intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giúp học sinh tự tin trình bày trước lớp kể về một trải nghiệm của bản thân

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

13
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm này nhằm tổng hợp những giải pháp giúp học sinh lớp 6 trường THCS với mục đích sau: Đảm bảo giờ dạy theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh; Giúp học sinh có kĩ năng nói một cách tự tin trước tập thể chủ động trình bày được trải nghiệm đáng nhớ của mình cho cả lớp cùng nghe; Tạo hứng thú và không khí học tập sôi nổi trong giờ nói và nghe theo chủ đề trên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giúp học sinh tự tin trình bày trước lớp kể về một trải nghiệm của bản thân

  1. 1/25 A. PHẦN MỞ ĐẦU I. BỐI CẢNH CỦA SÁNG KIẾN Năm học 2021-2022 là một dấu mốc quan trọng trong hành trình cải cách chương trình giáo dục phổ thông cấp THCS. Đây là năm đầu tiên cấp THCS thực hiện thay đổi sách giáo khoa lớp 6 theo lộ trình cải cách của chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đề ra từ năm 2018. Theo đó, chương trình được xây dựng theo định hướng phát triển năng lực học sinh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại góp phần tạo ra những chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông: kết hợp dạy chữ, dạy người, định hướng nghề nghiệp, phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh. Chương trình mới coi trọng tính thực tiễn, coi trọng những hoạt động trải nghiệm của người học. Như vậy, nền giáo dục nước nhà đang hướng đến mục tiêu góp phần đào tạo ra những con người tích cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động chiếm lĩnh tri thức, là những con người học để làm, học để sống hòa nhập, học để chung sống theo mục tiêu chung của UNESCO. Một trong những phẩm chất và năng lực rất cần thiết của con người thời đại mới chính là sự tự tin. Sự tự tin được ví như một chiếc chìa khóa vô cùng quan trọng làm nên thành công cho mỗi người. Do đó, đây là điều quan trọng cần hình thành và phát triển ngay từ khi còn nhỏ. Với học sinh lớp 6, đây cũng là thời điểm thích hợp để rèn luyện đức tính tự tin để các em có đủ khả năng tiếp nhận nội dung chương trình mới theo phương pháp dạy học mới hiện nay. II. LÝ DO CHỌN VÀ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN: Đối với môn Ngữ văn lớp 6 mới, mỗi bài học trong chương trình được thiết kế đủ 4 kĩ năng: Đọc, viết, nói và nghe. Mục đích của chương trình là không chỉ phát triển năng lực văn học cho học sinh mà còn phát triển năng lực ngôn ngữ và nhiều phẩm chất khác nữa, trong đó có sự tự tin. Đây là điểm khác biệt căn bản trong cách xây dựng chương trình Ngữ văn hiện hành so với chương trình trước đây. Vì các tiết học hiện nay được tổ chức dưới sự dẫn dắt của giáo viên, còn học sinh đóng vai trò là chủ động tiếp nhận bài học thông qua các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. Trong các phương pháp đó, không thể không kể đến các hoạt động nhóm, trạm học tập, thảo luận nhóm lớn, nhóm nhỏ...yêu cầu học sinh phải tự bộc lộ ý kiến, quan điểm hay tự báo cáo các nội dung của bài học. Do đó các em cần có phong cách thuyết trình tự tin, thoải mái trước lớp. Nói đến 4 kĩ năng đọc, viết, nói và nghe, sự tự tin thể hiện qua hoạt động nói và nghe rõ rệt nhất. Chương trình Ngữ văn 6 có 10 bài học trong 1 năm. Tương ứng với số bài đó là có ít nhất 10 tiết nói và nghe. Trong tiết học
  2. 2/25 này, học sinh nói là chủ yếu. Vậy, nếu các em không đủ tự tin để trình bày trước lớp thì coi như giờ học chưa thành công. Qua các tiết nói và nghe thực hiện từ đầu Học kì I ở lớp 6 trường THCS, tôi nhận thấy các em còn rụt rè, e ngại khi nói trước lớp vì vậy mà giờ học trở nên tẻ nhạt, học sinh chưa hào hứng học bài. Như vậy, giờ học chưa thể đảm bảo mục tiêu dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Vì vậy, tôi đã nghiên cứu một số giải pháp để giúp học sinh tự tin trình bày bài nói trước lớp qua các tiết luyện nói. Và trong sáng kiến kinh nghiệm này, xin trình bày các giải pháp cụ thể qua đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Giúp học sinh tự tin trình bày trước lớp kể về một trải nghiệm của bản thân” III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA SÁNG KIẾN 3.1. Phạm vi nghiên cứu Các giải pháp để giúp học sinh lớp 6 trường THCS tự tin trình bày trước lớp trong tiết nói và nghe về một trải nghiệm của bản thân (Bài 1, Bài 3 môn Ngữ văn 6, bộ sách “ Kết nối tri thức với cuộc sống” Học kì I) 3.2. Đối tượng nghiên cứu - Học sinh lớp 6 trường THCS: Nghiên cứu năng lực nói của học sinh nói chung và sự tự tin khi nói. - Các giải pháp giúp học sinh tự tin khi nói theo chủ đề kể lại một trải nghiệm đáng nhớ của bản thân. - Các cách tổ chức hoạt động cho tiết “ Nói và nghe kể về một trải nghiệm của em”. IV. MỤC ĐÍCH CỦA SÁNG KIẾN Sáng kiến kinh nghiệm này nhằm tổng hợp những giải pháp giúp học sinh lớp 6 trường THCS với mục đích sau: - Đảm bảo giờ dạy theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh. - Giúp học sinh có kĩ năng nói một cách tự tin trước tập thể chủ động trình bày được trải nghiệm đáng nhớ của mình cho cả lớp cùng nghe. - Tạo hứng thú và không khí học tập sôi nổi trong giờ nói và nghe theo chủ đề trên. - Rèn luyện sự tự tin cho học sinh không chỉ cho riêng giờ Ngữ văn mà cho cả các môn học khác, góp phần hình thành và phát triển kĩ năng mềm trong tương lai. B. PHẦN NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG CỦA NỘI DUNG CẦN NGHIÊN CỨU
  3. 3/25 1. Cơ sở lí luận Theo nghĩa rộng, tự tin là tin tưởng vào bản thân, tin vào khả năng và hành động của chính mình. Vì vậỵ, biểu hiện của người tự tin thể hiện qua thái độ điềm tĩnh, khônglo lắng trước hành động sắp thực hiện, không sợ mình sẽ thất bại. Ngược lại, trái với tự tin là sự rụt rè, nhút nhát, thiếu bản lĩnh, không dám thực hiện hành động hoặc lo sợ mình không thành công.Trong cuộc sống, sự tự tin là thành tố quan trọng quyết định sự thành công của mỗi con người. Do đó, mỗi học sinh cần rèn luyện cho mình sự tự tin ngay tự khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Trong giao tiếp tự tin thể hiện qua cách nói năng, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt khi giao tiếp với người khác. Người tự tin trong giao tiếp luôn luôn có trạng thái thoải mái khi trò chuyện, khiến người nghe dễ dàng bị thuyết phục trước điều họ trình bày và đem lại sự hài lòng trong cuộc giao tiếp đó. Đối với học sinh, môi trường học tập là môi trường lí tưởng nhất để rèn luyện sự tự tin cho các em, bởi ở đó các em có nhiều cơ hội để học hỏi thầy cô và bạn bè về phong thái tự tin khi giao tiếp. Các em cần có sự tự tin khi các em trả lời câu hỏi, khi thuyết trình nội dung bài học và nhất là trong các tiết “Nói và nghe”, sự tự tin là vô cùng cần thiết, nó quyết định kết quả của phần trình bày của học sinh. Để thực hiện hành động nói trước lớp, học sinh cần có đủ tự tin để nói dõng dạc, mạch lạc thì các học sinh khác mới cảm thấy có sức thuyết phục. Thêm nữa, khi nói năng tự tin, học sinh mới có thể kết hợp với các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt (Yếu tố phi ngôn ngữ, ngôn ngữ cơ thể) để tăng sự hấp dẫn cho bài nói. Để có được điều đó, giáo viên cần có giải pháp để học sinh rèn luyện, thực hành, rút kinh nghiệm thì mới có kết quả khả quan. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu để rèn luyện sự tự tin trong giao tiếp nói chung. Các ý kiến đều tập trung vào việc giảm bớt áp lực từ các yếu tố chi phối sự tự tin của người nói như: Giọng nói (Giọng khàn, giọng quá cao, lạc giọng ...); hoặc cách phát âm (Phát âm lẫn lộn hai phụ âm L và N), cách ăm mặc v.v... Hay họ cũng bàn về cách lấy lại sự tự tin trong giao tiếp bằng cách luôn suy nghĩ và hành động tích cực. Những ý kiến đó chính là một trong những gợi ý để giáo viên có thể tham khảo và vận dụng vào việc giúp học sinh của mình rèn luyện sự tự tin trong học tập. 2. Cơ sở thực tiễn Học sinh lớp 6 trường tôi đa số là học sinh ngoại thành, nên các em thường dè dặt trong giao tiếp, chưa phát huy được năng lực của bản thân. Để tiến hành nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã khảo sát về những hạn chế của học sinh lớp 6 qua thực tế giảng dạy tiết nói và nghe ở Bài 1,3,qua đó
  4. 4/25 mong muốn cả giáo viên và học sinh cùng đánh giá được thực trạng để việc trình bày bài nói được thực hiện tốt hơn khi học các bài học tiếp theo. Không chủ Phát âm Lớp/ Nội dung nói sơ Nội dung nói tốt động xin trình Nói nhỏ sai/nói lắp Sĩ số sài bày (L - N) Lớp Số Số Số Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ % 6C lượng lượng lượng lượng % lượng 36HS 4 11,2 10 27,8 10 27,8 6 16,6 6 16,6 Lớp 6F 5 11,4 15 34,1 13 29,5 6 13,6 5 11,4 44HS Phiếu khảo sát về mức độ tự tin khi trình bày các vấn đề trong tiết nói và nghe Câu hỏi khảo sát: Em hãy tự chấm điểm về mức độ tự tin của em khi trình bày trước lớp các vấn đề của bài học trong tiết nói và nghe vào phiếu khảo sát. Kết quả tổng hợp thu được như sau: Lớp Rất tự tin Khá tự tin Chưa tự tin lắm Thiếu tự tin Không tự tin (9-10 điểm) (7- 8 điểm) (5-6 điểm) (1- 4 điểm) (0 điểm) Số Số Số Số Số Sĩ số Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ% lượng lượng lượng lượng lượng 4 11,1 6 16,6 12 33,4 8 22,3 6 16,6 6F/ 7 15,9 10 22,7 13 29,6 10 22,7 4 9,1 44 Tìm hiểu nguyên nhân các hạn chế trên tôi nhận thấy như sau: Về nội dung bài nói sơ sài có hai nguyên nhân chủ yếu: Một là do học sinh chuẩn bị nội dung bài nói không kĩ, hoặc có những học sinh băn khoăn không biết bài làm của mình đã đúng yêu cầu chưa; hai là do tâm lí học sinh không tốt nên khi trình bày bai nói học sinh không nhớ được hết các nội dung để trình bày. Đối với vấn đề học sinh không chủ động xung phong nguyên nhân chủ yếu là tâm lí rụt rè, e ngại việc đứng trước tập thể. Còn những em học sinh nói lắp bắp, nói nhỏ một phần là do bản tính, một phần là do tâm lí.
  5. 5/25 Như vậy có thể thấy vấn đề tâm lí ảnh hưởng khá nhiều đến kết quả bài nói. Và đó cũng là nguyên nhân chính của việc thiếu tự tin. Với số lượng 34,6 % số học sinh thiếu tự tin và không tự tin để trình bày bài nói, đó sẽ là một khó khăn cho giáo viên khi tổ chức hoạt động trong giờ học nói và nghe. Một nguyên nhân khác nữa là do các em học sinh lớp 6 năm nay tiếp cận với chương trình và sách giáo khoa mới với tâm lí hết sức bỡ ngỡ. Ở lớp 5, các em học môn Tiếng Việt, trong đó cũng có Văn bản, có Tiếng Việt, có Tập làm văn nhưng yêu cầu và cách thức học hoàn toàn khác so với môn Ngữ văn cấp THCS. Gần như khi làm văn ở cấp tiểu học, các em mới tập tạo lập văn bản viết với những bài Tập làm văn ngắn theo kiểu trả lời câu hỏi gợi ý. Tiết nói và nghe trong chương trình là hoàn toàn mới mẻ với học sinh. Do đó, các em mới đang dần làm quen với các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực học sinh nên có nhiều em chưa bắt nhịp được ngay, vì thế mới có những tồn tại, hạn chế như trên. Riêng về lỗi phát âm sai hai phụ âm “ L và N”, đây là hạn chế chung của học sinh thuộc khu vục tôi đang giảng dạy. Điều này cũng có tác động khá lớn đối với sự tự tin. Bởi khi các em phát âm sai, các em dễ bị bạn cười nhạo khiến các em có tâm lí ngại trình bày vấn đề. Nếu sau này ra hòa nhập vào môi trường giao tiếp với người ở địa phương khác cũng sẽ thành rào cản lớn trong giao tiếp, khiến các em không được thoải mái, tự nhiên. Có thể nói, với các nguyên nhân đã trình bày ở trên nên giờ nói và nghe dù ở bất kì chủ đề nào cũng cần được cải thiện để giờ học trở nên sôi nổi, học sinh tích cực và tự tin trong khi trình bày bài nói. Chính vì vậy, tôi dã nghiên cứu các giải pháp và thực hiện áp dụng ở một số tiết nói và nghe theo các chủ đề ở từng bài, trong đó có tiết: Nói và nghe “ Kể về một trải nghiệm của bản thân”. II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN 1. Các giải pháp mới đã tiến hành để giải quyết vấn đề 1.1. Khuyến khích học sinh xem và học hỏi kĩ năng nói từ các bài nói mẫu Đối với các học sinh còn thiếu tự tin khi trình bày trước lớp, giáo viên nên khuyến khích học sinh thường xuyên xem các video của những người có cách nói, cách hùng biện hay, thu hút được sự chú ý của người nghe. Gần gũi với các em học sinh lớp 6 và kểu bài kể lại một trải nghiệm của em nhất là các video học sinh thi tuyên truyền sách hoặc thi kể chuyện. Ở các video này, học sinh thường có phong cách nói tự tin, truyền cảm, hấp dẫn người nghe. Cho nên giáo viên cũng có thể dùng các video đó làm tư liệu để khởi động giờ nói và nghe hoặc
  6. 6/25 mở rộng phạm vi kiến thức bài học. Sau khi cho các em xem, giáo viên có thể cho học sinh nhận xét về kĩ năng nói, về sự tự tin khi nói, và cách thức để có trình bày cuốn hút như vậy. Từ đó các em sẽ tìm cách học hỏi, thể hiện phong thái chuyên nghiệp của họ. 1.2. Giúp học sinh biết được thế mạnh của mình và động viên học sinh phát huy thế mạnh. Để giúp học sinh tự tin, việc giúp học sinh nhận ra thế mạnh của bản thân vô cùng có ý nghĩa. Bởi vì đó sẽ là cơ sở để học sinh có niềm tin vào khả năng của mình và giảm bớt cảm giác tự ti, rụt rè. Giáo viên có thể gợi ý để học sinh nhận ra các em giỏi điều gì, hài lòng về điều gì ở bản thân, em có thể làm tốt điều gì. Bên cạnh đó, khi nhận xét, đánh giá phần trình bày của học sinh giáo viên nên tế nhị đưa vào lời khen lời động viên để học sinh không cảm thấy thất vọng về mình. Nguyên tắc vận dụng kiểu “ hai lời khen, một góp ý” là mô hình vừa góp ý vừa động viên học sinh rất tốt. Ví dụ: Giọng kể của em rất hay (khen), lời kể rõ ràng, mạch lạc, (khen), nếu em thêm những câu văn miêu tả sự việc đó nữa thì bài kể của em sẽ rất tốt (góp ý). Bên cạnh đó, có một số học sinh phải dùng “ chiêu” “ khích tướng” học sinh, tức là chạm vào tự ái, sĩ diện của học sinh để lấy đó làm đòn bẩy kích thích học sinh. Ví dụ: Bạn A mọi khi phát biểu rất sôi sổi, rất tốt tại sao hôm nay con lại trầm thế (Cũng là vận dụng nguyên tắc khen vừa góp ý) v.v... 1.3. Giúp học sinh hiểu rõ kiểu bài Tiêu đề của bài học là: Kể lại một kỉ niệm đáng nhớ đối với bản thân Trước bài học này, học sinh đã có tiết viết bài. Ngay từ tiết viết bài, giáo viên cần củng cố cho học sinh về khái niệm: “Kể về một trải nghiệm”. Kể là dùng phương thức tự sự là chủ yếu. Trong đó có việc sử dụng ngôi kể, thứ tự kể, nội dung kể phải hàm chứa các sự việc xảy ra theo một diễn biến nhất định. Nói như vậy để học sinh không nhầm lẫn với phương thức miêu tả mà học sinh đã học từ cấp tiểu học. “Kể về một trải nghiệm” là khái niệm về kiểu bài đã được sách giáo khoa cung cấp như sau: Kể về một trải nghiệm là kiểu bài trong đó người viết kể về diễn biến của sự việc mà mình đã trải qua và để lại nhiều ấn tượng, cảm xúc. Nếu chỉ nêu định nghĩa như vậy, rất nhiều học sinh vẫn còn mơ hồ về hai chữ “ trải nghiệm”. Qua tực tế điều tra trước khi thực hiện đề tài, tôi có khảo sát học sinh bằng câu hỏi “ Con hiểu như thế nào là một trải nghiệm?”, hai phần ba trong số học sinh được hỏi trả lời với ý: Trải nghiệm là đi đâu đó...và trải nghiệm là hoạt động gì đó có ý nghĩa lớn lao lắm. Như vậy, trong suy nghĩ của học sinh các em hiểu chưa đúng nghĩa khái niệm sách giáo khoa đưa ra. Điều đó dẫn đến việc
  7. 7/25 học sinh không biết chọn chuyện gì để kể, chuyện đó có đúng là “một trải nghiệm” mà đề yêu cầu hay không. Vậy, giải pháp đầu tiên ở đây là giáo viên cho học sinh lấy ví dụ cụ thể về những trải nghiệm đó bằng cách cho học sinh hoạt động nhóm. Các thành viên trong nhóm nói cho nhau biết mình có trải nghiệm gì. Qua mỗi ý kiến của các thành viên trong nhóm học sinh sẽ được mở rộng khái niệm về “trải nghiệm” và giáo viên cần củng cố bằng cách nhấn mạnh: Trải nghiệm được chọn kể là những hoạt động mà bản thân em tham gia thực hiện hoặc được chứng kiến trong cuộc sống hàng ngày để lại cho em nhiều ấn tượng, cảm xúc, hoặc có ý nghĩa với em, với cuộc sống. Đó có thể là những hoạt động ở trường, lớp với bạn bè hoặc ở trong gia đình với người thân. Do đó, trong câu chuyện em vừa là người kể chuyện vừa là nhân vật chính (hoặc là người chứng kiến). Yêu cầu ở bài 3 là kể lại trải nghiệm đáng nhớ là muốn nhấn mạnh ấn tượng và cảm xúc của người tham gia trải nghiệm nên giáo viên cũng cần nhắc nhở học sinh chú ý yêu cầu này để bài kể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đặt ra (Thực tế nhiều học sinh “bỏ quên” yêu cầu này). 1.4. Chuẩn bị kĩ càng cho bài kể Trước hết, để học sinh tự tin khi trình bày bài kể lại một trải nghiệm trước lớp, giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ yêu cầu bài học. Như đã nói ở trên, phần nói và nghe ở bài 1 có chủ đề trùng với phần nói và nghe ở bài 3. Với mục đích yêu cầu học sinh tiếp tục sử dụng kĩ năng đã có ở bài 1 để kể lại một trải nghiệm có ý nghĩa đối với đời sống tâm hồn mình và có thêm cách thể thể hiện cảm xúc đối với sự việc được kể. Như vậy, bài học vừa có tính kế thừa, vừa có yêu cầu mới cần phải phát huy. Thêm nữa, ở bài kể này, học sinh cần khắc phục được những nhược điểm đã nêu ở giờ trước để thực hiện tốt hơn. Đó cũng chính là mục tiêu của sáng kiến kinh nghiệm này. Vì vậy trước khi dạy và học cần cho học sinh nắm được các yêu cầu cụ thể của bài nói một cách chi tiết như sau: Phần Yêu cầu Nội dung thể hiện Xác định đề tài Chia sẻ với mọi người về một trải nghiệm của bản thân Chuẩn bị Mục đích nói Rèn luyện khả năng diễn đạt khả năng nói trước nội dung đám đông. Người nghe Thầy /cô giáo và các bạn cùng lớp. Thời gian Vào tiết học Ngữ văn (phần trình bày từ 07ph-10ph) Không gian nói Nói trên lớp Tập luyện Tập luyện bằng - Tự tập trình bày trước gương trước khi những cách nào? - Tập trình bày trước một nhóm bạn, người thân để nói họ nhận xét, góp ý hoàn thiện bài nói hơn.
  8. 8/25 Bằng cách đưa ra những gợi ý cụ thể như vậy, học sinh sẽ có thêm ý tưởng cho bài nói, tránh được nội dung sơ sài hoặc sai yêu cầu bài nói. Và khi học sinh hiểu yêu cầu của bài kể lại có sự chuẩn bị kĩ các nội dung cũng sẽ là cơ sở cho sự tự tin khi học sinh trình bày. Bên cạnh đó, học sinh cũng cần hiểu rõ các nhiệm vụ cần thực hiện trong bài nói “ Kể về một trải nghiệm của bản thân”: Bảng 1: Những yêu cầu khi trình bày nói Yêu cầu Cách thức/ nội dung thể hiện Mở đầu bài nói Thái độ Nội dung trình bày Giọng nói và tốc độ Cử chỉ và điệu bộ Kết thúc bài nói Bảng này sẽ được in ra và phát cho học sinh trong phần hướng dẫn học bài ở tiết trước đó. Học sinh có thể xem và đặt câu hỏi cho giáo viên nếu thấy chưa hiểu. Sau đó học sinh tự trả lời các nội dung theo gợi ý vào phiếu trước khi lập dàn ý cho bài kể. Bảng có tác dụng định hướng nội dung và hình thức trình bày trước khi nói để người nói chủ động hơn, phát huy tính tích cực, chủ động và cũng là năng lực lập kế hoạch của học sinh trước khi tiến hành công việc. Việc định hướng tốt sẽ giúp học sinh tự tin hơn khi nói. Bảng 2: Những yêu cầu sau khi nói Đối tượng Tiêu chí Yêu cầu cụ thể Người nói Thái độ Hành động Người nghe Thái độ Hành động Bảng này tích hợp cả hai nội dung vì mỗi học sinh đều cần trả lời vào bảng để hiểu kĩ càng các tiêu chí đánh giá bài kể. Khi nắm được các tiêu chí này, học sinh có thể tự điều chỉnh nội dung và hình thức bài kể, tránh được tâm lí lo lắng bài kể không đạt yêu cầu. Đặc biệt, phần nghe cũng có vai trò quan trọng để học sinh có thể tự rút kinh nghiệm và tự tin hơn với phần trình bày của mình. Đó cũng là cách nhằm phát huy năng lực phản biện của học sinh vì người có tư duy phản biện tốt là người sẽ tự tin trong giao tiếp. Bảng 3: Phiếu đánh giá tiêu chí nói
  9. 9/25 Với mỗi bài nói trong từng chủ đề, phiếu đánh giá tiêu chí này sẽ cụ thể hóa theo nội dung của bài nói trong chủ đề đó thành điểm số cụ thể để học sinh tự đánh giá mức độ thực hiện phần trình bày bài nói trước lớp. Do đây là sáng kiến nghiên cứu về sự tự tin của học sinh nên phiếu đánh giá này có thêm khảo sát về việc đánh giá tiêu chí “tự tin” của người trình bày bài kể lại một trải nghiệm của bản thân như sau: Yêu cầu Tiêu chí kiểm tra Đạt Chưa đạt Bài trình bày có đủ ba phần: giới thiệu, nội dung và kết thúc Câu chuyện kể về trải nghiệm của người nói Câu chuyện được giới thiệu rõ ràng về các nhân vật, không gian, thời gian xảy ra Các sự việc được kể theo trình tự hợp lí Câu chuyện được kể theo ngôi thứ nhất và nhất quán Nội dung trong cách xưng hô từ đầu đến cuối bài nói. Thể hiện rõ cảm xúc về sự việc đã xảy ra. Nêu được ý nghĩa của trải nghiệm với bản thân. Giọng nói to, rõ, mạch lạc Hình Giọng điệu kể linh hoạt phù hợp với nội dung và cảm thức xúc của người nói. Người nói tự tin, nhìn vào người nghe khi nói, sử dụng giọng kể, nét mặt cử chỉ hợp lí. Thông qua phiếu này học sinh được làm quen với việc đánh giá đồng đẳng (học sinh tự đánh giá lẫn nhau) để tự hoàn thiện bản thân. Đó là một trong những điểm mới trong dạy học phát triển năng lực hiện nay. 1.5. Kích thích học sinh tích cực tương tác để rèn luyện sự tự tin Với các em học sinh còn thiếu tự tin, việc tương tác với giáo viên, với học sinh sẽ giúp các em có cơ hội được trình bày trước tập thể để rèn luyện sự tự tin. Bằng cách thực hành nói nhiều lần, học sinh sẽ có kĩ năng nói tốt hơn, chủ động hơn. Muốn học sinh tích cực phát biểu hoặc xin trình bày ý kiến một cách chủ động, giáo viên cần tăng cường cho học sinh thảo luận nhóm, tập nói trong nhóm trước khi tập nói trước lớp. Khi đó, các thành viên sẽ có sự bổ sung góp ý cho nhau để học sinh lên trình bày trước lớp sẽ tự tin thực hiện tốt phần trình bày của mình. 1.6. Thay đổi hình thức tổ chức giờ học và các hoạt động học tập
  10. 10/25 Trong thực tế, tiết nói và nghe không dễ để tổ chức sinh động, hấp dẫn như các tiết đọc hiểu văn bản hay thực hành Tiếng Việt. Đặc biệt, nếu học sinh không hợp tác tốt giáo viên khó có thể thực hiện dạy học theo định hướng phát triển năng lực với các mục tiêu và nội dung như đã đề cập ở trên. Và đa phần các giờ học đều được tổ chức bằng cách truyền thống: Giáo viên là người tổ chức và hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động. Do đó nếu chúng ta có cách thay đổi thì sẽ giúp học sinh chuyển trạng thái học tập và có tâm thế học tập tốt hơn, hào hứng tương tác, sôi nổi tranh luận và phản biện. Chẳng hạn: Thay đổi không gian học tập: Với những trường có cơ sở vật chất đầy đủ và nhiều phòng học, có phòng học bộ môn, giáo viên có thể mượn không gian học tập ở phòng học khác để tổ chức tiết học trên. Với không gian phòng học mới, học sinh sẽ có tâm lí hào hứng hơn. Đặc biệt nếu lớp học trang trí theo chủ đề của bài học, có thêm các thiết bị khác hỗ trợ như loa, micro, máy chiếu, bảng thông minh...để học sinh có thể trình chiếu hình ảnh, âm thanh...kết hợp với bài kể thì cũng tạo ra hiệu ứng tốt. Khi đó, người nghe không chỉ nhìn chăm chăm vào người nói mà sẽ huy động cả nghe, nhìn kênh hình... khiến học sinh trình bày vấn đề cũng không bị mất bình tĩnh. Giáo viên hướng dẫn một học sinh trong lớp điều khiển tiết học: Việc này giống như thay đổi khẩu vị trong những bữa ăn hàng ngày. Thường ngày, học sinh quen nghe và làm theo sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên nên khi thay việc đó bằng cách cho học sinh khác thực hiện thay giáo viên, học sinh vừa có sự tò mò muốn xem hôm nay bạn đó làm như thế nào, vừa đón nhận giờ học với tâm lí thoải mái hơn. Khi các em tương tác với nhau các em sẽ cảm thấy cởi mở, tự tin hơn. Qua các tiết luyện nói khác nhau, giáo viên có thể mời những học sinh khác nhau thực hiện nhiệm vụ trên. Đây cũng là việc để rèn luyện sự tự tin, khả năng nói trước đám đông của chính học sinh được gọi lên điều khiển tiết học. Tập trung vào nhiều đối tượng học sinh, nhất là học sinh còn nhút nhát, rụt rè: Tâm lí của nhiều giáo viên khi dạy tiết thực hành nói và nghe là muốn giờ học đảm bảo về thời gian và nội dung cần đạt được thực hiện đầy đủ trong một tiết học nên thường dành phần nói cho những học sinh ưu tú trong hoạt động này. Như thế chúng ta vô tình coi nhẹ vai trò của các học sinh khác, không cho các em có cơ hội được thể hiện năng lực của bản thân thì từ đó các em không thể xác định được năng của các em đang ở mức độ nà. Vậy, để giờ “Nói và nghe” có tác dụng phát triển năng lực cho nhiều học sinh, giáo viên cần lưu ý: Học sinh được chọn để trình bày vấn đề không nhất thiết phải là những
  11. 11/25 học sinh có năng lực nói tốt, giáo viên có thể chọn ngẫu nhiên bằng cách bắt thăm hoặc quay vòng quay kì diệu (có ghi tên học sinh). Việc này khiến học sinh tập trung chú ý cao hơn, có ý thức chuẩn bị bài và ý thức hợp tác tốt hơn vì như vậy là giáo viên đang tạo tâm thế và định hướng cho học sinh. Tổ chức giờ học bằng cách sân khấu hóa: Đây là giải pháp giúp giờ học trở nên nhẹ nhàng, tránh được tâm lí học bài căng thẳng, đưa các em vào tâm thế của việc xem kịch, đồng thời tạo hứng thú, giúp học sinh chú ý vào trải nghiệm được kể. Để thực hiện điều này, giáo viên cần có sự chuẩn bị kì công hơn. Đó là phải giao nhiệm vụ cho các nhóm chuyển thể trải nghiệm của một thành viên trong nhóm thành một kịch bản, có phân công các vai diễn và có thời gian tập luyện kịch bản. 1.7. Một số bài tập giúp học sinh phát âm đúng các phụ âm “ L và N” Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là do cách phát âm của địa phương. Lỗi phát âm sai do tiếng địa phương không phải dễ khắc phục được ngay do thường ngày các em và mọi người xung quanh đều nói như vậy. Song không phải là không sửa được nếu các em biết cách tập và chịu khó tập luyện. Sửa được lỗi phát âm này cũng giúp học sinh trở nên tự tin hơn khi nói. Sau đây là một số bài tập luyện phát âm đúng phụ âm “ l- n” dùng cho tất cả các học sinh mắc lỗi phát âm sai hai phụ âm này: Nói năng nên luyện luôn luôn, Lời nói lưu loát luyện luôn lúc này Lẽ nào nao núng lung lay Lên lớp lú lẫn lại hay nói lầm"
  12. 12/25 Đọc phương châm luyện nói: Nói lẫn lần này nên nói lại. Nói lẫn lần nữa lại nói lại, nói lúc nào lưu loát hết lầm lẫn là lên lớp nói luôn. (sưu tầm: nguồn Internet ) Dạng bài tập luyện phát âm đúng hai phụ âm “ L - N” trên Internet có rất nhiều bài tập khác nhau, giáo viên có thể giới thiệu để học sinh tự tìm và tự tập luyện. Bài tập trên cũng có thể tổ chức thành trò chơi khởi động trong giờ “ Nói và nghe” hoặc lúc kết thúc giờ học hoặc yêu cầu luyện tập ở nhà đối với những học sinh mắc lỗi (Có thể phân cặp đôi cùng luyện sẽ có hiệu quả hơn). Giáo viên có thể ra quy định chấm điểm như sau: - Đọc đúng và nhanh: 3 điểm - Đọc đúng và chậm: 2 điểm - Đọc sai 1 lỗi: 1 điểm - Đọc sai nhiều hơn 1 lỗi: 0 điểm Để thực hiện nghiêm túc việc luyện tập, có thể tiến hành cả trong các giờ truy bài, hoặc tổ chức thành một trò chơi trong giờ sinh hoạt lớp. Giáo viên gợi ý cho học sinh lập nhật kí tập luyện và tự theo dõi sự tiến bộ thông qua bảng chấm điểm như trên. Bên canh đó, giáo viên cũng khuyên các em khi nói nên nói chậm rãi, giữ tâm lí thoải mái, đừng nghĩ đó là một sự tồi tệ, làm mình phiền muộn. Và cũng đừng nghĩ người khác đang soi mói hay để ý đến hạn chế của mình. Những suy nghĩ tích cực sẽ giúp học sinh thêm quyết tâm và nhanh tiến bộ. Đối với các học sinh khác không mắc lỗi, giáo viên nhắc nhở học sinh không nên có thái độ nhạo báng, nói lời khiếm nhã mà cần lắng nghe và giúp bạn sửa lỗi. 2. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến vào thực tiễn Bảng so sánh trước và sau khi thực hiện đề tài. - Trước khi thực hiện Lớp Rất tự tin Khá tự tin Chưa tự tin lắm Thiếu tự tin Không tự tin (9-10 điểm) (7- 8 điểm) (5-6 điểm) (1- 4 điểm) (0 điểm) Số Số Số Số Số Sĩ số Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ% lượng lượng lượng lượng lượng 4 11,1 6 16,6 12 33,4 8 22,3 6 16,6 6F/ 7 15,9 10 22,7 13 29,6 10 22,7 4 9,1 44 - Sau khi thực hiện đề tài
  13. 13/25 Lớp Rất tự tin Khá tự tin Chưa tự tin lắm Thiếu tự tin Không tự (9-10 điểm) (7- 8 điểm) (5-6 điểm) (1- 4 điểm) tin(0 điểm) Số Số Số Số Số Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ% Sĩ số lượng lượng lượng lượng lượng 6C/36 8 22,2 14 38,9 8 22,2 4 11,1 2 5,6 6F/44 13 29,5 20 45,5 6 13,6 4 9,1 1 2,3 Không chỉ vậy, chất lượng giờ nói và nghe được cải thiện rõ rệt qua từng bài, từng chủ đề, học sinh tích cực học bài, tích cực trao đổi và thảo luận. Một số em có tiến bộ vượt bậc đã được tuyên dương trước lớp. Đó cũng là một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng môn Ngữ văn trong học kì vừa qua. III. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CỦA SÁNG KIẾN Sáng kiến là kết quả của quá trình tìm tòi và thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học môn Ngữ văn lớp 6 theo chương trình và sách giáo khoa mới. Nhờ áp dụng sáng kiến mà kĩ năng nói của học sinh có nhiều tiến bộ về khả năng trình bày bài nói trước tập thể lớp và về mức độ của sự tự tin. Sáng kiến có thể áp dụng cho các bài dạy khác nhau, thực hiện ở nhiều khối khác nhau, ở các môn học khác nhau. Nó có hiệu quả trong việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Sáng kiến góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn giáo dục cần đổi mới để bắt nhịp với sự phát triển của xã hội. Đối với trường THCS và các em học sinh lớp 6 tại lớp tôi đang trực tiếp giảng dạy, Sáng kiến kinh nghiệm này giúp các em học sinh thêm yêu môn văn hơn, được hình thành và phát triển những năng lực, phẩm chất tốt đẹp để dễ dàng thích ứng với cuộc sống hiện tại và tương lai. Đặc biệt là khi thực hiện các giải pháp rèn luyện sự tự tin cho học sinh, giáo viên có thể phát hiện ra những học sinh có năng khiếu, có tố chất về năng lực nói để khích lệ, động viên các em nuôi dưỡng ước mơ sau này lớn lên có thể trở thành MC, thành nhà báo, người dẫn chương trình chuyên nghiệp ... Đó cũng chính là góp phần định hướng tương lai cho học sinh sau này. 2. Kiến nghị
  14. 14/25 2.1. Đối với giáo viên Muốn vận dụng các giải pháp trên thực sự có hiệu quả trong quá trình giảng dạy, người giáo viên cần: - Nghiên cứu kỹ đối tượng học sinh, tình hình giáo dục tại nhà trường, và bản thân học sinh lớp giảng dạy. - Giáo viên phải chuẩn bị kĩ lưỡng nội dung bài dạy, dự kiến các hoạt động thực hiện trong bài, giao nhiệm vụ cho học sinh một cách khoa học, hiệu quả. - Tích cực học hỏi và đầu tư thời gian, công sức cho công tác chuyên môn để có chất lượng giảng dạy tốt hơn. 2.2. Đối với các cấp ngành giáo dục Nên thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề có chất lượng về đổi mới phương pháp giảng dạy để giáo viên có cơ hội học hỏi và nâng cao năng lực chuyên môn. Trong khuôn khổ đề tài sáng kiến kinh nghiệm này, tôi xin được trình bày một số kinh nghiệm của cá nhân qua thực tế giảng dạy. Vì vậy không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Kính mong Hội đồng khoa học cấp trên xem xét, đánh giá để đề tài được hoàn thiện hơn, chất lượng hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Đan Phượng, ngày 22 tháng 02 năm 2023 C. MINH CHỨNG GIÁO ÁN MINH HOẠ
  15. 15/25 Ngày soạn: Ngày dạy: NÓI VÀ NGHE KỂ VỀ MỘT TRẢI NGHIỆM CỦA BẢN THÂN I. Mục tiêu: 1. Về kiến thức a) Đọc - hiểu - Nắm được yêu cầu và các bước kể lại một trải nghiệm của bản thân. - Trình bày trước mọi người về một trải nghiệm của bản thân. - Hiểu và đánh giá được nội dung trình bày của người khác. b) Viết Viết được bài văn kể về một trải nghiệm của bản thân. c) Nói và nghe - Cảm nhận được phần trình bày của GV và bạn bè - Biết tham gia thảo luận trong nhóm nhỏ về một vấn đề cần có giải pháp thống nhất, biết đặt câu hỏi và trả lời, biết nêu một vài đề xuất dựa trên các ý tưởng được trình bày trong quá trình thảo luận. 2. Về năng lực - Năng lực tự chủ và tự học: Tìm kiếm thông tin, đọc sách giáo khoa, nắm được yêu cầu và các bước kể lại một trải nghiệm của bản thân. - Năng lực giao tiếp và hợp tác: Thảo luận nhóm để thực hiện phiếu học tập, hợp tác giải quyết vấn đề để nắm được yêu cầu và các bước kể lại một trải nghiệm của bản thân. - Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: Năng lực trình bày và trao đổi thông tin trước lớp. - Năng lực đặc thù: Viết và nói được bài văn kể về một trải nghiệm của bản thân. 3.Về phẩm chất - Chăm chỉ: Chăm chỉ và tự tin - Trách nhiệm: Biết lắng nghe những chia sẻ của người khác. II. Thiết bị dạy học và học liệu. - Học liệu: Ngữ liệu/Sách giáo khoa, phiếu học tập. - Thiết bị: Máy tính, máy chiếu. III. Tiến trình dạy học. 1. Hoạt động 1: Mở đầu a) Mục tiêu: Tạo tâm thế và định hướng chú ý cho học sinh; tạo vấn đề vào chủ đề b) Nội dung hoạt động: HS trả lời câu hỏi. c) Sản phẩm học tập: Câu trả lời/chia sẻ của HS bằng ngôn ngữ
  16. 16/25 d) Tổ chứchoạt động: * Chuyển giao nhiệm vụ: GV cho HS xem một số nhân vật có khả năng diễn thuyết, hùng biện nổi tiếng. Em biết gì về những nhân vật này? Điểm chung của các nhân vật này? * Thực hiện nhiệm vụ: HS trả lời câu hỏi. * Báo cáo kết quả: HS trình bày kết quả (cá nhân). * Đánh giá nhận xét, dẫn vào bài Để trở thành những nhà diễn thuyết, hùng biện nổi tiếng họ đã phải trải qua một quá trình rèn luyện nói. Các em muốn trở thành một người nói giỏi em hãy bắt đầu học thuyết trình ngay hôm nay. 2. Hoạt động 2: Khám phá Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt a) Mục tiêu: HS hiểu để nói tốt thì bước chuẩn bị và 1. Chuẩn bị và luyện tập luyện tập trước khi nói. trước khi nói. b) Nội dung hoạt động: HS trả lời câu hỏi. c) Sản phẩm học tập: Câu trả lời/chia sẻ của HS bằng ngôn ngữ d) Tổ chức hoạt động: Chuyển giao nhiệm vụ Phiếu học tập số 1: Yêu cầu và nội dung của phần chuẩn bị tập luyện trước khi nói. Phần Yêu cầu Nội dung thể hiện Chuẩn bị nội Xác định đề tài dung Mục đích nói Người nghe Thời gian Không gian nói Tập luyện Tập luyện bằng trước khi nói những cách nào? Dự kiến sp: Phần Yêu cầu Nội dung thể hiện
  17. 17/25 Xác định đề tài Chia sẻ với mọi người về một trải nghiệm của Chuẩn bị bản thân nội dung Mục đích nói Rèn luyện khả năng diễn đạt khả năng nói trước đám đông. Người nghe Thầy /cô giáo và các bạn cùng lớp. Thời gian Vào tiết học Ngữ văn (phần trình bày 7-10p) Không gian Nói trên lớp nói Tập Tập luyện - Tự tập trình bày trước luyện bằng những gương trước khi cách nào? - Tập trình bày trước nói một nhóm bạn, người thân để họ nhạn xét, góp ý hoàn thiện bài nói hơn. a) Mục tiêu: HS hiểu được những yêu cầu trình bày 2, Trình bày bài nói bài nói b) Nội dung hoạt động: Thực hiện phiếu học tập c) Sản phẩm học tập: Phiếu học tập d) Tổ chứchoạt động: * Giao nhiệm vụ học tập: Phiếu học tập số 2: Những yêu cầu khi trình bày nói Yêu cầu Cách thức/ nội dung thể hiện Mở đầu bài nói Thái độ Nội dung trình bày Giọng nói và tốc độ Cử chỉ và điệu bộ Kết thúc bài nói Dự kiến sp: Yêu cầu Cách thức/ nội dung thể hiện
  18. 18/25 Mở đầu bài nói Chào mọi người và giới thiệu chủ đề của bài nói Thái độ Tự tị và thoải mái Nội dung trình Bám sát mục đích chia sẻ trải bày nghiệm để thống nhất trong cách dùng từ ngữu xưng hô Tập trung vào diễn biến câu chuyện Giọng nói và tốc Âm lượng: to hay nhỏ độ Tốc độ: nhanh hay chậm. Cử chỉ và điệu Ánh mắt: luôn có sự kết nới với bộ người nghe Gương mặt vui, buồn, tươi cười, ngạc nhiên, hài hước…phù hợp với nội dung câu chuyện. Không cử động nhiều nhưng cũng không bất động. Dáng người đứng thẳng, không nghiêng hay lom khom. Kết thúc bài nói Cúi chào và cảm ơn mọi người đã lắng nghe. * Thực hiện nhiệm vụ: HS hoàn thành phiếu học tập * Báo cáo kết quả: HS trình bày kết quả * Đánh giá nhận xét, chốt kiến thức a) Mục tiêu: HS hiểu được những yêu cầu trao đổi 3. Trao đổi thảo luận sau thảo luận sau khi nói. khi nói b) Nội dung hoạt động: Thực hiện phiếu học tập c) Sản phẩm học tập: Phiếu học tập d) Tổ chức hoạt động: * Giao nhiệm vụ học tập: Phiếu học tập số 3: Những yêu cầu sau khi nói Đối tượng Tiêu chí Yêu cầu cụ thể Người nói Thái độ Hành động Người nghe Thái độ Hành động Dự kiến sp:
  19. 19/25 Đối tượng Tiêu chí Yêu cầu cụ thể Người nói Thái độ Có tinh thần cầu thị, chú ý lắng nghe phản hồi từ người nghe Hành động + Tiếp thu những ý kiến góp ý mà em cho là xác đáng. + Giải thích thêm về những sự việc, chi tiết mà người nghe còn chưa rõ. Người Thái độ Có thái độ tôn trọng và nghe xây dựng góp ý cho người nói Hành động + Trao đổi về điều hấp dẫn, thú vị của câu chuyện + Những sự việc, chi tiết còn chưa rõ trong bài nói BẢNG KIỂM KĨ NĂNG KỂ LẠI MỘT TRẢI NGHIỆM ĐÁNG NHỚ CỦA BẢN THÂN Yêu Tiêu chí kiểm tra Đạt Chưa cầu đạt Bài trình bày có đủ ba phần: giưới thiệu, nội dung và kết thúc Câu chuyện kể về trải nghiệm của người nói Câu chuyện được giới thiệu rõ ràng về các nhân vật, không gian, thời gian xảy ra Nội dung Các sự việc được kể theo trình tự hợp lí Câu chuyện được kể theo ngôi thứu nhất và nhất quán trong cách xưng hô từu đầu đến cuối bài nói. Thể hiện rõ cảm xúc về sự việc đã xảy ra. Nêu được ý nghĩa của trải
  20. 20/25 nghiệm với bản thân. Giọng nói to, rõ, mạch lạc Giọng điệu kể linh hoạt phù hợp với nội dung và cảm Hình xúc của người nói. thức Người nói tự tin, nhìn vào người nghe khi nói, sử dụng giọng kể, nét mặt cử chỉ hợp lí. * Thực hiện nhiệm vụ: Hs hoàn thành phiếu học tập * Báo cáo kết quả: HS trình bày kết quả * Đánh giá nhận xét, chốt kiến thức 3. Hoạt động 3: Luyện tập a) Mục tiêu: Học sinh vận dụng kiến thức đã học vào giải bài tập b) Nội dung hoạt động: Kể lại trải nghiệm lần đầu đi xem biểu diễn xiếc c) Sản phẩm học tập: Quy trình kể lại trải nghiệm lần đầu đi xem biểu diễn xiếc d) Tổ chức thực hiện: Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt Chuyển giao nhiệm vụ III, Luyện tập Phiếu học tập số 4: Quy trình kể lại trải nghiệm lần đầu Bài tập: Quy trình đi xem biểu diễn xiếc. kể lại trải nghiệm Bước 1: Chuẩn bị nội dung nói lần đầu đi xem biểu diễn xiếc. Đề tài ……………………………………. Mục đích ……………………………………. Người nghe …………………………………….. Không gian …………………………………….. Thời gian …………………………………….. DỰ KIẾN SP: Bước 1: Chuẩn bị nội dung nói Đề tài - Em sẽ kể lại trải nghiệm về lần đầu đi xem biểu diễn xiếc. - Vì đây là trải nghiệm của bản thân nên em sẽ sử dụng ngôi kể thứ nhất, xưng “em” Mục đích - Để bản thân em có thể lưu giữ trải nghiệm đầu tiên trong đời được đi xem biểu diễn xiếc trực tiếp - Để chia sẻ với người nghe về câu chuyện của em và để lan toả thông điệp tích cực. Và để bản thân em được rèn luyện kĩ năng nói Trước đám đông.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2