intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Bổ sung 3 quy tắc phân hoạch và thử Bernoulli vào giải quyết một số bài toán xác suất THPT

Chia sẻ: Behodethuonglam | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:28

54
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là giúp học sinh lớp 11 nói riêng và học sinh trung học phổ thông nói chung tiếp cận thêm một số phương pháp khác để giải quyết một số bài toán cơ bản và đặc biệt giúp cho việc giải quyết một số bài toán tổ hợp xác suất hay và khó một cách dễ dàng và chính xác hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Bổ sung 3 quy tắc phân hoạch và thử Bernoulli vào giải quyết một số bài toán xác suất THPT

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT KỲ SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI: BỔ SUNG 3 QUY TẮC PHÂN HOẠCH VÀ PHÉP THỬ BERNOULLI VÀO  GIẢI QUYẾT MỘT SỐ BÀI TOÁN XÁC SUẤT THPT MÔN : TOÁN LĨNH VỰC : DẠY HỌC TOÁN
  2. Năm học: 2020­ 2021
  3. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT KỲ SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI: BỔ SUNG 3 QUY TẮC PHÂN HOẠCH VÀ PHÉP THỬ BERNOULLI VÀO  GIẢI QUYẾT MỘT SỐ BÀI TOÁN XÁC SUẤT THPT                         MÔN :  TOÁN                         TÁC GIẢ :  NGUYỄN VIẾT LỰC                         TỔ  : TOÁN­ TIN ĐƠN VỊ : TRƯỜNG THPT KỲ SƠN SỐ ĐIỆN THOẠI : 0988972186 Năm học: 2020­ 2021
  4. Mục lục
  5. I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đất nước ta trên đường đổi mới cần có những con người phát triển toàn  diện, năng động và sáng tạo. Muốn vậy phải bắt đầu từ sự  nghiệp giáo dục và  đào tạo, đòi hỏi sự  nghiệp giáo dục và đào tạo phải đổi mới để  đáp  ứng nhu  cầu xã hội. Đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố,  trong đó một yếu tố  quan trọng là đổi mới phương pháp dạy học, bao gồm cả  phương pháp dạy học môn Toán.  Mục tiêu Giáo dục phổ thông đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phổ thông   phải phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù   hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự  học, rèn   luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại   niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.” Từ  năm học 2016­2017, trong kỳ  thi trung học phổ thông quốc gia, đề  thi   môn Toán thay đổi từ hình thức tự luận sang hình thức trắc nghiệm khách quan.   Chính điều này đã tạo ra một sự chuyển biến lớn trong cả dạy và học ở các nhà   trường. Để đạt được điểm số cao trong kỳ thi này, học sinh không cần chỉ nắm   vững kiến thức cơ bản, làm thuần thục các dạng toán quan trọng mà cần có khả  năng logic cao để  tiếp cận vấn đề  một cách nhanh nhất, chọn được cách giải   quyết nhanh nhất đến đáp án. Đây thực sự là một thách thức lớn. Trong những năm gần đây, bản thân tôi nhận thấy nhu cầu học tập và tìm   hiểu của học sinh về  xác suất thống kê nói chung và tổ  hợp xác suất đối với   học sinh trung học phổ  thông nói riêng. Xuất phát từ  nhu cầu đó là một người  giáo viên tôi muốn tìm hiểu và cung cấp thêm cho học sinh THPT những cái   mới, cái khác để  tăng thêm công cụ  giải quyết bài toán. Với mong muốn đó tôi  bắt đầu tìm tòi và học hỏi. Mặt khác, với chương trình mới mang tính chất mở  cho phép các nhà  trường thêm nội dung, chương trình chỉ  cần đảm bảo được tính cốt lõi của nội  dung, đảm bảo được kiến thức yêu cầu. Từ  đó, trên mục đích bổ  sung thêm cho học sinh lớp 11 nói riêng và học  sinh THPT nói chung, tôi mạnh dạn chọn đề  tài  “Bổ  sung 3 quy tắc phân  hoạch và thử Bernoulli vào giải quyết một số bài toán xác suất THPT”. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào các kiến thức về  tổ  hợp và xác suất. Đặc biệt là một số  quy tắc qua đó giải quyết một số  bài   toán. Và học sinh các lớp 11C3, 11C4, 11C5,11A1 5
  6. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, tôi đã nghiên cứu dựa trên các tài liệu về tổ hợp   xác suất đặc biệt là 3 quy tắc phân hoạch và phép thử Bernoulli. Các dạng toán   liên quan đến 3 quy tắc này thuộc vào nội dung kiến thức trung học phổ thông  nói chung và kiến thức “Chương II: Tổ hợp­ Xác suất”, Đại số  và Giải tích 11   nói riêng. 3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3.1. Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu nghiên cứu của đề  tài là giúp học sinh lớp 11 nói riêng và học  sinh trung học phổ thông nói chung tiếp cận thêm một số phương pháp khác để  giải quyết một số bài toán cơ bản và đặc biệt giúp cho việc giải quyết một số  bài toán tổ hợp xác suất hay và khó một cách dễ dàng và chính xác hơn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tìm hiểu những khó khăn mà học sinh gặp phải khi giải quyết bài toán  liên quan đến tổ hợp xác suất. Rồi từ đó đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn dạy   học và đưa ra những giải pháp. Ghi chép tổng hợp các kết quả thực nghiệm thu   được từ việc áp dụng đề tài vào giảng dạy. 4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI Trong thực tiễn dạy học chủ  đề  Tổ  hợp xác suất ta bắt gặp nhiều bài   toán phức tạp cần phải tư duy hết sức khéo léo mới giảm được sự  dài dòng và  qua đó tăng độ chính xác khi làm toán dạng này. Ở chủ đề này thì lý thuyết cũng  không khá nhiều nhưng ngược lại dạng bài tập “hóc búa” dễ  gặp sai lầm lại   không hề  ít. Bản thân là một giáo viên dạy bộ  môn toán, khi dạy chủ  đề  này  cũng gặp rất nhiều khó khăn. Có những trường hợp học sinh làm bài sai, nhưng   để  chỉ  ra lỗi sai cũng không hề  đơn giản, bởi đó là vấn đề  tư  duy trong trứng   nước, phải đặt mình vào vị thế chính các em để nhận ra. Bởi vì đặc thù chủ đề  và các dạng toán tổ hợp xác suất nó như vậy nên tôi đã tìm tòi, hỏi hỏi và muốn   cung cấp cho học sinh thêm “Ba quy tắc phân hoạch và phép thử  Bernoulli” để  học sinh có thêm công cụ giúp giải quyết một số dạng bài toán của chủ  đề  mà   với công cụ sách giáo khoa thục sự là những thách thức. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Với mục tiêu đề ra tôi xây dựng phương pháp như sau: Cung cấp kiến thức một cách đầy đủ và tỉ mỉ để học sinh nắm chắc được kiến  thức. Sau đó cho học sinh ôn luyện các dạng bài tập để củng cố kiến thức. Khi  học sinh đã nắm chắc kiến thức và làm được một lượng bài tập cơ  bản của   chương thì tôi cho học sinh kiểm tra một số  dạng bài tập tôi hướng đến. Để  nắm bắt được với công cụ  sách giáo khoa thì học sinh sẽ  giải quyết bài toán  như thế nào? (tất nhiên những bài toán này là những bài toán thuộc chương trình  của các em, sử  dụng những kiến thức các em  đã được học vẫn giải quyết   6
  7. được). Sử dụng kết quả bài kiểm tra để nghiên cứu. Sau đó tôi cung cấp cho các   em kiến thức “3 quy tắc phân hoạch và phép thử  Bernoulli” rồi cho học sinh   khảo sát lại những bài toán trước đó. Quan sát và đánh giá.  ­ Nghiên cứu lý luận ­ Nghiên cứu thực tiễn ­ Thực nghiệm sư phạm ­ Thống kê toán học 6. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU ­ Học kì I năm học 2020­ 2021 7. DỰ BÁO NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI Trong quá trình giảng dạy, bản thân tôi áp dụng đề tài của mình và bước  đầu đã thu được những kết quả khá khách quan, hầu như sau khi được cung cấp   thêm “3 quy tắc phân hoạch và phép thử  Bernoulli” thì học sinh đã giải quyết  nhanh và chính xác một số dạng bài tập mà trước đó còn gặp khó khăn như sai,  dài dòng, hướng suy luận, ... Cũng qua đó kích thích được tinh thần học tập của   học sinh khi học chủ đề này. Đề tài có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh trong   việc bồi dưỡng học sinh giỏi và đặc biệt những bạn yêu thích chủ đề “Tổ hợp ­  Xác suất”. 7
  8. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lý thuyết của đề tài Kiến thức cơ bản về tổ hợp xác suất + Quy tắc đếm: Quy tắc cộng: Một công việc được hoàn thành bởi một trong hai   hành động. Nếu hành động này có  m  cách thực hiện, hành động kia có  n  cách  thực hiện không trùng với bất kì cách nào của hành động thứ nhất thì công việc   đó có  cách thực hiện. Quy tắc nhân: Một công việc được hoàn thành bởi hai hành động  liên tiếp. Nếu có m cách thực hiện hành động thứ nhất và ứng với mỗi cách đó  có n cách thực hiện hành động thứ hai thì có  cách hoàn thành công việc. + Số các hoán vị của n phần tử:  + Số các chỉnh hợp chập k của n phần tử:  + Số các tổ hợp chập k của n phần tử:  + Tính chất của các số :     + Tính chất của xác suất:   là hai biến cố độc lập khi và chỉ khi:  2. CÁC SÁNG KIẾN VÀ GIẢI PHÁP ĐàSỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT  VẤN ĐỀ. 2.1. Cung cấp 3 quy tắc phân hoạch 2.1.1. Quy tắc 1 a) Cung cấp công thức Xét bài toán phân hoạch: Cho tập hợp A có n phần tử phân biệt. Phân  hoạch tập hợp A ra k nhóm, nhóm thứ  có  phần tử (  ).  Khi đó số cách phân hoạch trên là:  Quy tắc này có thể phát biểu dưới dạng khác như sau: Số cách phân phối  n quả cầu phân biệt vào k hộp phân biệt  sao cho hộp thứ i có  quả  là: . 8
  9. b) Chứng minh quy tắc 1 Xét bài toán phân hoạch: Cho tập hợp A có n phần tử phân biệt. Phân  hoạch tập hợp A ra k nhóm, nhóm thứ  có  phần tử (). Đầu tiên ta sẽ chọn  phần tử của nhóm 1, ta có cách chọn. Sau khi chọn nhóm 1 thì còn lại  phần tử, dẫn tới số cách chọn nhóm 2 sẽ là: . Cứ như vậy số cách chọn của nhóm thứ k sẽ là: 1 Do đó dễ có được số cách phân phối n quả cầu phân biệt vào k hộp phân  biệt là:  Vậy ta đã chứng minh được quy tắc 1. c) Bài toán minh họa Bài toán 1: Một tổ  trực nhật gồm 10 bạn học sinh. Hỏi có bao nhiêu cách  phân công trực nhật sao cho có 5 bạn làm trong lớp, 3 bạn làm hành lang, 2 bạn  làm bồn hoa. Đây là một bài toán cơ bản nên khi khảo sát theo cách giải thông thường thì  đa số học sinh đều làm đúng. Bài làm: Cách làm cơ bản:  Chọn 5 người trực nhật trong lớp có:  cách chọn. Với mỗi cách chọn 5 bạn trực nhật trong lớp ta có:  cách chọn 3 bạn trực nhật  hành lang và tiếp theo có  cách chọn 2 bạn trực nhật bồn hoa. Vậy có tất cả  2520 cách phân công Với cách suy luận theo quy tắc phân hoạch 1: Số cách phân công chính là cách phân hoạch 10 phần tử thành 3 nhóm:  Nhóm 1 có  phần tử Nhóm 2 có  phần tử Nhóm 3 có  phần tử Vậy có tất cả:  cách phân công. Ở bài toán này chúng ta chưa thấy được sự  khó khăn và một số  sai lầm  khi học sinh giải toán, nhưng cũng có thể thấy rõ nếu áp dụng công thức thì học  sinh có lẽ  chỉ  cần dưới 30 giây để  có thể  “chốt” ngay đáp án 2520.  Đồng thời  bài toán giúp học sinh hình thành khả năng lựa chọn và thiết lập được cách thức,   quy trình giải quyết vấn đề.  9
  10. Để làm rõ tính ứng dụng công thức, ta đến với bài toán thứ hai: Bài toán 2: Có 8 hành khách lên một đoàn tàu 8 toa, tính xác suất sao cho  trong8 toa đó có 2 toa có 2 người, 4 toa mỗi toa 1 người và 2 toa trống. Ở bài toán này học sinh sử dụng phương pháp lập luận, quy nạp va suy   diễn để  nhìn ra những cách thức khác nhau trong việc giải quyết vẫn đề  được   đặt ra tuy nhiên rất nhiều học sinh mắc sai lầm, kể cả những học sinh khá giỏi.   Sai lầm của các em thường gặp là  ở  cách sắp xếp người vào toa nhưng quên   mất hoán vị  của nó, hoặc có những bạn lại thừa đi. Trước hết tôi xin   đưa ra  những lời giải sai chủ yếu của các em học sinh: Lời giải 1: Ở lời giải này học sinh nhầm lẫn giữa chỉnh hợp và tổ hợp. Khi còn lại   2 toa chúng ta cần chọn 2 người để  cho vào một toa thì chỉ  cần chọn 2 người   trong 4 người là bài toán được giải quyết (dùng tổ  hợp) nhưng bởi em nghĩ  ở  đây có thêm sự  đổi vị  trí giữa 2 toa nên em đã sử  dụng chỉnh hợp dẫn đến lời   giải sai và ở lời giải này nếu chúng ta chỉ lướt qua mà chưa biết trước được đáp  án chính xác thì dễ mà giáo viên cũng cho rằng đây là một lời giải đúng. 10
  11. Lời giải 2: Ở lời giải này học sinh mắc 2 lỗi sai. Một lỗi  ở đầu bài và một lỗi nữa  ở cuối bài. Tôi xin chỉ ra lỗi sai của học sinh ở đầu bài:  Khi em học sinh chọn 2 người và xếp vào 1 trong 8 toa:  rồi sau đó chọn   2 người tiếp theo và xếp vào một trong 7 toa:  . Nếu làm như  thế  này thì mỗi  cách sắp xếp người được tính 2 lần (giả sử ban đầu ta chọn được hai người A,  B xếp vào toa 1, hai người C, D xếp vào toa 2. Một lần khác, ta chọn toa 2 và  xếp hai người C, D, chọn toa 1 và xếp hai người A, B. Ta nhận thấy chỉ một  cách sắp xếp mà em đó đã đếm 2 lần). Lỗi sai ở cuối bài: Chọn 4 người xếp vào 4 toa. Ở đây ta hình dung chọn  sau đó sắp xếp thì phải dùng   hoặc sử  dụng tổ  hợp   nhưng sau đó phải nhân  thêm hoán vị của 4. Lỗi sai ở đầu bài là một lỗi sai rất dễ gặp khi học sinh chọn   cách sắp xếp như thế này. Để làm đúng theo tư duy sắp xếp thế này với cá nhân  tôi nhận định thì phải là một người nắm rất rõ định nghĩa và mức độ tư duy cực   cao thì mới tránh được sai sót ở đoạn đầu bài. Thú thực tôi là một giáo viên biết   đáp án của bài toán rồi mà cũng phải đọc đi đọc lại rất nhiều lần mới tìm được  lỗi sai này của học sinh.  Ta đến với lời giải tiếp theo: 11
  12. Lời giải 3: Ở lời giải này thì học sinh đã chọn cách để sắp xếp khá hợp lý. Và tôi rất   đồng tình với cách sắp xếp này. Chỉ  vì hơi vội vàng một chút nên em đã nhầm   lẫn một chút ở chỗ chọn 2 người và 2 toa rồi sắp xếp. Khi chọn được 2 người  và 2 toa thì chỉ  có một cách sắp xếp nhưng  ở  đây khi chọn được 2 người và 2   toa rồi thì em học sinh đã nhìn nhận có thêm một hoán vị  của 2 nữa (Nếu 2   người toa này một cách toa kia một cách nhưng thực tế khi em chọn 2 người và  2 toa thì đã có sự sắp xếp ở đây rồi). Còn sau đây tôi xin đưa ra một lời giải đúng của học sinh. Vẫn là cách   sắp xếp hoàn toàn tương tự như các bạn học sinh khác. Nhưng em đã cẩn thận   khi chia toa ra một cách rõ ràng tránh sai sót. Tôi đánh giá cao lời giải này: 12
  13. Lời giải 4:  Tất nhiên đây là một bài toán dễ sai sót nếu các em không hiểu một cách  cặn kẽ. Với thực tế khảo sát tại lớp chọn của trường thì tôi thu được kết quả  rất đáng e ngại. Số  học sinh làm chính xác bài toán này là rất ít, chỉ  chiếm  khoảng 21% (chỉ  được 7 học sinh trên tổng số  33 học sinh). Từ  đó tôi đã áp   dụng cách tư duy của quy tắc 1 này vào để giải quyết bài toán trên. Tôi đã cung  cấp, chứng minh, lấy ví dụ mình họa cho các em. Khi dựa vào quy tắc này thì số  lượng học sinh giải được, giải đúng bài toán này tăng lên vượt bậc. Với quy tắc   này tôi xin trình bài lời giải cho bài toán: Đầu tiên ta sẽ  phân hoạch toa trước. Ta có 8 toa ta phân hoạch thành 3   nhóm: Nhóm 1:  Toa chứa 2 người có 2 toa (2 phần tử) Nhóm 2: Toa chứa 1 người có 4 toa (4 phần tử) Nhóm 3: Toa trống có 2 toa (2 phần tử) Từ đó ta có tất cả  cách phân hoạch (cách sắp xếp toa) Hoàn toàn tương tự: Ta xếp 8 người vào 8 toa có nghĩa phân hoạch 8 người   thành 8 nhóm và số lượng phần tử (người) mỗi nhóm như sau : Nhóm 1: 2 phần tử (2 người) Nhóm 2: 2 phần tử (2 người) Nhóm 3: 1 phần tử (1 người) Nhóm 4: 1 phần tử (1 người) Nhóm 5: 1 phần tử (1 người) Nhóm 6: 1 phần tử (1 người) Nhóm 7: 0 phần tử (0 người)  13
  14. Nhóm 8: 0 phần tử (0 người) Bằng cách tư  duy như  vậy ta có tất cả   cách phân hoạch (cách sắp xếp  người) Bài toán được giải quyết khi phân hoạch toa rồi phân hoạch người thành các   nhóm. Áp dụng quy tắc nhân, ta có  cách sắp xếp.  Số phần tử không gian mẫu:  Xác suất đáp án sẽ là  Ở lời giải này tôi trình bài chi tiết hết mức để thấy rõ cách tư duy. Đặc  biệt khi cung cấp cho học sinh quy tắc 1 này và các ví dụ minh họa đơn giản thì   kết quả  thu được rất khả  quan, ngay cả  đối với những lớp bình thường như  11C3, 11C4, 11C5, 11A1, Cụ thể: Lớp 11C3 11C4 11C5 11A1 Số học sinh  21 21 20 28 làm được bài Sĩ số 32 32 32 33 Tỷ lệ 66% 66% 62,5% 85% Với kết quả này thì chúng ta nhận thấy việc cung cấp thêm quy tắc này  cho học sinh là một việc rất thiết thực và ứng dụng rất cao vào việc giải dạng  toán này. Đặc biệt nếu giải quyết một bài toán khó mà có lồng ghép cách sắp   xếp tương tự  như  bài toán tổng quát của quy tắc 1 thì chúng ta sẽ  tránh được  những sai sót không đáng có như  một số  sai lầm của học sinh mà tôi đã nêu  ở  trên. Qua bài toán 2 và những lời giải mắc sai lầm của học sinh, học sinh lí giải  được tính đúng đắn của lời giải (những kết luận thu được từ các tính toán là có   ý nghĩa, có phù hợp hay không). Đặc biệt, nhận biết được cách đơn giản hóa,  cách điều chỉnh những yêu cầu thực tiễn để đưa đến lời giải đúng cho bài toán.  Không chỉ  vậy, học sinh còn thiết lập được cách thức và quy trình giải quyết  các bài toán tương tự bài toán 2. Bài toán 3: Một em bé có 2 viên bi trắng và 4 viên bi đỏ  để  trong một cái  hộp. Em rút từng viên một cho đến viên bi cuối cùng. Tính xác suất để  viên bi  cuối cùng mà em rút được là màu đỏ. Lời giải: Đầu tiên ta đếm số khả năng của không gian mẫu. Em rút từng bi một trong 2 bi trắng và 4 bi đỏ cho đến bi cuối cùng và bởi vì 2 bi  trắng là giống nhau, 4 bi đỏ là giống nhau nên ta cũng xem như đây là việc phân  hoạch tập hợp gồm 6 phần tử thành 2 nhóm (nhóm 1 có 2 phần tử, nhóm 2 có 4  phần tử). Số phần tử không gian mẫu là: . Biến cố A là em rút từng bi một cho đến bi cuối cùng. 14
  15. Để bi cuối cùng là bi đỏ có nghĩa còn lại 5 bi (2 bi trắng và 3 bi đỏ). Số phần tử  của biến cố A chính là số cách phân hoạch 5 phần tử thành 2 nhóm (nhóm 1 có 2  phần tử, nhóm 2 có 3 phần tử).  Số phần tử biến cố A là: . Xác suất của biến cố A sẽ là: . Khi chuyển tiếp sang bài toán 3, học sinh thực hiện được tương đối  thành thạo các thao tác tư duy, đặc biệt phát hiện được sự  tương đồng và khác   biệt đối với bài toán 2. Ở bài toán này, học sinh đã lựa chọn và thiết lập được  cách thức, quy trình giải quyết bài toán 3 một cách đúng đắn.  d) Bài tập tự giải Bài 1. Một tổ công tác gồm 15 người đi kiểm tra việc thực thi công việc ở  một nhà máy. Tổ  công tác cần phân công công việc như  sau: 4 người kiểm tra  hồ  sơ  giấy tờ, 7 người kiểm tra máy móc trang thiết bị và 4 người kiểm tra lại   việc kiểm tra của 11 người trên. Hỏi có bao nhiêu cách phân công làm việc? Bài 2. Một đội cảnh sát gồm 8 người đuổi theo tội phạm thì gặp một khu  nhà gồm 5 dãy nhà. Bởi số  lượng cảnh sát ít nên đội trưởng đã đưa ra quyết   định. Phải bỏ trống 2 dãy nhà, 3 dãy nhà còn lại được phân công như sau: 2 dãy   có 3 người, 1 dãy có 2 người. Tính xác suất để  tội phạm chạy trốn được (với  giả thiết là dãy nhà nào có cảnh sát thì tội phạm sẽ bị bắt). 2.1.2. Quy tắc 2 a) Cung cấp công thức Xét bài toán phân hoạch: Có bao nhiêu cách sắp xếp n quả cầu giống nhau  vào k hộp khác nhau. Số cách phân hoạch là  b) Chứng minh công thức Tưởng tượng k hộp đó đặt sát nhau và hai hộp cạnh nhau có một vách  ngăn chung. Do có k hộp nên sẽ có  vách ngăn chung. Ta hình dung n quả cầu và  cách ngăn thì sẽ có tất cả  vị trí. Do đó cách làm sẽ như sau: Chúng ta chọn  trong tổng số  vị trí để  đặt cách vách ngăn sẽ  có:   cách.  Tiếp theo chúng ta đặt n quả cầu vào n vị trí còn lại sẽ có một cách đặt bởi vì  các quả cầu giống nhau. Vậy bài toán sắp xếp n quả cầu giống nhau vào k hộp  khác nhau thì sẽ có     (cách sắp xếp) Ở  quy tắc này, chứng minh quy tắc tổng quát chỉ  sử  dụng mấy dòng lý  luận dựa trên định nghĩa. Thì chắc hẳn ai cũng sẽ nghĩ bài toán tổng quát mà đã   như vậy thì bài toán phụ sẽ như thế nào? Nếu tôi cho các em học sinh tự tìm tòi   chứng minh quy tắc này dựa vào những kiến thức mà các em đã được học thì  chắc hẳn sẽ có bạn làm được. Nhưng cái hay của quy tắc này đó là khi chúng ta   ra những bài toán cụ  thể  dựa trên cái tổng quát này thì khó học sinh nào có thể  15
  16. tìm tòi và có phương án tối ưu cho bài giải của mình. Tôi có đưa ra 3 bài toán để  khảo sát học sinh lớp chọn của trường.  Ba bài toán được đưa ra yêu cầu học  sinh phải xác định được tình huống có vấn đề; thu thập, sắp xếp, giải thích và  đánh giá được độ  tin cậy của thông tin, sau đó là lựa chọn và thiết lập được  cách thức, quy trình giải quyết vấn đề, cuối cùng học sinh thực hiện và trình bày  được giải pháp giải quyết các bài toán được đưa ra. Bài toán 1: Có bao nhiêu cách sắp xếp 6 quả cầu giống nhau vào 3 hộp khác  nhau? Bài toán 2: Có bao nhiêu bộ 10 số tự nhiên có tổng bằng 31? Bài toán 3: Cho phương trình   . Phương trình đã cho có bao nhiêu nghiệm  tự nhiên thỏa mãn ? Ở bài tập số 1, chủ yếu học sinh học sinh sử dụng cách phân chia trường   hợp hoặc liệt kê 6 thành tổng 3 số tự nhiên. Với phương pháp này để giải quyết   những bài toán số nhỏ (ít trường hợp) thì có thể sẽ khả quan. Tất nhiên học sinh  cũng gặp phải không ít sai lầm khi tính toán. Và sau đây tôi xin đưa ra một số sai  lầm của học sinh khi giải quyết bài toán này. Lời giải 1: Em sử dụng phương pháp giả  sử  số  quả  cầu trong 3 hộp 1,2,3 lần lượt   là  là không sai nhưng khi em sử dụng thêm điều kiện  thì lời giải đã mắc phải  sai lầm nghiêm trọng, bới từ  đây không thể  suy ra các kết quả  cho các trường  hợp khác. Điều này đã dẫn đến lỗi sai của toàn bài. 16
  17. Lời giải 2: Học   sinh   đã   thực   hiện   chia  trường   hợp   rất   chuẩn   xác.  Những   trong   mỗi   trường   hợp  em lại tính số  cách sắp xếp sai.  Ví dụ  trường hợp 1 hộp 4 và 2  hộp 1 thì e lại chỉ  ra có 3! Cách  sắp xếp. Em đã quên mất 2 hộp  1 mà trao đổi quả  cầu cho nhau thì kết quả  không thay đổi bới các quả  cầu  ở  đây là giống nhau.  Một số lời giải đúng: 17
  18. Ở bài tập số 2, học sinh dường như đều không nhìn nhận được hướng đi  tối  ưu để  giải quyết vấn đề. Có len lỏi một số  hướng đi nhưng kết quả  đạt   được là không có. Do vậy, tôi rất mong muốn cung cấp cho các em học sinh một  cách tỉ mỉ và rõ ràng quy tắc này để  sau này gặp những dạng bài toán liên quan  mặc dù có thể  là chia kẹo, xếp bóng vào hộp, hay là tìm nghiệm của phương  trình,… thì các em đều hiểu rõ bản chất để  giải quyết. Còn trường hợp là bài   toán trắc nghiệm thì học sinh chỉ cần nhớ công thức để áp dụng. Những bài toán  ở  trên hay nhưng biến thể khó hơn thì nếu các em nắm rõ bài toán này thì đều   giải quyết dễ dàng. Ví dụ bài toán 2 “Nếu là tự luận thì chúng ta sẽ chứng minh   lại công thức quy tắc 2 và áp dụng với  thì chúng ta hoàn toàn giải quyết được  bài toán.” Sử dụng quy tắc như một bổ đề. c) Áp dụng giải quyết bài toán Tìm số bộ k số không âm  sao cho  Ví dụ: Có bao nhiêu cách phân tích số 3 thành tổng của 2 số tự nhiên. Giải:  ­ Làm trực tiếp, tức là có bốn cách phân tích. ­ Theo quy tắc trên ta có và có  cách phân tích. Với một bộ  số   ta lại có một bài toán. Khi n,k càng lớn thì bài toán sẽ  càng phức tạp nếu không nắm chắc quy tắc này.  d) Bài tập tự luyện 18
  19. Bài 1. Cho phương trình ,  a) Số nghiệm của phương trình là bao nhiêu? b) Số nghiệm của phương trình là bao nhiêu? Với điều kiện , , ,   c) Số nghiệm của phương trình là bao nhiêu? Với điều kiện  đều chẵn. d) Số nghiệm của phương trình là bao nhiêu? Với điều kiện  e) Bất phương trình  có mấy nghiệm không âm? Hướng dẫn: Đặt  bằng hiệu  Bài 2. Tung n con xúc xắc giống hệt nhau. Ký hiệu  là số con xúc xắc xuất  hiện  chấm, . Mỗi kết quả ứng với bộ ().  Hỏi có bao nhiêu bộ số như vậy? Bài 3. Có bao nhiêu số tự nhiên  sao cho . + Dạng toán này hoàn toàn có thể sử  dụng để  đưa vào trắc nghiệm một  cách linh hoạt. ­ Đối với học sinh trung bình yếu: Bài 1: Có bao nhiêu cách phân tích 4 thành tổng 2 số tự nhiên: A. 5 B. 6 C. 4 D. 7 ­     Đối với học sinh khá giỏi: Bài 2: Có bao nhiêu cách phân tích số 16 thành tổng của 4 số tự nhiên:      A. 1820 B. 969 C. 4845 D. 3876 2.1.3. Quy tắc 3 a) Cung cấp công thức Xét bài toán phân hoạch: Có bao nhiêu cách sắp xếp  n  quả  cầu giống  nhau vào k hộp khác nhau sao cho mỗi hộp chứa ít nhất một quả cầu. Tức là tìm  số bộ số nguyên dương  sao cho . Số cách phân hoạch là:  b) Chứng minh công thức Nếu ta đặt k hộp sát bên nhau thì sẽ có tất cả  vách ngăn chung. Và bởi vì  để  thỏa mãn điều kiện mỗi hộp có ít nhất một quả  cầu nên ta hình dung theo  cách khác. Bây giờ chúng ta sẽ đặt  vách ngăn vào giữa các quả cầu. Bởi vì có  n  quả cầu nên sẽ có vị trí giữa các quả cầu.  Do đó sẽ có tất cả  cách sắp xếp (cách phân chia)      Từ  đây giải quyết được bài toán: Số  cách viết số  tự  nhiên n thành tổng  các số nguyên dương là . Thật vậy, ta phân tích n thành tổng của k số hạng và .  Khi số số cách tất cả là: 19
  20. Hoàn toàn tương tự như quy tắc 2 thì quy tắc 3 này sẽ  có những lợi ích   rất rõ ràng. Ứng với quy tắc này cũng sẽ có những bài toán đơn giản hoặc phức  tạp tùy thuộc vào độ lớn của n và k. Tôi lấy hai ví dụ minh họa cho qua tắc này. Bài toán 1: Cho phương trình .  Phương trình trên có tất cả bao nhiêu nghiệm nguyên dương?  Với bài toán này thì tôi xin trình bày lại một lời giải của học sinh lớp tôi: Ta thấy  Trường hợp  thì chúng ta sẽ  có  cách hoán đổi thứ  tự  của các số. Do đó ở  trường hợp này phương trình trên sẽ có 3 bộ nghiệm  Trường hợp  thì chúng ta sẽ có 3! cách hoán đổi thứ tự giữa các số. Do đó ở  trường hợp này phương trình trên sẽ có 6 bộ nghiệm . Trường hợp  thì chúng ta chỉ có một cách hoán đổi thứ  tự  giữa các số. Do   đó ở trường hợp này phương trình trên sẽ có 1 bộ nghiệm . Vậy phương trình đã cho có tất cả 10 bộ nghiệm . Sử  dụng quy tắc 3: Bài toán này ứng với  ta có ngay đáp án của bài toán là:  bộ  nghiệm. Với bài toán này thì đa số  học sinh nắm chắc kiến thức sách giáo khoa sẽ  giải quyết được. Nhưng khi tôi tăng con số lên: Bài toán 2: Có bao nhiêu bộ 15 số nguyên dương có tổng bằng 46? Ở  bài toán này thì không có một học sinh nào làm được. Do đó tôi thấy   việc cung cấp công thức này cho học sinh là một việc hết sức cần thiết. Đặc   biệt là học sinh khá giỏi, tôi tin chắc sẽ  có ích trong việc ôn tập và cũng thỏa   mãn được sự  ham học ham tìm hiểu của các em. Từ  đó tăng thêm sự  hứng thú   khám phá cho các em. Với quy tắc 3 bài toán này ứng với  ta có ngay đáp án của  bài toán là:  bộ số. c) Một số bài tập tự luyện Bài 1.  Có bao nhiêu cách phân tích số  10 thành tổng của các số  nguyên  dương? Bài 2. Có bao nhiêu cách chia 20 viên kẹo cho 10 em bé sao cho mỗi em bé  nhận được ít nhất một viên. Bài 3. Tìm số bộ nghiệm nguyên dương của phương trình:  Hướng dẫn: Đặt  Bài 5. Có bao nhiêu cách phân tích số 20 thành tổng 5 số nguyên dương? 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2