kĩ năng cần thiết như                                                                                         11 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm                                                 Môn Giáo dục công dân    
  12. kĩ năng hợp tác, kĩ năng thu thập thông tin, kĩ năng đánh giá và kĩ năng ra quyết  định. Mỗi chiến dịch nên mang một chủ đề để định hướng cho các hoạt động như:  Chiến dịch giờ trái đất; Chiến dịch làm sạch môi trường xung quanh trường học;  Chiến dịch ứng phó vơi biến đổi khí hậu; Chiến dịch bảo vệ môi trường, bảo  vệ rừng ngập mặn; Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn; Chiến dịch tình  nguyện hè, Chiến dịch ngày thứ 7 tình nguyện… Để thực hiện hoạt động chiến  dịch được tốt cần xây dựng kế hoạch để triển khai chiến dịch cụ thể, khả thi  với các nguồn lực huy động được và học sinh phải được trang bị trước một số  kiến thức, kĩ năng cần thiết để tham gia vào chiến dịch. 4.10. Hoạt động nhân đạo Hoạt động nhân đạo là hoạt động tác động đến trái tim, tình cảm, sự đồng cảm  của học sinh trước những con người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Thông qua  hoạt động nhân đạo, học sinh biết thêm những hoàn cảnh khó khăn của người  nghèo, người nhiễm chất độc da cam, trẻ em mồ côi, người tàn tật, khuyết tật,  người già cô đơn không nơi nương tựa, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,  những đối tượng dễ bị tổn thương trong cuộc sống,… để kịp thời giúp đỡ, giúp  họ từng bước khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống, vươn lên hòa nhập với  cộng đồng. Hoạt động nhân đạo giúp các em học sinh được chia sẻ những suy  nghĩ, tình cảm và giá trị vật chất của mình với những thành viên trong cộng  đồng, giúp các em biết quan tâm hơn đến những người xung quanh từ đó giáo  dục các giá trị cho học sinh như: tiết kiệm, tôn trọng, chia sẻ, cảm thông, yêu  thương, trách nhiệm, hạnh phúc,… Hoạt động nhân đạo trong trường phổ thông  được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: Hiến máu nhân đạo; Xây  dựng quỹ ủng hộ các bạn thuộc gia đình nghèo, có hoàn cảnh khó khăn; Tết vì  người nghèo và nạn nhân chất độc da cam; Quyên góp cho trẻ em mổ tim trong  chương trình “Trái tim cho em”; Quyên góp đồ dùng học tập cho các bạn học  sinh vùng cao; Tổ chức trung thu cho học sinh nghèo vùng sâu, vùng xa…           Qua thực tế giảng dạy Giáo dục công dân trong nhiều năm, tôi cũng đã đưa ra  những bài khảo sát cho các em như:    Kết quả khảo sát hiểu biết thực tế của học sinh khi chưa tổ chức cacshoatj  động trải nghiệm: Loại Giỏi Khá Trung bình Yếu Lớp(tổng  số) 12
  13. SL % SL % SL % SL % K6 (70) 18 26 28         40 20        29 4 6 K7( 80) 15 19 30          38 30         38 5              5 Loại Giỏi Khá Trung bình Yếu Lớp(tổng  số) SL % SL % SL % SL % K8 (150) 40 27 50       33 60 40 K9 ( 135) 50 37 50 37 35 26   Như vậy qua quá trình giảng dạy và quan sát thực tế, chất lượng và ý thức   học sinh có nhiều chuyển biến tích cực.      Tuy nhiên, kết quả cho thấy học sinh có kĩ năng tốt còn chưa nhiều.Chính vì  vậy,cách giáo dục kĩ năng sống là vấn đề cần quan tâm cho các giờ dạy Giáo  dục công dân và học sinh rèn luyện kĩ năng sống hiệu quả.      III. Phương phap th ́ ực hiêṇ                 Theo đó, có thể thấy yêu cầu căn bản nhất của việc triển khai các hoạt động   giáo dục trải nghiệm sáng tạo trong thời điểm hiện nay là:      Tích cực đổi mới phương pháp, hình thức dạy học và kiểm tra, đánh giá theo   định hướng phát triển năng lực học sinh; vận dụng có hiệu quả các phương pháp  dạy học tích cực. Đối với mỗi chủ đề dạy học, mỗi bài học, tiết học, giáo viên   cần tăng cường thiết kế  và triển khai các hoạt động dạy học cả  trong và ngoài  nhà trường theo hướng tối đa hóa cơ hội trải nghiệm thực tiễn cho học sinh, gắn   dạy học với thực tiễn cuộc sống hàng ngày, với văn hóa, hoạt động sản xuất   ­kinh doanh tại địa phương.        Tổ chức và duy trì các câu lạc bộ, các hoạt động sân khấu hóa, các hội thi,   diễn đàn, giao lưu, hoạt động văn hóa ­văn nghệ, chăm sóc di sản văn hóa.                                                                                        13 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm                                                 Môn Giáo dục công dân    
  14.         Triển khai có hiệu quả cuộc thi Nghiên cứu khoa học kĩ thuật dành cho học   sinh trung học, cuộc thi Vận dụng kiến thức liên môn giải quyết các tình huống  thực tiễn.         Tổ chức tham quan, học tập qua di sản một cách thiết thực, khai thác tốt các   di sản văn hóa ngay tại địa phương. Dạy học qua di sản phải được tiến hành có   mục tiêu rõ ràng, phương pháp phù hợp theo định hướng tích cực hóa học sinh cả  trong quá trình chuẩn bị, trải nghiệm thực tiễn và thu hoạch.        Trong quá trình tham gia trải nghiệm và thực hiện các hoạt động nêu trên,   cũng cần lưu ý là học sinh phải được tích cực cả  trong việc thực hiện các hoạt   động thực tiễn cũng như  trong tư  duy. Học sinh phải có cơ  hội thực hiện các  thao tác tư duy tích cực thông qua hoạt động thực tiễn như phản ánh, phân tích,  nhận định, đánh giá,... để  chuyển hóa trải nghiệm thực tiễn thành giá trị, năng   lực của bản thân.    Mặc dù hoạt động trải nghiệm rất phong phú bao trùm nhiều lĩnh vực nhưng  khi xây dựng chủ đề cho học sinh tiểu học, giáo viên cần phải đặt ra và căn cứ  vào những tiêu chí, tiêu chuẩn nhất định để xây dựng các chủ đề thích hợp. Chẳng hạn, khi xây dựng chủ đề, giáo viên cần phải căn cứ vào các tiêu chí như  dưới đây: Chủ đề phải xuất phát từ mối quan tâm, hứng thú của học sinh; Chủ đề phải có mối liên hệ mật thiết hoặc xuất phát từ chính cuộc sống, trải  nghiệm của học sinh' Chủ đề phải đảm bảo được sự an toàn của học sinh và giáo viên khi thực hiện; Chủ đề phải huy động được sự hợp tác giữa giáo viên tổ chức thực hiện chủ đề,  người dân, chính quyền địa phương và các giáo viên khác; Chủ đề phải phù hợp với trình độ nhận thức, tâm lý lứa tuổi, sức khỏe của học  sinh; Chủ đề phải có tính hợp lý trong mối quan hệ với mùa và sự sắp xếp chương  trình của nhà trường. Để biết chủ đề dự định lựa chọn, thiết kế có phù hợp với các tiêu chí vừa kể  trên không giáo viên cần phải tiến hành quan sát trực tiếp và tiến hành điều tra  bằng nhiều hình thức khác nhau cũng như nghiên cứu tài liệu nhiều nguồn để  nắm chắc tình hình địa phương, trường học và học sinh. Ở đó, khảo sát điền dã, điều tra xã hội học, phỏng vấn, trao đổi với phụ huynh,  học sinh là những cách làm thông dụng và đạt được hiệu quả cao. Sau khi đã xác  định được tiêu chuẩn lựa chọn chủ đề thì bước tiếp theo giáo viên sẽ phải xác  định được chủ đề cần thực hiện và xây dựng nó. Công việc này sẽ được tiến  hành qua các bước cơ bản sau: Tìm thiểu, thu thập thông tin có liên quan bao gồm cả thông tin thực địa về chủ  đề và việc tổ chức hoạt động trải nghiệm; 14
  15. Phỏng vấn điều tra học sinh xem học sinh quan tâm đến những vấn đề gì và tại  sao lại quan tâm đến những vấn đề đó; Tham chiếu nguồn lực vật chất, năng lực giáo viên, đặc điểm tâm sinh lý học  sinh và điều kiện của nhà trường với thông tin thu thập được để dự kiến được  nội dung hoạt động; Xác định chủ đề (đặt tên cho chủ đề); Viết nội dung và kế hoạch thực hiện chương trình hoạt động trải nghiệm (mục  tiêu, nội dung, phương pháp tiến hành, cách thức đánh giá, chuẩn bị của giáo  viên, học sinh, phụ huynh, các nguồn lực hỗ trợ bên ngoài ví dụ như sự hỗ trợ  của chuyên gia, nhân viên ở thực địa, phụ huynh học sinh…); Thảo luận với đồng nghiệp, chuyên gia để chỉnh sửa chương trình; Đến thực địa  để quan sát, thí nghiệm, dự kiến các hoạt động đã soạn ra và dự đoán các tình  huống bất thường có thể phát sinh để bổ sung và chuẩn bị phương án xử lý; Hoàn thiện chủ đề và kế hoạch thực hiện chủ đề (viết thành văn bản hoàn  chỉnh). Điều cần đặc biệt lưu ý là khi tiến hành thiết kế các chủ đề, kế hoạch tổ chức  hoạt động trải nghiệm cho học sinh, giáo viên cần chú ý cân nhắc sao cho nội  dung và phương pháp, quy trình thực hiện phù hợp với thể chất, sức khỏe, tâm lý  của học sinh cũng như tình hình thực tế của trường học, địa phương. Giáo viên trong khi thiết kế chủ đề và lập kế hoạch tổ chức hoạt động trải  nghiệm cũng cần suy nghĩ tới và cố gắng đưa vào một cách linh hoạt, thích hợp  những hoạt động như: Tìm kiếm, điều tra thông tin và tái cơ cấu thông tin, biểu đạt thông tin dưới  nhiều hình thức khác nhau, quan sát, ghi chép, phỏng vấn, điền dã­tham quan,  vẽ­tổ chức triển lãm, làm sách, báo, tập san, áp phích, diễn kịch, viết thư, bản  kiến nghị, kể ­thuyết minh cho người khác nghe… Vận dụng làm sao học sinh vừa hứng thú vừa hiểu và vận dụng được vào   thực tế cuộc sống, mỗi giáo viên cần linh hoạt trong các tiết dạy tham khảo các  phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng tùy theo đối tượng và   điều kiện dạy học cho phù hợp. Hoạt động TNST là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn của nhà  giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động khác  nhau của nhà trường, cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt  động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy  tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Khái niệm này khẳng định vai trò định hướng, chỉ đạo, hướng dẫn của nhà giáo  dục; thầy cô giáo, cha mẹ học sinh, người phụ trách... Giáo viên  không tổ chức,  không phân công học sinh một cách trực tiếp mà chỉ hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát                                                                                         15 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm                                                 Môn Giáo dục công dân    
  16. cho tập thể hoặc cá nhân học sinh tham gia trực tiếp hoặc ở vai trò tổ chức hoạt  động, giúp học sinh chủ động, tích cực trong các hoạt động; phạm vi các chủ đề  hay nội dung hoạt động và kết quả đầu ra là năng lực thực tiễn, phẩm chất và  năng lực sáng tạo đa dạng, khác nhau của các em. Có thể kể ra một số hình thức hoạt động TNST như : ­  Hình thức có tính khám phá (thực địa, thực tế, tham quan, cắm trại) ­  Hình thức có tính triển khai (dự án và nghiên cứu khoa học, hội thảo, câu lạc  bộ) ­ Hình thức có tính trình diễn (diễn đàn, giao lưu, sân khấu hóa) ­  Hình thức có tính cống hiến, tuân thủ (thực hành lao động việc nhà, việc  trường, hoạt động xã hội ­ tình nguyện).  Hoạt động TNST hướng đến những phẩm chất và năng lực chung cho học sinh   ngoài ra hoạt động TNST còn có ưu thế trong việc thúc đẩy hình thành ở người  học các năng lực đặc thù như : ­ Năng lực hoạt động và tổ chức hoạt động; ­ Năng lực tổ chức và quản lý cuộc sống; ­ Năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân; ­ Năng lực định hướng nghề nghiệp; ­ Năng lực khám phá và sáng tạo; Thực tế, trong đề án đối mới chương trình giáo dục của Bộ giáo dục đưa ra có 2  loại hoạt động giáo dục chính là: Dạy học các môn và trải nghiệm sáng tạo.  Điều đó cũng phần nào khẳng định tầm quan trọng của hoạt động trải nghiệm  sáng tạo . Hoạt động này giúp cho học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm để vận  dụng những kiến thức học được vào thực tiễn từ đó hình thành năng lực thực  tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân. Quả thực , thật khó dạy hoặc khó có thể mô tả cho người khác về mùi hoa hồng  là mùi như thế nào, thay vì nghe, người học được ngửi, được trải nghiệm với  mùi hoa, người học sẽ có kinh nghiệm phân biệt về mùi hoa hồng với các mùi  khác; để có được khả năng hát hay, vẽ đẹp, sự tinh tế trong giao tiếp... thì không  thể thiếu được sự trải nghiệm của mỗi cá nhân.  Bởi thế trong quá trình dạy học  và làm công tác chủ nhiệm tôi đã luôn ý thức được tầm quan trọng của hoạt  động TNST và luôn cố gắng tổ chức hoạt động này cho các em học sinh trong  điều kiện có thể . Trong 3 năm học gần đây, đối với bộ môn Ngữ văn, tôi đã tổ chức hoạt động  TNST dưới hình thức sân khấu hóa, chuyển thể tác phẩm văn học thành tiểu  phẩm kịch ngắn hoặc phim ngắn. Sau khi triển khai ở một số lớp tôi dạy và  thấy các em hưởng ứng rất nhiệt tình, có hiệu quả giáo dục cao, thì năm học vừa  qua Tổ Ngữ Văn CD của chúng tôi đã triển khai  rộng hơn tới học sinh tất cả các  lớp trong trường. Các đồng chí giáo viên Văn sẽ trực tiếp là các cố vấn, cùng các  em xây dựng kế hoạch, triển khai, theo dõi, đôn đốc  việc thực hiện các dự án  16
  17. phim đạt hiệu quả cao nhất, tiết kiệm và an toàn nhất. Đặc biệt dự án này của  tổ chúng tôi đã nhận được sự ủng bộ của BGH và Ban chuyên môn cả về vật  chất lẫn tinh thần. Ban giám hiệu đã quyết định hỗ trợ mỗi lớp 300.000 đồng  cho một dự án phim. Và đậy thực sự là sự động viên khích lệ rất lớn cho các em  học sinh.  cho  đến nay, số lượng các tác phẩm được chuyển thể để trình diễn  và trình chiếu của các khóa đã lên đến hơn 35 sản phẩm bao gồm cả tiểu phẩm  kịch và phim ngắn.   Chúng tôi nhận thấy, hoạt động này không chỉ giúp các em đến gần hơn với tác  phẩm văn học mà còn giúp các em có được những kĩ năng, năng lực quan trọng  khác:  thông qua cách làm clip đã biết lồng âm thanh, hình ảnh, phối cảnh, phối  hình, tạo thoại, Các em biết lên kế hoạch cho một hoạt động, chia sẻ và hợp tác  với nhau trong công việc và thực tế HĐTNST này giúp các em gần nhau hơn,  hiểu nhau hơn, gắn bó với nhau hơn. Nó trở thành 1 kỉ niệm đẹp cho những  tháng ngày học sinh của các em. Đặc biệt ở HĐ TN này ,cách làm sáng tạo của  học sinh nhiều khi khiến chúng ta ngạc nhiên vì khi giao việc cho các em, chúng  ta cũng không nghĩ các em làm được như vậy. Thế nhưng, thực tế học sinh đã  làm được điều vượt hơn cả mong đợi của giáo viên. Và tôi nghĩ việc nhen lên  ngọn lửa sáng tạo cho học trò là điều mà mỗi người giáo viên chúng ta sẽ luôn  ấp ủ, thực hiện Đối với lớp chủ nhiệm, tôi chọn hoạt động có tính chất khám phá thực tế. Tổ  chức cho các em học sinh tham gia Ngày hội tư vấn tuyển sinh của các trường  Đại học  và thăm quan trường Đại học Bách khoa.. Trong quá trình xây dựng kế  hoạch, tôi đã chủ động có công văn liên lạc với trường ĐHBKHN. và BGH nhà  trường, phòngcông tác chính trị và học sinh sinh viên tạo điều kiện và giúp đỡ  nhiệt tình. Các em được thăm quan phòng truyền thống của trường ĐHBK, tìm  hiểu về các chuyên ngành đào tạo  của nhà trường, thăm quan thư viện, phòng  nghiên cứu hạt nhân… Chuyến đi đã thực sự có ý nghĩa đối với học sinh, giúp  các em bước đầu có được những định hướng cho sự lựa chọn tổ hợp thi THPT,  chọn nghề trong tương lai. Tôi cũng đã  Tổ chức học sinh thăm quan di tích lịch sử khu tưởng niệm liệt sĩ  Rú Nài. Học sinh nắm chắc hơn kiến thức lịch sử, đồng thời, kích thích được  các em ham tham quan, học hỏi, tò mò, muốn mở rộng tầm hiểu biết lịch sử quê  hương, của dân tộc mình.  Không chỉ tổ chức các hoạt động trải nghiệm bên ngoài nhà trường và ngoài tỉnh,  chúng tôi cũng chú trọng các hoạt động trải nghiệm ngay tại nhà trường và trong  địa phương. Tổ chức chương trình Những nhà kinh tế  trẻ vào dịp kỉ niệm 30  năm thành lập trường. Gian hàng kinh doanh của các em đã thu hút hàng trăm                                                                                         17 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm                                                 Môn Giáo dục công dân    
  18. lượt khách thăm quan và mua hàng. Sau hai ngày kinh doanh với các mặt hàng tự  làm và chế biến các em đã thu được tổng số tiền gần 10 triệu đồng. Qua hoạt  động này các em được trải nghiệm bước đầu trong môi trường kinh doanh,  nhiều em năng động , sáng tạo và thể hiện được năng lực quản lý kinh tế.  Từ thực tế chương trình giáo dục trong nhà trường THPT , từ thực tế đã trải qua  trong năm học 2017­ 2018 tôi xin mạnh dạn nêu lên một số kinh nghiệm để tổ  chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trở nên có hiệu quả hơn nữa : Một là : Xác định nhu cầu tổ chức hoạt động trải nghiệm, chọn hình thức nào  cho phù hợp với nhu cầu, điều kiện của học sinh, nhà trường địa phương. Không  nhất thiết cứ phải đi xa mới là trải nghiệm mà có nhiều hình thức cho ta lựa  chọn .  ­  Hình thức có tính khám phá (thực địa, thực tế, tham quan, cắm trại)  ­  Hình thức có tính triển khai (dự án và nghiên cứu khoa học, hội thảo, câu lạc  bộ) ­ Hình thức có tính trình diễn (diễn đàn, giao lưu, sân khấu hóa) ­  Hình thức có tính cống hiến, tuân thủ (thực hành lao động việc nhà, việc  trường, hoạt động xã hội ­ tình nguyện). Hai là xác định  hình thức của hoạt động . Có thể một hoạt động nhưng có nhiều  hình thức khác nhau được thực hiện đan xen hoặc trong dó có một hình thức nào  đó là chủ đạo, còn hình thức khác là phụ trợ. Ví dụ: “Thảo luận về việc phát huy truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo”.  Hình thức thảo luận là chủ đạo, có thể xen kẽ hình thức văn nghệ, trò chơi hoặc  đố vui. Trong “Diễn đàn tuổi trẻ với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”,  nên chọn hình thức báo cáo, trình bày, thuyết trình về vấn đề gìn giữ và phát huy  bản sắc văn hóa dân tộc làm chính, kết hợp với thi đàn, hát dân ca, trò chơi dân  gian hoặc gặp gỡ, giao lưu với các nghệ nhân, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu… để tăng  tính đa dạng, tính hấp dẫn cho diễn đàn. Ba là : Huy động các nguồn lực : nhân lực – vật lực – Tài liệu .Tìm kiếm sự ủng  hộ của BGH  và đặc biệt các em học sinh, các bậc phụ huynh, các thầy cô giáo  bộ môn tại lớp mình.  Bốn  là : Cần xây dựng kế hoạch chi tiết, có sự phê duyệt và chỉ đạo của BGH  sớm trước 1 tháng.  Có sự liên hệ chặt chẽ, kế hoạch làm việc cụ thể với các  đơn vị tổ chức liên quan. Công văn phối hợp với các đơn vị phối hợp trong hoạt  động trải nghiệm .TRước 1 tuần phải có sự, kiểm tra , khớp nối chương trình  chi tiết cụ thể: về thời gian, cách thức tổ chức hoạt động, phương tiện đi lại,  tránh những tình huống bị động , không có trong kế hoạch khi HĐTN diễn ra ở  ngoài nhà trường.(VD ĐHBK..) Năm  là : Có kế hoạch đảm bảo an ninh, an toàn chi tiết cho hoạt độngTNST.  Phân công nhóm học sinh tự quản. Phối hợp chặt chẽ với các Bác trong ban Đại  18
  19. diện hội cha mẹ học sinh cùng tham gia tổ chức và quản lý trong một số hoạt  động trải nghiệm của học sinh.  Trải nghiệm sáng tạo gồm nhiều hình thức khác nhau như: Hoạt động  câu lạc bộ, hoạt động tình nguyện, tổ chức trò chơi, tham quan dã ngoại,  sân khấu hóa, hoạt động nhân đạo…. Bản chất của hoạt động này là vận dụng nội dung môn học, các kiến thức để  thực hành, vận dụng, giải quyết các vấn đề khác nhau trong cuộc sống. Học  sinh được chủ động tham gia, trải nghiệm, sáng tạo những vấn đề lí thuyết  để tạo ra các sản phẩm. Có thể nói trải nghiệm là cầu nối hữu hiệu giữa lí  thuyết được giảng dạy và thực tiễn cuộc sống.    Muốn tổ chức hiệu quả các câu lạc bộ trải nghiệm sáng tạo, mỗi giáo viên  cần quan tâm tới một số vấn đề sau: 1. Mỗi Câu lạc bộ cần có tôn chỉ, mục đích, những nguyên tắc nhất định về:  Tinh thần, thời gian, địa điểm, sự công bằng, sự cống hiến sáng tạo, tôn trọng,  bình đẳng. 2. Tìm ra các ý tưởng tốt để xây dựng chủ đề, xác định mục tiêu, phương thức  hoạt động, giao nhiệm vụ cụ thể, coi trọng sản phẩm của học sinh sau một chủ  đề. Chủ đề phải xuất phát từ mối quan tâm, hứng thú của học sinh, phải có mối liên  hệ mật thiết hoặc xuất phát từ chính cuộc sống, trải nghiệm của học sinh; Chủ  đề phải phù hợp với trình độ nhận thức, tâm lý lứa tuổi, sức khỏe của học sinh;  Chủ đề phải có tính hợp lý trong mối quan hệ với mùa và sự sắp xếp chương  trình của nhà trường. 3. Giáo viên cần thắp lên ngọn lửa đam mê để rồi cháy hết mình thắp sáng  đường đi cho học trò. Bởi các hoạt động trải nghiệm sáng tạo đòi hỏi chính  chúng ta cũng phải suy tư, trăn trở thay vì chỉ quan tâm đến các tiết lên lớp. 4. Luôn động viên, khích lệ, tạo cho học sinh sự chủ động, tự tin khi trải nghiệm  sáng tạo bởi học sinh là người được tham gia trực tiếp vào các hoạt động đó  nhằm thích ứng với bối cảnh nhà trường. 5. Sau mỗi hoạt động, coi trọng sự đánh giá của chính học sinh, học sinh biết  bảo vệ, lí giải thành quả mà mình làm được, tạo cơ hội để học sinh đánh giá  chéo lẫn “Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giúp các em học sinh hiểu sâu sắc, toàn diện  hơn các bài học trên lớp, đáp ứng được mục tiêu giáo dục toàn diện, tiệm cận mục tiêu của  UNESCO: “Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và học để tự khẳng định  mình”nhau..                                                                                        19 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm                                                 Môn Giáo dục công dân    
  20. Cụ thể sẽ có 4 nhóm nội dung hoạt động trải nghiệm (gồm nhóm nội dung hoạt  động phát triển cá nhân; nhóm hoạt động lao động, nhóm hoạt động xã hội và  phục vụ cộng đồng; nhóm hoạt động giáo dục hướng nghiệp) nhằm thực hiện 3  mục tiêu cơ bản của hoạt động trải nghiệm (năng lực thích ứng với cuộc sống;  năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động; năng lực định hướng nghề nghiệp).  Trong khi thực hiện 3 mục tiêu năng lực này thì hoạt động trải nghiệm sáng tạo  phải thực hiện luôn tất cả các mục tiêu về phẩm chất và năng lực của chương  trình, tức là phẩm chất và năng lực cốt lõi. 4 nhóm nội dung này sẽ được triển khai thực hiện thông qua 4 loại hình hoạt  động trải nghiệm trong nhà trường. Những loại hình này chúng ta sẽ khá quen  thuộc bởi trong chương trình hiện hành cũng có. (thứ nhất là sinh hoạt dưới cờ,  thứ 2 là sinh hoạt lớp, thứ 3 là hoạt động giáo dục theo chủ đề và thứ 4 là hoạt  động những câu lạc bộ). Vậy với các loại hình hoạt động chúng ta sẽ chủ yếu sử dụng những hình thức  và phương pháp trải nghiệm nào? Chúng tôi sẽ đưa ra 4 nhóm tổ chức hoạt động  (nhóm hình thức tổ chức hoạt động). Thứ nhất là những hình thức nhóm mang tính cống hiến (gồm các hoạt động tình  nguyện, nhân đạo, vì cộng đồng,…). Thứ hai là hoạt động có tính khám phá như những chuyến đi thực địa, tham quan,  dã ngoại,… Thứ ba là hoạt động mang tính thể nghiệm, trẻ được trải nghiệm và thể nghiệm  mình luôn qua các hoạt động giao lưu, đóng kịch, sân khấu hóa,… Thứ tư là những hoạt động có tính nghiên cứu và phân hóa, như những dự án,  hoạt động nghiên cứu khoa học rồi các hoạt động câu lạc bộ có tính định hướng  có tính phân hóa,… Như vậy, mỗi một hình thức hoạt động sẽ đạt được mục tiêu riêng. Ngay trong  tên gọi, để giúp cho các giáo viên có thể rõ hơn từng hoạt động thì chúng tôi đã  đặt tên gọi mang tính bản chất nhất cho từng nhóm. 5. Một số phương pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho hoạc sinh  phổ thông HĐ TNST coi trọng các hoạt động thực tiễn mang tính tự chủ của HS, về cơ  bản là hoạt động mang tính tập thể trên tinh thần tự chủ cá nhân, với sự nỗ lực  giáo dục giúp phát triển sáng tạo và cá tính riêng của mỗi cá nhân trong tập thể.  Đây là những HĐGD được tổ chức gắn liền với kinh nghiệm, cuộc sống để HS  trải nghiệm và sáng tạo. Điều đó đòi hỏi các hình thức và phương pháp tổ chức  HĐ TNST phải đa dạng, linh hoạt, HS tự hoạt động, trải nghiệm là chính. Ở đây có 4 phương pháp chính, đó là: 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2