![](images/graphics/blank.gif)
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua bài 3 lớp 11 môn Giáo Dục Quốc Phòng – An ninh: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia
lượt xem 3
download
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/images/down16x21.png)
Đề tài nghiên cứu, thực nghiệm thành công và đúc rút từ kinh nghiệm có tính thực tiễn cao được triển khai trên hai cơ sở giáo dục. Đề tài đã kế thừa nhiều thành tựu trong nỗ lực giáo dục tư tưởng bảo vệ chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của HS qua giảng dạy bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia". Từ đó tìm ra một hướng đi mới trong việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này khi dạy học bài 3 lớp 11 môn GDQP - AN cho HS THPT.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua bài 3 lớp 11 môn Giáo Dục Quốc Phòng – An ninh: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NGUYỄN DUY TRINH TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRƯỜNG TỘ (HƯNG NGUYÊN) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: "KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA THÔNG QUA BÀI 3 LỚP 11 MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG AN NINH: BẢO VỆ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ VÀ BIÊN GIỚI QUỐC GIA" Người thực hiện: Trần Văn Mạnh Ngô Sỹ Thanh Thảo Lĩnh vực: Giáo dục Quốc phòng An ninh Số điện thoại: 0973.490.051 0349.148.226
- Năm học: 2020 2021 MỤC LỤC Trang 1 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài 2 2. Tính mới, đóng góp mới của đề tài 2 3. Mục đích, phạm vi, đối tượng, phương pháp và thời gian nghiên cứu 2 4. Các bước thực hiện đề tài 3 PHẦN II. NỘI DUNG 4 1. Cơ sở vấn đề nghiên cứu 4 1.1. Cơ sở lý luận 4 1.2. Cơ sở thực tiễn 7 1.2.1. Âm mưu của các thế lực thù địch nhằm muốn chiếm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa 7 1.2.2. Thực trạng dạy học bài 3 lớp 11 môn Giáo Dục Quốc Phòng: "Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia" ở một số trường THPT 9 2. Một số biện pháp giảng dạy bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia" góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa và 10 Trường Sa. 2.1. Vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy 10 2.2. Vận dụng các phương pháp dạy tích cực 13
- 3. Thực hành soạn giáo án bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia" góp phần khẳng định 2 Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam 17 4. Thực nghiệm sư phạm 26 4.1. Tiến hành thực nghiệm 26 4.2. Kết quả thực nghiệm 35 PHẦN III. KẾT LUẬN 38 1. Qúa trình nghiên cứu 38 2. Ý nghĩa của đề tài. 39 3. Phạm vi, đối tượng ứng dụng 39 4. Kiến nghị 39 TÀI LIỆU THAM KHẢO 41 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết thường Viết tắt Trung học phổ thông THPT Giáo dục Quốc phòng an ninh GDQP AN Sách giáo khoa SGK Sách giáo viên SGK Phương pháp dạy học PPDH Học sinh HS Giáo viên GV
- Phương pháp giáo dục PPGD Tình huống TH Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam CHXHCNVN Biên giới Quốc gia BGQG Trường Sa TS Hoàng Sa HS Cộng hòa nhân dân CHND. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận cấu thành chủ quyền quốc gia, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh, là tuyến phòng thủ hướng đông của đất nước, tạo khoảng không gian cần thiết giúp kiểm soát việc tiếp cận lãnh thổ trên đất liền. Việt Nam có hơn 3000 hòn đảo ven bờ và hai quần đảo ngoài khơi là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Luật Biển Việt Nam được kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 đã xác định rõ “Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa…thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam”. Tuy nhiên, việc tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên biển Đông đã, đang và sẽ diễn ra gay gắt. Chính vì vậy, bảo vệ chủ quyền trên 2 quần đảo HS và TS trở
- thành nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Trong đó, việc giáo dục ý thức, tư tưởng khẳng định và bảo vệ chủ quyền biển đảo được xem là công việc hàng đầu. Phó thủ tướng Vũ Đức Đam đã từng chia sẻ: “Mỗi công dân VN phải biết bảo vệ chủ quyền biển, đảo và lãnh thổ quốc gia trên cơ sở hiểu biết về luật pháp trong nước và quốc tế trên tinh thần hòa bình, không đe dọa vũ lực hay sử dụng vũ lực. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo và lãnh thổ đất nước là trách nhiệm chung của công dân VN, trong đó có học sinh. Dù còn ngồi ghế nhà trường, mỗi học sinh nên có ý thức và trách nhiệm, trước hết là hiểu rõ và thông suốt chủ trương, quan điểm của Đảng giải quyết vấn đề về biển, đảo và am hiểu luật pháp quốc tế. Khi đã tường tận, mỗi bạn trẻ cần tuyên truyền đến những người xung quanh để có chung nhận thức. Mỗi công dân nếu hiểu biết và ứng xử cho đúng thì quyền lợi quốc gia sẽ được đảm bảo, bảo vệ”. Để làm được điều này, nền giáo dục cần chú trọng nâng cao nhận thức cho học sinh về vai trò, trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo bằng nhiều hình thức và môn học; trong đó có môn học Giáo dục Quốc phòng – An ninh. Trên thực tế, bộ môn Giáo dục quốc phòng an ninh là nội dung học tập đặc thù trong các trường học nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tầm quan trọng của giáo dục quốc phòng – an ninh trong trường phổ thông là ở chỗ đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, tạo cho thế hệ trẻ có điều kiện tu dưỡng phẩm chất, rèn luyện năng lực, góp phần giáo dục thế hệ tương lai của đất nước có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường. Đặc biệt, nội dung môn học GDQP – AN giáo dục cho HS có nhận thức đầy đủ và đúng đắn nhất về bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biển, đảo Quốc Gia thông qua bài 3: Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia (GDQP AN lớp 11). Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc giảng dạy bài 3: "Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia" ở nhiều trường THPT còn mang tính "truyền thụ tri thức một chiều", dạy học vẫn còn nặng về truyền thụ kiến thức lý thuyết. Còn chưa chú trọng vào giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo của học sinh. Từ những lý do trên, chúng tôi đề xuất sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: "Khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua bài 3 lớp 11 môn Giáo Dục Quốc Phòng – An ninh: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia" với mục đích giúp các em học sinh nhận thức đúng đắn và rõ ràng về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo HS và TS tránh nhận thức sai lệch trước âm mưu của các thế lực thù địch. 2. Tính mới, đóng góp mới của đề tài 2.1. Tính mới của đề tài
- Đây là đề tài đã được nghiên cứu, thực nghiệm thành công và đúc rút từ kinh nghiệm có tính thực tiễn cao được triển khai trên hai cơ sở giáo dục. Đề tài đã kế thừa nhiều thành tựu trong nỗ lực giáo dục tư tưởng bảo vệ chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của HS qua giảng dạy bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia". Từ đó tìm ra một hướng đi mới trong việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này khi dạy học bài 3 lớp 11 môn GDQP AN cho HS THPT. 2.2. Đóng góp mới của đề tài Người Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi đã từng nói " lật thuyền cũng là dân, đẩy thuyền cũng là dân", do đó việc giáo dục tư tưởng cho người dân nói chung và thế hệ trẻ học sinh – tương lai của đất nước là vô cùng quan trọng. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài đã tìm ra những biện pháp giáo dục góp phần quan trọng trong việc xây dựng ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo cho học sinh. 3. Mục đích, phạm vi, đối tượng, phương pháp và thời gian nghiên cứu. 3.1. Mục đích nghiên cứu Thấy được vai trò, ý nghĩa của dạy học bài 3: Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia ( GDQP –AN lớp 11) trong khẳng định chủ quyền biển đảo trên 2 quần đảo HS và TS. Đề xuất các biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền của học sinh qua việc giảng dạy bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia. Phương pháp soạn giảng bài 3: Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia. 3.2. Phạm vi, đối tượng,thời gian nghiên cứu Phạm vi, đối tượng: Người viết nghiên cứu phương pháp giảng dạy bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia" góp phần khẳng định chủ quyền trên 2 Quần đảo HS và TS tại trường THPT Nguyễn Duy Trinh: lớp 11A3, 11A4; trường THPT Nguyễn Trường Tộ: lớp 11A1, 11A2 ở năm học 2020 2021. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09 năm 2020 đến tháng 3 năm 2021 3.3 Phương pháp nghiên cứu Phương pháp điều tra, phỏng vấn Phương pháp phân tích, khái quát hóa, hệ thống hóa Phương pháp thực nghiệm sư phạm…. 4. Các bước thực hiện đề tài Nghiên cứu tình hình chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hiện nay.
- Khảo sát thực tiễn giảng dạy môn học giáo dục Quốc phòng An ninh bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia" tại THPT Nguyễn Duy Trinh và trường THPT Nguyễn Trường Tộ Hưng Nguyên. Phương pháp: gặp gỡ và trao đổi với giáo viên, học sinh về kết quả nhận thức về chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo HS và TS qua việc giảng dạy ninh bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia". Tổng hợp kết quả điều tra và phân tích số liệu thu thập được để đưa ra kết luận về thực trạng của vấn đề nghiên cứu Đề xuất các biện pháp bản thân đúc rút được trong quá trình soạn giáo án và giảng dạy môn Giáo dục Quốc phòng An ninh ở trường THPT để soạn giáo án và giảng dạy bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia" góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo HS và TS. Sau khi soạn giáo án, tiến hành thực nghiệm tại các lớp đã chọn. Sau giảng dạy có tiến hành kiểm tra, đánh giá việc tiếp nhận và ứng dụng kiến thức của hoc sinh để thấy được kết quả của các em và đánh giá tính hiệu quả của đề tài. Phân tích kết quả sau khi đã tác động. Đưa ra kết luận về tính thiết thực, khả năng ứng dụng của đề tài nghiên cứu. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở vấn đề nghiên cứu 1.1. Cơ sở lý luận Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo ở ngoài khơi Việt Nam: quần đảo Hoàng Sa chỗ gần nhất cách đảo Ré, một đảo ven bờ của Việt Nam, khoảng 120 hải lý; cách Đà Nẵng khoảng 120 hải lý về phía Đông; quần đảo TS chỗ gần nhất cách Vịnh Cam Ranh khoảng 250 hải lý về phía Đông.
- Từ lâu nhân dân Việt Nam đã phát hiện quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo đó một cách thật sự, liên tục và hoà bình. Luật Biển Việt Nam được kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 đã xác định rõ “Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa…thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam”. Tuy nhiên, việc tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên biển Đông đã, đang và sẽ diễn ra gay gắt; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn…Trong số các chủ thể tranh chấp ở biển Đông, Trung Quốc là quốc gia có tham vọng lớn nhất. Tham vọng đó đã được các nhà lãnh đạo các thế hệ khác nhau từ Mao Trạch Đông đến nay, bằng những biện pháp và phương thức khác nhau thực hiện. Từ hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật, thành lập các đơn vị hành chính đến khẳng định trên thực địa, nhằm từng bước kiểm soát, khống chế tiến đến độc chiếm biển Đông, lấy biển Đông làm bàn đạp tiến ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương…Tình hình này đặt ra cho Việt Nam: một mặt, cần khai thác các chứng cứ lịch sử, pháp lý chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; nhưng mặt khác, cũng cần phải đấu tranh phản bác lại những quan điểm sai trái của phía Trung Quốc, kể cả quan điểm chính thức và quan điểm của học giả . Theo ý nghĩa đó, bài viết này sẽ tập trung phân tích những cơ sở lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngay từ thời xa xưa, các sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam như “Toản Tập Thiên Nam tứ chí Lộ Đồ Thư”, “Giáp Ngọ Bình Nam đồ”, “Phủ biên tạp lục”, “Đại Nam nhất thống toàn đồ”, “Đại Nam nhất thống chí” ghi chép rõ Bãi cát vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa (cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam. Với tư cách là người làm chủ, trong nhiều thế kỷ nhà nước phong kiến Việt Nam cũng đã nhiều lần tiến hành điều tra khảo sát địa hình và khai thác tài nguyên trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các sách địa lý và lịch sử của Việt Nam từ thế kỷ XVII đã ghi lại kết quả các cuộc khảo sát đó. Trong sách “Đại Nam Nhất thống trí (1882) có ghi: “Đảo Hoàng Sa: ở phía Đông Cù Lao Ré, huyện Bình Sơn. Từ bờ biển Sa Kỳ ra khơi thuận gió, ba bốn ngày đêm có thể đến. Ở đó có hơn 130 đảo nhỏ, cách nhau một ngày đường hoặc vài trống canh. Trong đảo có bãi cát vàng, liên tiếp kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Trường Sa. Trên bãi có giếng nước ngọt, chim biển tụ tập không biết cơ man nào. Sản xuất nhiều hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích… hóa vật của các tầu thuyền bị nạn trôi dạt ở đây”. Các sách thời Nguyễn như “Lịch triều hiến chương loại chí” (1821), “Hoàng Việt dư địa chí” (1833), Việt Sử Cương Giám Khảo Lược” (1876) cũng mô tả Hoàng Sa tương tự. Do đặc điểm của Hoàng Sa và Trường Sa có nhiều hải sản quý, lại có nhiều hóa vật
- của tầu bị đắm như trên đã nói, Nhà nước phong kiến Việt Nam từ lâu đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo này với tư cách một quốc gia làm chủ. Nhiều sách lịch sử và địa lý cổ của Việt Nam đã nói rõ tổ chức, phương thức hoạt động của các đội Hoàng Sa có nhiệm vụ khai thác đó. Kế tiếp các chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn phải liên tiếp đối phó với sự xâm lược của nhà Thanh và của Xiêm, tuy vậy vẫn luôn luôn quan tâm đến việc duy trì và sử dụng các đội Hoàng Sa. Nghĩa là nhà Tây Sơn, nhà nước vẫn tiếp tục tổ chức việc khai thác Hoàng Sa với ý thức thực hiện chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa. Từ khi nắm chính quyền từ năm 1802, đến khi ký kết với Pháp Hiệp ước 1884, các vua nhà Nguyễn ra sức củng cố chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đội Hoàng Sa, sau được tăng cường thêm đội Bắc Hải, được duy trì và hoạt động liên tục từ thời các chúa Nguyễn (1558 1783) đến nhà Tây Sơn (1786 1802) và nhà Nguyễn (1802 1945). Tóm lại, qua các sách lịch sử, địa lý cổ của Việt Nam, cũng như chứng cứ của nhiều nhà hàng hải, giáo sĩ phương Tây nói trên đã viết, đã khẳng định rằng: từ lâu, liên tục trong hàng mấy trăm năm, từ triều đại này đến triều đại khác, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự có mặt của các đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải do Nhà nước thành lập trên hai quần đảo đó, mỗi năm từ 5 đến 6 tháng để hoàn thành một nhiệm vụ do Nhà nước giao, tự nó đã là một bằng chứng hùng hồn, đanh thép về việc Nhà nước Việt Nam thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo đó. Việc chiếm hữu và khai thác đó của Việt Nam không bao giờ gặp phải sự phản đối của một quốc gia nào khác, điều đó càng chứng tỏ từ lâu quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã là lãnh thổ Việt Nam. Đến thời ký Pháp thuộc, suốt trong thời gian đại diện Việt Nam về mặt đối ngoại, Pháp luôn luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và phản kháng những hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo đó như: ngày 04/12/1931 và ngày 24/4/1932, Pháp phản kháng chính phủ Trung Quốc về việc chính quyền Quảng Đông lúc đó có ý định cho đấu thầu khai thác phân chim trên quần đảo Hoàng Sa. Ngày 24/7/1933, Pháp thông báo cho Nhật việc Pháp đưa quân ra đóng các đảo chính trong quần đảo Trường Sa. Ngày 04/4/1939, Pháp đã phản kháng Nhật đặt một số đảo trong quần đảo Trường Sa thuộc quyền tài phán của Nhật. Từ sau thế chiến thứ 2 cho đên nay, Việt Nam cũng đã nhiều lần khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đâỏ Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 26/01/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ, ngày 14/2/1974 tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam; xiii) tháng 9/1975, đoàn đại biểu chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại Hội nghị khí tượng Colombo tuyên bố quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam và yêu cầu Tổ chức Khí tượng Thế giới
- (WMO) tiếp tục ghi tên trạm khí tượng Hoàng Sa của Việt Nam trong danh mục trạm khí tượng của Tổ chức Khí tượng Thế giới (trước đây đã được đăng ký trong hệ thống các trạm của WMO dưới biển số 48.860; xiv) Về quản lý hành chính, năm 1982, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng. Sau này, khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện đảo Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa; xv) Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã nhiều lần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoặc trong các công hàm gửi các bên liên quan, trong các tuyên bố của Bộ Ngoại giao, trong các Hội nghị của Tổ chức Khí tượng Thế giới (ở Genève (tháng 6/1980), của Hội nghị Địa chất Thế giới ở Paris (tháng 7/1980) v.v. Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần công bố “Sách Trắng” (năm 1979, 1981, 1988) về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, khẳng định hai quần đảo này là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam, Việt Nam có đầy đủ chủ quyền đối với hai quần đảo này, phù hợp với các quy định của luật pháp và thực tiễn quốc tế, ngày 14/3/1988 Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam ra tuyên bố lên án Trung Quốc gây xung đột vũ trang tại Trường Sa và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, tháng 4/2007, Chính phủ Việt Nam quyết định thành lập thị trấn Trường Sa, xã Song Tử Tây và xã Sinh Tồn thuộc huyện Trường Sa (18); xvi) Luật Biển Việt Nam được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 đã xác định rõ “Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam” (19); xvii) ngày 02/5/2014, Trung Quốc ngang nhiên kéo giàn khoan Hải Dương 981 tới vị trí cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam 17 hải lý về phía Nam, cách đảo Lý Sơn của tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam khoảng 120 hải lý. Đây là vị trí nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo công ước luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982. Để bảo vệ giàn khoan HD 981, Trung Quốc đã huy động tới 80 tàu thuyền các loại, trong đó có 07 tàu quân sự, tàu tuần tiễu tên lửa tấn công nhanh 753, 33 tàu hải cảnh cùng nhiều tàu vận tải và ngư binh. Hằng ngày Trung Quốc còn điều động hàng chục tốp máy bay hoạt động trên bầu trời khu vực đó. Có thời điểm, số lượng tàu hộ tống của Trung Quốc lên tới hơn 100 chiếc. Ngày 05/5/2014, Việt Nam tổ chức họp báo, trong đó người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã khẳng định mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển của Việt Nam khi chưa được phép của Việt Nam đều là bất hợp pháp và vô giá trị. Ngày 15/5/2014, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình tuyên bố Việt Nam đã đưa công hàm phản đối Trung Quốc ra Liên Hợp Quốc. Ngày 20/5/2014 phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh Liên Hợp Quốc tại Genéva đã gửi thông báo đến Văn phòng Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới và các tổ chức quốc tế khác, cũng như các cơ quan báo chí có trụ sở tại Genéva, về sự kiện Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng chủ
- quyền Việt Nam tại Biển Đông. Trước tình hình đó, dư luận quốc tế đã lên án hành động xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, các nước như Mỹ, Nhật, Philippin, Ấn Độ, Indonesia đã lên án hành động bất chấp luật pháp quốc tế, gây mất ổn định và làm gia tăng căng thẳng trong khu vực của Bắc Kinh. Trước những sức ép ngày càng lớn từ dư luận trong nước và quốc tế, Trung Quốc không còn con đường nào khác, ngày 16/7/2014 đã phải rút giàn khoan phi pháp HD 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.(20); xix) Tháng 7/2019, Trung Quốc điều nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam, trong 3 tháng, đến ngày 25/10/2019, Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã lên tiếng về thông tin nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc đã rút khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Trong thông cáo phát đi chiều 25/10, người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao Lê Thị Thu Hằng nêu rõ: “Liên quan đến hoạt động của nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc, người phát ngôn của bộ ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng. Mọi hoạt động trong vùng biển Việt Nam được xác định theo công ước của LHQ về luật biển (UNCLOS) 1982, không được sự cho phép của Chính phủ Việt Nam đều là hành động xâm phạm chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. Việt Nam yêu cầu các bên liên quan tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam và không tái diễn vi phạm”. Trong khi đó, khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam, mà Trung Quốc gọi là “Bãi Vạn An” thực chất là bãi ngầm, là một phần của đáy biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác định phù hợp với UNCLOS 1982. “Đây hoàn toàn không phải là khu vực tranh chấp hay có chồng lấn, Trung Quốc không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào để đưa ra yêu cầu đối với khu vực này. UNCLOS 1982 và thực tiễn xét xử thời gian qua đã khẳng định rõ điều này”. Từ những cơ sở nêu trên, chúng ta có thể hoàn toàn khẳng định được chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo HSvà TS. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Âm mưu của các thế lực thù địch nhằm muốn chiếm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 1.2.1.1. Đối với quần đảo Hoàng Sa: Trung Quốc đã tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XX (năm 1909), mở đầu là sự kiện Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy 3 pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó phải rút lui vì sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp với tư cách là lực lượng được Chính quyền Pháp, đại diện cho nhà nước Việt Nam, giao nhiệm vụ bảo vệ, quản lý quần đảo này. Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận, chính quyền Trung Hoa Dân quốc đưa lực lượng ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo
- Hoàng Sa. Khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi khỏi Hoa lục, họ phải rút luôn số quân đang chiếm đóng ở quần đảo Hoàng Sa. Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương theo quy định của Hiệp định Giơnevơ và trong khi chính quyền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa, CHND Trung Hoa đã đưa quân ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Năm 1974, lợi dụng quân đội Việt Nam Cộng hòa đang trên đà sụp đổ, quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, CHND Trung Hoa lại huy động lực lượng quân đội ra xâm chiếm nhóm phía Tây Hoàng Sa đang do quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ. Mọi hành động xâm lược bằng vũ lực nói trên của CHND Trung Hoa đều gặp phải sự chống trả quyết liệt của quân đội Việt Nam Cộng hòa và đều bị Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, với tư cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế, đại diện cho Nhà nước Việt Nam quản lý phần lãnh thổ miền Nam Việt Nam theo quy định của Hiệp định Giơnevơ năm 1954, lên tiếng phản đối mạnh mẽ trên mặt trận đấu tranh ngoại giao và dư luận. 1.2.1.2. Đối với quần đảo Trường Sa: Trung Quốc: Đã tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa từ những năm 30 của thế kỷ trước, mở đầu bằng một công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi cho Bộ Ngoại giao Pháp khẳng định "các đảo Nam Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc". Năm 1946, quân đội Trung Hoa Dân quốc xâm chiếm đảo Ba Bình. Năm 1956, quân đội Đài Loan lại tái chiếm đảo Ba Bình. Năm 1988, CHND Trung Hoa huy động lực lượng đánh chiếm 6 vị trí, là những bãi cạn nằm về phía tây bắc Trường Sa ra sức xây dựng, nâng cấp, biến các bãi cạn này thành các điểm đóng quân kiên cố, như những pháo đài trên biển. Năm 1995, CHND Trung Hoa lại huy động quân đội đánh chiếm đá Vành Khăn, nằm về phía Đông Nam quần đảo Trường Sa. Hiện nay họ đang sử dụng sức mạnh để bao vây, chiếm đóng bãi cạn Cỏ Mây, nằm về phía Đông, gần với đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Như vậy, tổng số đá, bãi cạn mà phía Trung Quốc đã dùng sức mạnh để đánh chiếm ở quần đảo Trường Sa cho đến nay là 7 vị trí. Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình là đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa và mở rộng thêm 1 bãi cạn rạn san hô là bãi Bàn Than. Philíppin: Bắt đầu tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa bằng sự kiện Tổng thống Quirino tuyên bố rằng quần đảo Trường Sa phải thuộc về Philíppin vì nó ở gần Philíppin. Từ năm 1971 đến năm 1973, Philíppin đưa quân chiếm đóng 5 đảo; năm 1977 1978, chiếm thêm 2 đảo; năm 1979, công bố Sắc lệnh của Tổng thống Marcos
- ký ngày 11 tháng 6 năm 1979 gộp toàn bộ quần đảo Trường Sa, trừ đảo Trường Sa, vào trong một đơn vị hành chính, gọi là Kalayaan, thuộc lãnh thổ Philíppin. Năm 1980, Philíppin chiếm đóng thêm 1 đảo nữa nằm về phía Nam Trường Sa, đó là đảo Công Đo... Đến nay, Philippin chiếm đóng 9 đảo, trong đó có quần đảo Trường Sa. Mailaixia: Mở đầu bằng sự việc Sứ quán Mailaixia ở Sài Gòn, ngày 03 tháng 02 năm 1971, gửi Công hàm cho Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa hỏi rằng quần đảo Trường Sa hiện thời thuộc nước Cộng hòa Morac Songhrati Mead có thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa hay Việt Nam Cộng hòa có yêu sách đối với quần đảo đó không? Ngày 20 tháng 4 năm 1971, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa trả lời rằng quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, mọi xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở quần đảo này đều bị coi là vi phạm pháp luật quốc tế. Tháng 12 năm 1979, Chính phủ Mailaixia xuất bản bản đồ gộp vào lãnh thổ Mailaixia khu vực phía Nam Trường Sa, bao gồm đảo An Bang và Thuyền Chài đã từng do quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ. Năm 19831984, Mailaixia cho quân chiếm đóng 3 bãi ngầm ở phía Nam Trường Sa là Hoa Lau, Kiệu Ngựa, Kỳ Vân. Năm 1988, họ đóng thêm 2 bãi ngầm nữa là Én Đất và Thám Hiểm. Hiện nay, Malaixia đang chiếm giữ 5 đảo, đá, bãi cạn trong quần đảo Trường Sa. Brunây: Tuy được coi là một bên tranh chấp liên quan đến khu vực quần đảo Trường Sa, nhưng trong thực tế Brunây chưa chiếm đóng một vị trí cụ thể nào. Yêu sách của họ là ranh giới vùng biển và thềm lục địa được thể hiện trên bản đồ có phần chồng lấn lên khu vực phía Nam Trường Sa. 1.2.2. Thực trạng dạy học bài 3 lớp 11 môn Giáo Dục Quốc Phòng: "Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia" ở một số trường THPT. Môn học GDQP – AN từ khi được đưa vào giảng dạy ở các trường THPT cho đến nay, luôn đóng vai trò quan trọng; là môn học chính khóa trong giáo dục. Hầu hết các GV giảng dạy bộ môn đều đã được qua đào tạo chính quy hoặc ngắn hạn, có tâm huyết với môn học. Đặc biệt, nội dung môn học nói chung và bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia" nói riêng đều gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Nhận thức được điều đó, hầu hết các GV đều đã có sự lồng ghép để giáo dục ý thức cho HS. Tuy nhiên, hiện nay trong thực tế, sau nhiều năm giảng dạy nhiều thế hệ học sinh trường mình, tôi nhận thấy đa phần học sinh học tập một cách thụ động, đơn thuần là chỉ nhớ kiến thức một cách máy móc mà không rèn luyện kỹ năng tư duy. Với cách học truyền thống đã khiến tư duy của nhiều học sinh đi vào lối mòn, học sinh chỉ ghi chép thông tin bằng các dòng chử dài… với cách ghi chép này chúng ta không kích thích được sự phát triển của trí não, điều đó
- làm cho một số học sinh tuy học tập rất chăm chỉ nhưng sự tiếp thu vẫn hạn chế. Học sinh học phần nào biết phần đó, cô lập nội dung của các môn mà chưa nhận thấy sự liên hệ của kiến thức vì thế chưa phát triển được tư duy logic và tư duy hệ thống, việc vận dụng kiến thức vào các phần học tiếp theo và ứng dụng trong thực tiễn còn rất hạn chế.Và nội dung trong bài học này cũng không nhắc nhiều về vấn đề chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa. Đa số học sinh chưa hiểu nhiều về vấn đề chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia, nhất là chủ quyền biển đảo của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Chính vì lẽ đó, chúng tôi mạnh dạn đề xuất các biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ cho HS thông qua đề tài "Khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua bài 3 lớp 11 môn Giáo Dục Quốc Phòng: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia". 2. Một số biện pháp giảng dạy bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia" góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 2.1. Vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy. 2.1.1. Mục đích của vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia". Việc vận dụng các kiến thức liên môn vào giảng dạy bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia" góp phần trang bị cho học sinh các cơ sở kiến thức vững chắc về chủ quyền lãnh thổ, qua đó nâng cao ý thức bảo vệ lãnh thổ 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quá trình thực hiện phương pháp Sử dụng kiến thức liên môn để dạy học có hiệu quả, giáo viên sẽ đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, nhận xét, bổ sung và đánh giá học sinh, chứ không đơn thuần chỉ là người truyền đạt kiến thức giáo khoa một cách khô khan. Ngoài ra, với phương pháp Sử dụng kiến thức liên môn để dạy học đã và đang áp dụng cho nhiều môn học, có thể sử dụng rộng rãi ở nhiều trường học. 2.1.2. Vận dụng các kiến thức liên môn trong giảng dạy bài 3"Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia". Kiến thức môn Lịch sử Một trong nhứng môn học có kiến thức liên quan đến môn GDQP AN nói chung và bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia" nói riêng chính là môn Lịch sử. Để học sinh hiểu sâu sắc hơn và có các luận chứng rõ ràng về khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa GV cần lồng ghép vào bài giảng các kiến thức của môn lịch sử như bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam Lịch sử 10, bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV).
- Hoặc GV có thể đưa ra các thông tin tư liệu lịch sử chứng tỏ chủ quyền trên HS và TS. Học sinh vận dụng năng lực tư duy để đánh giá, nhận xét, bình luận… những sự kiện lịch sử mà các em được nghe giảng và thông qua các câu hỏi của giáo viên để thấy được vai trò của các nhà nước trong việc xây dựng và bảo vệ lãnh thổ. Kiến thức môn Địa lý. Bên cạnh Lịch sử thì Địa lý chính là môn học góp phần bổ sung các kiến thức cho HS trong việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ; cụ thể là ở bài 3 – tiết 3 Thực hành vẽ lược đồ, bài 42. Vấn đề phát triển kinh tế, anh ninh quốc phòng ở Biển Đông và các đảo, quần đảo. Bên cạnh đó, GV đưa ra các loại bản đồ như Đại Nam nhất thống bản đồ, An Nam đại quốc họa đồ, Hồng Đức bản đồ, bản đồ hàng hải Châu Âu thế kỷ XV – XVI, bản đồ hành chính Việt Nam....trong đó có quần đảo HS và TS cũng là cách khẳng định chủ quyền có hiệu quả (ảnh một số bản đồ được thể hiện ở phụ lục 1). Kiến thức môn Văn học. Văn học là bộ môn cực kỳ quan trọng trong việc giáo dục tình yêu của HS đối với quê hương, đất nước. Như bài thơ “Sông núi nước Nam” của Lý Thường Kiệt đặc biệt là câu thơ đầu, đã thể hiện được sự khẳng định về chủ quyền lãnh thổ, sự tự hào, hãnh diện, kính trọng và biết ơn công lao trời bể của các anh hùng nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung đối với việc bảo vệ lãnh thổ. Kiến thức môn Giáo dục Công dân Là bộ môn góp phần hoàn thiện, giáo dục con người, môn Giáo dục Công dân được vận dụng nhiều kiến thức trong việc giảng dạy bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lành thổ và biên giới Quốc Gia". Cụ thể, chúng tôi đã vận dụng mục 2 và mục 3 bài 14: Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc – GDCD lớp 10 để HS nhận thực rõ về vai trò của bản thân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Kiến thức môn Mỹ thuật. Để HS nhận thức rõ về việc khẳng định chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, GV có thể cho HS vẽ các bức tranh tuyên truyền bảo vệ chủ quyền Biển, đảo hoặc vẽ lược đồ Việt Nam. Chúng tôi đã tiến hành cho HS vẽ các bức tranh với nội dung tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo và đạt kết quả giáo dục rất cao. Dưới đây là một số kết quả hoạt động của học sinh:
- Kiến thức môn âm nhạc. Để giảm bớt tính khô khan trong quá trình dạy học, GV nên vận dụng các kiến thức âm nhac trong quá trình giảnh dạy. Ví dụ như ca khúc “Nơi đảo xa”, “Biển hát chiều nay”, “Đất mặn tình quê”, “Trường Sa trong tim ta”,“Bâng khuâng Trường Sa”, “Đêm tuần tra cùng sóng gió”, “Gần lắm Trường Sa”, “Trường Sa, lũy thép nơi đầu sóng”. Qua đó, gửi đến một thông điệp thiêng liêng: Hãy giữ gìn biển đảo Việt Nam bằng trái tim nóng bỏng, bằng ý chí kiên cường và tinh thần của một dân tộc yêu hòa bình. Tổ quốc kêu gọi những trái tim Việt Nam hãy cùng đồng lòng hướng về biển đảo thân yêu bằng những hành động thiết thực nhất, cổ vũ tinh thần để những người lính biển vững lòng trên mỗi con tàu, mỗi hòn đảo, giữ vững chủ quyền Tổ quốc. 2.2. Vận dụng các phương pháp dạy tích cực. Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn , được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy Trong bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia " có thể vận dụng một số phương pháp dạy học tich cực sau để góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa :
- 2.2.1. Phương pháp vấn đáp Trong hoạt động dạy học, vấn đáp (hỏi trả lời) là phương pháp sư phạm được khởi thủy từ nhà hiền triết nhà sư phạm Hi Lạp cổ đại Xocrast. Từ đó đến nay phương pháp này vẫn được sử dụng khá phổ biến với nhiều mức độ khác nhau. Trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Nhưng câu hỏi của giáo viên đặt ra trong hoạt động dạy học hoàn toàn khác với câu hỏi ở các lĩnh vực khác trong đời sống. Thường trong cuộc sống khi người ta hỏi nhau một điều gì đó thì điều ấy là điều người ta chưa biết, hoặc nếu biết còn lơ mơ, chưa rõ ràng. Trong hoạt động dạy học, giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi nhằm mục đích hướng dẫn học sinh tiếp cận, khám phá tri thức để rút ra những nhận thức khoa học mới mà các em chưa biết. Trong giảng dạy bài 3 "Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia" phương pháp này có thể được sử dụng ở các mục lãnh thổ Quốc gia và chủ quyền lãnh thổ Quốc Gia hoặc mục biên giới quốc gia. GV tổ chức hoạt động học tập, tạo điều kiện cho học sinh tham gia vào xây dựng nội dung bài học một cách tích cực. Từ đó từng cá nhân học sinh sẽ tự biến những kiến thức mình chưa có, chưa biết thành vốn riêng của bản thân. Đồng thời , GV cũng đánh giá được khả năng nhận thức của từng học sinh. Nói cách khác là giáo viên tạo được sự tranh luận nhiều chiều trong lớp học nhằm tăng khả năng tìm tòi, học hỏi sâu về một lĩnh vực, chủ đề, tăng phần nói của người học, giảm phần nói của người dạy. Nếu người học tham gia hỏi đáp, họ sẽ cùng suy nghĩ để tìm ra vấn đề và như vậy việc học sẽ tốt hơn cách học thụ động. Thông qua câu hỏi nêu ra tốt, giáo viên cũng có cơ hội để bổ sung thêm kiến thức cơ bản và kinh nghiệm sư phạm cho mình, giúp giáo viên nhìn nhận lại vấn đề, nội dung bài học một cách toàn diện, mới mẻ. Phương pháp này không những chỉ phát huy tích cực chủ động của học sinh mà còn thực hiện phương châm dạy học để thầy trò cùng được học và tiếp tục phát triển. Thông qua đó, giúp học sinh nhận thức được sâu sắc tư tưởng "Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam". 2.2.2. Phương pháp thảo luận nhóm GDQP AN là môn có nhiều ưu thế trong việc thảo luận nhóm khi giảng dạy. Không một nhà giáo dục nào phủ nhận vai trò, tác dụng của phương pháp này trong dạy học. Đây là một trong những phương pháp có sự tham gia tích cực của HS. Thảo luận nhóm còn là phương tiện học hỏi có tính dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp HS rèn luyện kĩ năng giải quyết các vấn đề khó khăn. Kinh nghiệm bản thân cho thấy nên chia nhóm trong đó có cả HS giỏi, khá, trung bình, yếu là tốt nhất. Số lượng HS giỏi, khá, trung bình, yếu giữa các nhóm phải bằng nhau để đảm bảo công bằng. Quy mô nhóm có thể lớn hoặc nhỏ tuỳ theo vấn đề thảo luận. Tuy nhiên, nhóm từ 4 6 HS là tốt nhất. Quy
- trình giảng dạy với thời gian một tiết (45 phút), GV tiến hành tuần tự các bước lên lớp theo quy định chung. GV nêu chủ đề cần thảo luận, chia nhóm vào thời điểm thích hợp của tiết học, giao câu hỏi cho các nhóm. Yêu cầu các nhóm thảo luận, quy định thời gian thảo luận và phân công vị trí ngồi thảo luận cho các nhóm. Các nhóm tiến hành thảo luận. Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận. Các nhóm khác lắng nghe, chất vấn, trao đổi bổ sung ý kiến. GV bổ sung nội dung mà HS trình bày còn thiếu cho hoàn thiện. GV đưa ra định hướng đúng những vấn đề HS cần nhớ sau khi thảo luận. HS ghi nhớ hoặc ghi chép nội dung chính của bài học vào vở. Qua việc dự giờ đồng nghiệp và giảng dạy, bản thân tôi thấy rằng: Thông thường, sau khi thảo luận xong, các nhóm thường cử một người thay mặt nhóm lên trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình và hầu hết đó đều là những HS khá, giỏi, có kĩ năng trình bày vấn đề khá tốt. Kết quả thảo luận được trình bày chủ yếu bằng hình thức viết lên giấy khổ lớn dán lên bảng. Đến đây, HS coi như “xong nhiệm vụ”. Đến phần giáo viên chữa bài của HS, vì tâm lý sợ HS trình bày rườm rà sẽ “cháy” giáo án, nên GV thường chữa bài của các em thật nhanh. GV chỉ chú ý xem các em viết được bao nhiêu phần trăm kiến thức và xem nhẹ cách các em thức trình bày vấn đề trên giấy, bỏ qua cả lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu và sự thiếu hợp lý của bố cục trình bày. Thậm chí, học sinh sẽ không có cơ hội được trình bày quan điểm cá nhân và như vậy sẽ không rèn được khả năng nói của mình. Để khắc phục tình trạng này, theo tôi, trong phần trình bày của HS, GV cũng cần phải quy định điểm số cho cả phần viết trình bày sơ đồ, bảng phụ (nếu có), và cho điểm cả cách thuyết trình của HS. GV cần tạo điều kiện cho tất cả thành viên trong nhóm được trình bày quan điểm, kể cả những người rụt rè e thẹn hay ngại trước đám đông, GV có thể yêu cầu HS đó đại diện trình bày ý kiến của nhóm mình. Thậm chí, qua sự quan sát của mình, nếu thấy học sinh nào chưa thực sự tập trung, giáo viên có thể yêu cầu chính em đó đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Về phần trình bày kết quả thảo luận. GV cần khuyến khích các em trình bày dưới nhiều hình thức như trình bày bằng lời; đóng vai; viết hoặc vẽ lên giấy khổ lớn; một người thay mặt nhóm trình bày, hoặc một người trình bày một ý tưởng… Trong quá trình HS trình bày, GV cần tập trung để điều chỉnh và sửa chữa cho các em để các em hoàn thiện được khả năng nói viết của mình. Trong giảng dạy bài "Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới Quốc Gia" phương pháp thảo luận nhóm có thể được sử dụng ở mục III. Bảo vệ biên giới Quốc gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt ở phần 1. Một số quan điểm của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ biên giới Quốc Gia. 2.2.3. Phương pháp trò chơi
![](images/graphics/blank.gif)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thiết kế và ứng dụng học liệu số trong nâng cao hứng thú và hiệu quả dạy học Lịch sử lớp 10 Bộ Cánh diều
49 p |
40 |
19
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh giải toán phần kim loại tác dụng với nước và dung dịch Bazơ trong ôn thi Đại học
15 p |
103 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phương pháp dạy học dự án trong dạy văn xuôi kháng chiến chống Pháp ở chương trình Ngữ văn lớp 12
54 p |
17 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn tại trường THPT Huỳnh Thúc Kháng
23 p |
28 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học chủ đề 3 Lịch sử địa phương: Nghệ An trong kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc -Lịch Sử 10-THPT
63 p |
9 |
4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm xây dựng và chuyển giao mô hình Văn hóa đọc 3 gốc ở trường THPT Huỳnh Thúc Kháng
76 p |
5 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát triển phẩm chất, năng lực học sinh khi dạy bài Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1950), lớp 12, Ban cơ bản
63 p |
32 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao công tác phát triển đảng trong học sinh ở trường trung học phổ thông Huỳnh Thúc Kháng
76 p |
9 |
2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Bài 20 Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954) – Lịch sử lớp 12 (Ban cơ bản)
70 p |
26 |
2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tìm hiểu truyền thống Lịch sử dân tộc và giáo dục tư tưởng đạo đức cách mạng thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp, học tập trải nghiệm ở trường THPT Quỳnh Lưu 2
67 p |
25 |
2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kinh nghiệm sử dụng phiếu học tập để nâng cao hiệu quả giảng dạy qua bài học lịch sử lớp 10 THPT
31 p |
29 |
2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học tại di sản Chùa Bái Đính - Mô hình lớp học không gian mở
95 p |
36 |
2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phương pháp Grap trong dạy học hóa học 10 nhằm rèn luyện tư duy cho học sinh THPT
14 p |
43 |
2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp chỉ đạo trong công tác bồi dưỡng Học sinh giỏi ở trường THPT Kim Sơn A, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
23 p |
33 |
2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đa dạng hóa hoạt động luyện tập trong dạy học thơ ca kháng chiến ở chương trình Ngữ văn 12
56 p |
4 |
2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp phát triển phong trào tập luyện môn Đá cầu trong trường trung học phổ thông Kim Sơn C- tỉnh Ninh Bình
11 p |
21 |
1
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng kiến thức liên môn Hóa-Sinh-CNNN hướng dẫn học sinh nghiên cứu bào chế dung dịch sát khuẩn đa năng từ tự nhiên sử dụng trong điều trị vết thương hở
29 p |
18 |
0
![](images/icons/closefanbox.gif)
![](images/icons/closefanbox.gif)
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/js/fancybox2/source/ajax_loader.gif)