intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua dạy học phân môn tiếng Việt 11 - THPT

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:64

25
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua dạy học phân môn tiếng Việt 11 - THPT" nhằm nắm được tình hình học tập và thực trạng giao tiếp của lớp 11 ở trường THPT Đặng Thúc Hứa; Trình bày hệ thống các cách thức rèn luyện kĩ năng giao tiếp tốt cho học sinh khi học phân môn tiếng Việt; Giúp GV và HS THPT nói chung, ở trường THPT Đặng Thúc Hứa nói riêng nâng cao được chất lượng dạy - học hiệu quả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua dạy học phân môn tiếng Việt 11 - THPT

  1. RÈN KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO HỌC SINH THÔNG QUA PHÂN MÔN TIẾNG VIỆT TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 11 – THPT Môn: Ngữ Văn
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆAN TRƯỜNG THPT ĐẶNG THÚC HỨA RÈN KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO HỌC SINH THÔNG QUA PHÂN MÔN TIẾNG VIỆT TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 11 – THPT Môn: Ngữ Văn Tác giả: Trần Quốc Dũng ĐT: 0972 060 168 Năm thực hiện: 2022 1
  3. MỤC LỤC Trang A. MỞ ÐẦU I. Lý do chọn đề tài 1 II. Mục đích và phạm vi nghiên cứu 1 1. Mục đích nghiên cứu 1 2. Pham vi đối tượng nghiên cứu 1 III. Phương pháp nghiên cứu 3 IV. Cấu trúc đề tài 3 B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI 4 1. Cơ sở lý luận 4 2. Cơ sở thực tiễn và thực trạng vấn đề nghiên cứu 5 II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO HỌC SINH 7 1. Rèn kĩ năng nghe – nói đọc viết 7 2. Rèn kỹ năng giao tiếp bằng các phương pháp, hình thức dạy học trong giờ tiếng Việt 12 3. Thiết kế bài học rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh 23 III. TRIÊN KHAI THỰC HIỆN 24 1. Mục đích thực hiện 24 2. Đối tượng thực hiện 24 3. Nội dung thực nghiệm 24 4. Cách thức thực nghiệm 24 5. Thiết kế giáo án đối chứng 25 6. Thiết kế giáo án thực nghiệm 27 7. Kết quả thực nghiệm 41 C. KẾT LUẬN 45 1. Đóng góp của đề tài 45 2. Kiến nghị 46 TÀI LIỆU THAM KHẢO 48 Phục lục 49 2
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết thường Viết tắt Giáo viên GV Học sinh HS Sách giáo viên SGV Sách giáo khoa SGK Trung học phổ thông THPT Điểm trung bình ĐTB Sáng kiến kinh nghiệm SKKN 3
  5. A. MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua dạy học tiếng việt là một trong những yêu cầu cần thiết trong đổi mới dạy học văn hiện nay. Bởi giao tiếp là một nhu cầu cơ bản của con người, có vai trò quan trọng trong các hoạt động của con người. Sự phát triển của xã hội hiện đại đòi hỏi con người phải có những kĩ năng giao tiếp cần thiết. Những kĩ năng này có thể được hình thành một cách tự giác hoặc tự phát trong cuộc sống trong hoạt động của mỗi người, tuy nhiên con người chỉ được trang bị một cách có hiệu quả những kĩ năng trên nếu được sống trong môi trường giáo dục phù hợp và mang tính khoa học. Đối với lứa tuổi học sinh Trung học phổ thông (THPT) giao tiếp là một hoạt động chủ đạo, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các em trong độ tuổi này. Việc hình thành và phát triển kĩ năng giao tiếp cho học sinh đang là vấn đề được quan tâm trong nhà trường hiện nay, bởi lẽ, nó góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông là hoàn thành phát triển năng lực và nhân cách toàn diện cho học sinh. Thực tế cho thấy, học sinh THPT nói chung và học sinh THPT ở miền núi nói riêng, do hạn chế về điều kiện sống, môi trường giao tiếp, môi trường giáo dục, do ảnh hưởng của một số nét tâm lý như tự ti, thiếu mạnh dạn, không chú trọng học tập môn Ngữ văn nói chung và phân môn tiếng Việt nói riêng nên có nhiều hạn chế nhất định như: kĩ năng diễn đạt, kĩ năng sử dụng phương tiện giao tiếp, kĩ năng làm chủ quá trình giao tiếp, kĩ năng đọc, nghe, nói, viết… Trong khi đó việc hình thành và phát triển kĩ năng giao tiếp cho học sinh của các giáo viên dạy học dạy học Ngữ văn nói chung và dạy phân môn tiếng Việt nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, kết quả giáo dục còn nhiều hạn chế, việc tổ chức các hoạt động giáo dục chưa thực sự có hiệu quả…. Vậy làm thế nào để học sinh phát huy được năng lực giao tiếp, nâng cao hiệu quả giờ dạy học phân môn tiếng Việt là một vấn đề cấp thiết. Trong những năm gần đây, đã có không ít những hội thảo chuyên môn, những tài liệu của các nhà giáo dục, các SKKN của GV biên soạn để hỗ trợ cho quá trình dạy học môn Ngữ văn cho học sinh THPT nói chung và phân môn tiếng Việt nói riêng. Tuy nhiên, nhiều tài liệu trong số đó đã viết cách đây khá lâu nên không còn phù hợp với xu thế thời đại, theo hướng mới của Bộ. Một số ít sách báo, SKKN hướng dẫn HS rèn kĩ năng giao tiếp nhưng chủ yếu nặng về kiến thức lí thuyết, nhiều tài liệu được viết với nội dung và cách thức giống nhau, chưa bám sát vào những khó khăn trên thực tế mà HS mắc phải để từ đó xây dựng những biện pháp phù hợp, hiệu quả cho các em. 1
  6. Từ đó, bản thân tôi nhận thấy việc rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh là điều hết sức cần thiết để các em đạt kết quả giao tiếp tốt nhất trong cuộc đời của mình. Khi thực hiện đề tài của mình, mục tiêu mà tôi hướng đến có nhiều điểm đồng điệu với các tài liệu của các tác giả cùng hướng nghiên cứu. Đó là mong muốn kết quả của đề tài sẽ góp phần giúp GV và HS THPT phát huy tốt nhất năng lực của mình. Tuy nhiên, điểm mới trong đề tài nghiên cứu của tôi là các kinh nghiệm được đúc rút từ quá trình giảng dạy trong một thời gian khá dài, được trình bày ngắn gọn nhưng đầy đủ. Tôi đã cố gắng hệ thống các biện pháp hướng dẫn HS rèn luyện kĩ năng đồng thời vận dụng được những kiến thức đã học từ phân môn tiếng Việt ứng dụng vào những tình huống của đời sống thực tế. Cách ghi nhớ kiến thức mà tôi đề xuất cũng tương đối đơn giản, dễ nhớ, dễ vận dụng nhưng vẫn đảm bảo hàm lượng kiến thức cần có. Bên cạnh việc hướng dẫn HS cách học từng dạng bài cụ thể, tôi còn hệ thống lại những lỗi sai mà các em thường mắc phải trong quá trình giao tiếp, từ đó, đề xuất cách sửa chữa các lỗi sai này cho các em. Đồng thời, các em sẽ có được những định hướng cụ thể và chi tiết nhất để nâng cao khả năng giao tiếp. Đặc biệt, đây sẽ là công trình hỗ trợ dạy học hiệu quả nhất, phù hợp với đối tượng học sinh trong trường THPT Đặng Thúc Hứa - nơi tôi đang trực tiếp giảng dạy. Chính từ thực tế trên, tôi mạnh dạn đem những hiểu biết và kinh nghiệm tích lũy được trong quá trình dạy học trình bày đề tài SKKN: “rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua dạy học phân môn tiếng Việt 11 - THPT”. Qua đó, tôi mong muốn đóng góp vào việc nâng cao chất lượng dạy - học môn học Ngữ văn, đáp ứng yêu cầu theo định hướng của chương trình giáo dục phổ thông mới. II. MỤC ĐÍCH, PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1. Mục đích nghiên cứu - Nắm được tình hình học tập và thực trạng giao tiếp của lớp 11 ở trường THPT Đặng Thúc Hứa - Trình bày hệ thống các cách thức rèn luyện kĩ năng giao tiếp tốt cho học sinh khi học phân môn tiếng Việt - Giúp GV và HS THPT nói chung, ở trường THPT Đặng Thúc Hứa nói riêng nâng cao được chất lượng dạy - học hiệu quả. 2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu - Dựa trên nghiên cứu kết quả học tập, kết quả giao tiếp của HS khối 11 trường THPT Đặng Thúc Hứa từ năm 2021 - 2022 để đề xuất những biện pháp hữu hiệu, phù hợp với đối tượng HS, giúp các em phát huy năng lực giao tiếp trong thời gian tới 2
  7. Khảo sát thực tiễn học tập và kết quả giao tiếp đầu năm của HS khối 11 ở mình tại ba trường THPT trên địa bàn huyện Thanh Chương, Tỉnh Nghệ An. Đó là: Các lớp 11A, 11B, 11C, 11D Trường THPT Đặng Thúc Hứa; Các lớp 11A 1, 11A6 Trường THPT Đặng Thai Mai; Các lớp 11C 1, 11C6 Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách . Bằng cách ra đề cho HS làm bài kiểm tra chất lượng khả năng vận dụng kiến thức tiếng Việt trong việc rèn kĩ năng giao tiếp của các em. Mục đích nhằm kiểm tra trình độ của HS tại các lớp được chọn để đối chứng và thực nghiệm. III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp phân tích, tổng hợp: dựa trên số liệu thông tin thu thập được để tổng hợp kết quả điều tra và phân tích số liệu đưa ra kết luận về thực trạng vấn đề và tính thiết thực, cần thiết của vấn đề nghiên cứu - Phương pháp điều tra, khảo sát: Nhằm phục vụ cho nghiên cứu đề tài tôi đã sử dụng phương pháp phỏng vấn bằng các cuộc nói chuyện dưới dạng hỏi đáp trực tiếp và lấy phiếu thăm dò của GV và HS lớp 11 về hiệu quả của việc rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho HS. - Phương pháp thống kê, so sánh: Đây là phương pháp được sử dụng thường xuyên trong đề tài bao gồm các văn bản, nghị định, nghị quyết về vấn đề giáo dục, ngoài ra còn có tài liệu tập huấn chuyên môn của Bộ, một số sách báo chuyên nghành của nhiều tác giả, một số trang web… nhằm thu thập thông tin số liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu, so sánh các đối tượng các số liệu với nhau để tìm ra nhận định đánh giá của bản thân về vấn đề nghiên cứu. Sản phẩm của việc xử lý này là hệ thống hóa bằng bảng số liệu - Phương pháp thực nghiệm sư phạm: được dùng khi có kết quả điều tra, quan sát các hiện tượng giáo dục. Để khẳng định kết quả của đề tài chúng tôi đã thực nghiệm sư phạm ở các lớp thực nghiệm và các lớp đối chứng. ở lớp thực nghiệm chúng tôi tiến hành theo phương pháp dạy học tích cực rèn kĩ năng giao tiếp cho HS, còn những lớp còn lại chúng tôi dạy học theo phương pháp bình thường. Sau đó chúng tôi tiến hành kiểm tra 15 phút cho hai lớp có hai phương pháp khác nhau và lấy đó làm cơ sở để đánh giá. Chính đó là kết quả để khẳng định hiệu quả của đề tài nghiên cứu. IV. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI Ngoài Mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, các phụ lục, đề tài tập trung một số vấn đề sau: 1. Cơ cở của đề tài: 2. Một số giải pháp của đề tài 3. Triển khai thực hiện 3
  8. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận 1.1. Kĩ năng giao tiếp và dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp Kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua phân môn tiếng Việt trong chương trình ngữ văn – THPT được thực hiện dựa theo yêu cầu đổi mới dạy học ngữ văn trong nhà trường phổ thông; thể hiện rõ nhất là yêu cầu chuyển từ dạy học nội dung sang dạy học phát triển năng lực. Từ việc coi nhẹ nói và nghe chuyển sang yêu cầu tập trung rèn luyện cho HS biết nói tự tin, rõ ràng, mạch lạc; biết nghe chính xác, có phản hồi linh hoạt phù hợp. Đây là yêu cầu mang tính đột phá của công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện theo Nghị quyết 29 của Đảng và Nghị quyết 88 của quốc hội. Trong đó nêu rõ Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn. Chương trình giáo dục 2018 đã xác định cần thay đổi cách dạy và cách học theo hướng chủ động tham gia kiến tạo nội dung kiến thức, vận dựng tri thức vào cuộc sống, chuyển từ PPDH theo lối “thầy đọc trò chép” sang dạy học vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất đồng thời cần đổi mới KTĐG để tạo nên bước đột phá cho hoạt động dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh. Việc đổi mới cách thức dạy học – kiểm tra đánh giá hiện nay theo hướng giúp HS chủ động vận dụng kiến thức, hiểu biết, tình cảm của mình vào quá trình giao tiếp cụ thể. Để đáp ứng nhu cầu trên việc dạy học môn Ngữ văn nói chung và phân môn tiếng Việt nói riêng cần có những điều chỉnh phù hợp. Chính vì vậy, để thực hiện các mục tiêu giáo dục cho học sinh THPT thì điều cần thiết là phải hình thành và phát triển ở các em kỹ năng giao tiếp. Dạy cho các em biết cách giao tiếp có hiệu quả chính là dạy cho các em biết cách nhận thức đúng đắn về mình, nhận biết về đối tượng giao tiếp, biết cách tiếp cận với đối tượng giao tiếp và biết bày tỏ thái độ, quan điểm của mình bằng lời nói, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt và bằng cả những việc làm khi cần thiết. Kỹ năng giao tiếp giúp cho học sinh biết cách giải quyết những tình huống trong cuộc sống hàng ngày, giúp các em nói những điều muốn nói, làm những việc nên làm, đồng thời biết lắng nghe và thấu hiểu người khác. Mặt khác kỹ năng giao tiếp nó không tồn tại độc lập mà nó có quan hệ mật thiết với kỹ năng tự nhận thức và các kỹ năng khác, thế nên rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho học sinh cũng chính là rèn luyện kỹ năng sống cho các em. 1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài này, đối với cá nhân tôi, đó vừa là một việc thuận lợi, đồng thời cũng là một thách thức. Bởi khi bàn về vấn đề Rèn kĩ năng giao tiếp cho HS thông qua dạy học phân môn tiếng Việt lớp 11 - THPT, trước đó cũng đã có tài liệu bao gồm các sách báo, bài viết trên Internet và những SKKN bày tỏ sự trăn trở về vấn đề này. Bản thân trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu đề 4
  9. tài cũng đã được kế thừa, học hỏi được những phương pháp, cách thức từ các nguồn tài liệu phong phú này. Về sách bàn về phương pháp dạy học tiếng Việt có thể kể đến các tài liệu như Kỉ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, (1196), (35 - 48) để giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống” của Nguyễn Minh Thuyết năm 2013; Phương pháp dạy học tiếng Việt nhìn từ tiểu học, NXB Giáo dục Việt Nam, của Hoàng Hòa Bình – Nguyễn Minh Thuyết (2012); Phương pháp dạy học tiếng Việt của Lê A, bài viết Định hướng đổi mới chương trình SGK giáo dục phổ thông năm 2018…. Các tài liệu này bàn về các phương pháp, cách thức dạy - học tiếng Việt đạt hiệu quả. Về SKKN trên lĩnh vực này không nhiều chỉ có một vài SKKN có liên quan. Trong đó có thể kể đến như Phát triển kĩ năng giao tiếp cho HS dân tộc thiểu số; Giáo dục năng lực giao tiếp và tinh thần hợp tác cho học sinh tiểu học khi dạy học kiến thức tiếng việt - Lê Phương Nga - ĐHSP Hà Nội 1; Rèn năng lực giao tiếp cho học sinh qua hai kĩ năng nói - viết trong dạy học tiếng việt (môn ngữ văn THPT)- Trần Thị thương – THPT Hoàng Mai; Phát triển kĩ năng giao tiếp cho HS lớp 2 trong dạy học môn tiếng Việt theo mô hình VNEN – Nguyễn Thị Thanh Thắm - Trường TH Nguyễn Văn Trỗi. ….Trên Internet cũng có một số bài báo bàn về kĩ năng giao tiếp như: Cẩm nang giáo dục Kĩ năng giao tiếp hiệu quả để thành công trên báo giáo dục thời đại, Một vài biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho HS; Một vài biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho HS qua môn tiếng Việt … Nhìn chung các SKKN hay bài viết này chủ yếu khai thác, khám phá ở một khía cạnh nào đó của vấn đề, hoặc là dành cho tiểu học, hoặc là kĩ năng giao tiếp thông thường, hoặc là một trong những yếu tố của kĩ năng giao tiếp… 2. Cơ sở thực tiễn và thực trạng vấn đề nghiên cứu Thực hiện đề tài Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua dạy học phân môn tiếng Việt 11 – THPT, tôi xuất phát từ hai cơ sở thực tiễn có giá trị. Đó là dựa trên đặc điểm của bài tiếng Việt trong chương trình và SGK Ngữ văn 11 - THPT hiện nay của Bộ GD & ĐT và thực tiễn bài làm, kết quả bài thi của HS 11. 2.1. Cơ sở thực tiễn Qua quan sát, dự giờ của các đồng nghiệp trong nhiều năm, tôi nhận thấy nhiều GV và HS chưa nhận thức được (hay không muốn thực hiện) dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp. Chưa nhận thấy ngôn ngữ vừa tồn tại trong trạng thái tĩnh như một hệ thống vừa cần phải hoạt động để thực hiện chức năng giao tiếp. Khi dạy tiếng Việt hầu như các GV chỉ yêu cầu học sinh lĩnh hội tri thức lí thuyết, yêu cầu HS hoàn thành hết bài tập đã cho trong SGK mà không chú ý rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Thậm chí nhiều giáo viên khi đến tiết tiếng Việt cũng chỉ dạy qua loa, hướng dẫn học sinh làm bài tập sơ lược, và không chú trọng việc rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho các em, Với mỗi bài học cụ thể, GV chưa giúp cho HS nhận ra “lợi ích” của rèn kĩ năng giao tiếp. HS chưa ý thức được lợi ích thiết thực của việc học tiếng Việt là giúp mình nói, viết tốt hơn, HS chưa cảm thấy có động lực để học hỏi, tham gia vào các hoạt động dạy học mà GV đặt ra. Chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học 5
  10. tiếng Việt là phát triển kỹ năng nên chưa có ý thức rèn luyện khả năng nghe - nói - đọc - viết của mình. Nhiều học sinh chỉ việc chép sách học tốt ngữ văn, lên ghi bảng, học đối phó. Hay tâm lý ngại giơ tay, ngại phát biểu trước đám đông, hoặc không muốn tạo lập văn bản, làm văn nghị luận vì sợ chữ xấu, sợ không đúng đặc điểm văn bản… Cũng có những HS yêu thích bộ môn có quan tâm đến việc học tiếng Việt để rèn kỹ năng giao tiếp nhưng gặp khó khăn vì không có điều kiện thực hành, sử dụng tiếng mẹ đẻ có kỹ thuật, không được hướng dẫn rèn luyện… Khảo sát thực trạng kĩ năng giao tiếp của HS các lớp 11: A, B, C, D Tổng số HS là: 161 Tổng số HS vắng là: 7 Tổng số phiếu phát ra là: 154 phiếu Tổng số phiếu thu vào là: 154 phiếu Tổng số phiếu sau khi sàng lọc là: 150 phiếu TT Lớp 11 Sĩ số Ghi chú 1 A 40 2 C 40 3 D 40 4 I 41 Tổng 161 Kết quả thu được Kĩ năng thành phần KN nói KN nghe KN diễn đạt KN trình bày KNGT VB ĐTB 3.40 3.12 3.73 2.89 3.28 ĐLC 0.97 0.89 1.05 0.98 0.81 Xếp loại TB TB Cao TB TB Từ bảng kết quả ta thấy kĩ năng giao tiếp của HS chỉ đạt mức trung bình điều này có nghĩa HS có kĩ năng giao tiếp nhưng vận dụng chưa cao.. 2.2. Thực trạng bài làm và kết quả bài thi của học sinh lớp 11 Một thực tiễn khác thôi thúc tôi thực hiện đề tài là dựa trên kết quả học tập môn Ngữ văn nói chung và phân môn tiếng Việt nói riêng của HS. Có một thực trạng là điểm thi và khả năng ứng dụng vào tình huống thực tiễn trong quá trình giao tiếp của HS trong cả nước, ở Nghệ An, và hẹp hơn là ở trường THPT Đặng Thúc Hứa còn chưa cao. 6
  11. Từ thực tế giao tiếp với HS, cũng như qua các phiếu thăm dò ý kiến, các bài kiểm tra, bài viết của các em, các thầy cô giáo đều có chung nhận xét: kĩ năng trình bày, diễn đạt của HS phần nhiều chưa tốt; có em có ý tưởng nhưng không biết trình bày, lúng túng khi diễn đạt, nói (viết) vụng về, sơ sài hoặc lập luận thiếu chặt chẽ, thiếu logic, khiến người nghe, người đọc khó nắm bắt được vấn đề các em muốn trình bày,… Bên cạnh đó, HS còn viết sai chính tả, viết bằng ký hiệu, sử dụng tiếng Anh xen lẫn tiếng Việt, câu cú dài dòng, cả bài không thấy sử dụng dấu chấm, phẩy… không biết phân chia đoạn văn, viết các văn bản sai về phong cách chức năng ngôn ngữ. Từ các kì thi, kiểm tra đánh giá học sinh, hầu hết đều dùng hình thức viết, và chỉ chú trọng vào kiểm tra kiến thức văn bản văn học, còn nặng về lí thuyết. Các bài kiểm tra, đánh giá thường quan tâm về nội dung nói (nói những gì) mà chưa quan tâm về cách nói (nói như thế nào). Xuất phát từ những cơ sở lí luận và thực tiễn trên, tôi nhận thấy việc rèn kĩ năng giao tiếp cho HS thông qua phân môn tiếng Việt là một việc làm rất cần thiết, tạo ra sự hứng thú trong việc học tập tiếng Việt của các em, hướng các em đến cách sử dụng ngôn ngữ nói, viết có hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu giao tiếp thực tiễn đáp ứng yêu cầu dạy và học trong tình hình mới, theo định hướng phát triển năng lực và chương trình đổi mới 2018. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO HỌC SINH. 1. Rèn các kĩ năng nghe – nói – đọc - viết 1.1. Rèn kĩ năng nói - nghe Rèn kĩ năng nghe – nói cho HS có vai trò hết sức quan trọng. Trước hết, nó góp phần giúp các em thực hiện học tập hiệu quả ở tất cả các môn học vì ngôn ngữ chính là công cụ của tư duy và bản chất của hoạt động dạy học chính là hoạt động giao tiếp. Bên cạnh đó, rèn luyện kĩ năng nghe – nói còn giúp HS phát trển năng lực giao tiếp, biết khai thác lợi thế, tiềm năng bản thân để giải quyết công việc và tham gia vào xã hội. Nghe – nói là một kĩ năng tổng hợp bao gồm nhiều bộ phận khác nhau. Trong chương trình Giáo dục phổ thông đề cập đến 5 kĩ năng nghe – nói bộ phận cần rèn luyện cho HS đó là: STT Kĩ năng nghe Kĩ năng nói 1 Nghe – trả lời câu hỏi Sử dụng nghi thức lời nói 2 Nghe – kể Đặt và trả lời câu hỏi 3 Nghe – trao đổi thảo luận Thuật việc kể chuyện 4 Nghe – viết chính tả Trao đổi, thảo luận 5 Nghe – ghi chép Phát biểu, thuyết trình 7
  12. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, kĩ năng nói không bao giờ tách rời kĩ năng nghe. Và khi DH rèn kĩ năng nói cho HS thì cũng đồng thời rèn kĩ năng nghe. Khác với bài luyện nói ở THCS, bài luyện nói ở THPT kết hợp nhiều mục đích, trong đó hướng tới việc góp phần chuẩn bị cho HS những kĩ năng cần thiết để gia nhập xã hội với tư cách là một công dân, một người lao động. Qua thực tế khảo sát ở trường nơi tôi đang công tác, cứ 100 HS yêu cầu phát biểu trước lớp, trước đông người thì có tới 80% HS không thể nói lưu loát được, thậm chí có những HS không biết nói câu gì khi được gọi đến. Bởi vậy rèn kĩ năng nghe - nói là biện pháp tốt nhất giúp rèn kĩ năng giao tiếp cho các em. Thực tế cho thấy những giờ luyện nói đối với GV và HS vừa mới vừa khó, lại không nằm trong nội dung ôn tập của những kì thi quan trọng, do đó cả GV và HS còn chưa quan tâm nhiều. Mặt khác theo gợi ý trong SGK hiện nay thì hoạt động luyện nói khá đơn điệu. Hầu hết chỉ xoay quanh các nhiệm vụ: lựa chọn một số gợi ý trong SGK để lập dàn ý; HS thực hành trong nhóm; một số HS trình bày trước lớp. Để giờ học sôi nổi và đạt hiệu quả tốt hơn. Thứ nhất là, tôi thiết kế đa dạng các bài tập luyện nói. Bên cạnh những bài tập quen thuộc trong SGK cần có những bài tập mới để HS phát huy tốt hơn khả năng sáng tạo của bản thân.Những dạng bài tập này nên mở cả nội dung và hình thức. Ví dụ với bài Phong cách ngôn ngữ chính luận, tôi cung cấp những bức hình về một vấn đề chính trị, xã hội hoặc yêu cầu nhóm HS tự vẽ/ sưu tầm; tập hợp những bức hình lại sẽ tạo thành một thông điệp nào đó. GV giao cho mỗi nhóm HS trình bày vấn đề mà em quan sát được từ những bức hình. Trong phần trình bày bên cạnh những yêu cầu về nội dung được gợi ra từ thông điệp, HS cần nêu được những quan điểm, suy nghĩ của mình, rút ra được những bài học kinh nghiệm từ thông điêp đó. Với từng nhóm HS, tôi lựa chọn những vấn đề, sự việc phù hợp với sở thích, mức độ quan tâm của các em. Thứ hai là mở rộng hơn nữa về nội dung luyện nói, bằng cách không giới hạn các nội dung gợi ý cho HS. Ngoài những vấn đề trong SGK tôi đưa thêm những vấn đề, sự việc mới mang tính thời sự, phù hợp hơn với đối tượng HS ở mỗi vùng miền, kéo gần hơn những chủ đề luyện nói đến với cuộc sống. Những bài tập luyện nói cần đưa các em vào tình huống thực để khơi gợi những cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ chân thành nhất từ HS, đó cũng là yếu tố khiến giờ luyện nói thêm sôi nổi, hào hứng. chẳng hạn, với bài Phong cách ngôn ngữ báo chí bên cạnh nội dung được gợi ý trong SGK, tôi định hướng như: nếu em là một phóng viên báo chí thì em sẽ lựa chọn thể loại nào? Quan tâm về vấn đề gì? Hãy trình bày phát biểu của mình trong khoảng 7 phút về vấn đề đó…. Thứ ba là cần có những chỉ dẫn cụ thể ở những mức dộ khác nhau dưới dạng rubric để giới thiệu hệ thống tiêu chí cần đạt đối với bài nói. Đây là một trong những điều quan trọng giúp GV và HS thuận lợi hơn trong quá trình thực hiện bài học. Những tiêu chí cần đạt đối với bài nói sẽ hướng tới hai phương diện: nội dung nói và cách nói, căn cứ vào việc thực hiện các yêu cầu: sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ; âm lượng nhịp điệu giọng nói; cách phát âm… dựa trên những tiêu chí này ta có thể xác định các mức độ phù hợp để hướng dẫn HS thự hiện nhiệm vụ nói. 8
  13. PHIẾU ĐÁNH GIÁ TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ (mức độ 5 là tốt nhất) Tiêu chí Hành vi Mức độ đạt được 1 2 3 4 5 1. Nói rõ ràng 1.1. Sử dụng giọng nói truyền cảm truyền cảm và dễ nghe 1.2. Nói lưu loát, phát âm chuẩn xác 1.3. Sử dụng âm điệu phù hợp 2. Nội dung 2.1. Các khía cạnh được trình bày theo phù hợp; có một trình tự logic, có sức thuyết phục mở đầu, phát triển, kết thúc 2.2. Trọng tâm bài trình bày được làm nổi bật 2.3. Sử dụng các tin hiệu tóm tắt chuyển tiếp ý các phần 2.4. Sử dụng, hợp lý hiệu quả các yếu tố nghệ thuật tạo sức thuyết phục 2.5. Phần kết thúc tạo ấn tượng tốt 3. Phát triển 3.1. Trình bày rõ ràng, dễ theo dõi các ý khi trình bày, phương 3.2. Sử dụng các phương pháp lập luận tiện hỗ trợ và dẫn chứng minh họa thích hợp 3.3. Phương tiện hỗ trợ thích hợp 4. Sử dụng 4.1. Ánh mắt, nét mặt phù hợp thể hiện các phương sự giao lưu tích cực tiện phi ngôn ngữ phù hợp 4.2. Sử dụng những cử chỉ tạo ấn tượng, thể hiện thái độ thân thiện 5. Lựa chọn 5.1. Lựa chọn ngôn ngữ thích hợp với ngôn từ phù chủ đề đối tượng, bối cảnh, mục đích hợp với mục nói đích cụ thể 5.2. Phát huy được sức mạnh cảu ngôn từ (có ý thức dùng các biện pháp nghệ thuật tu từ phù hợp) 5.3. Tránh các từ ngữ thể hiện định kiến hay thái độ tiêu cực Bên cạnh rèn kĩ năng nói, tôi chú ý tới việc rèn kĩ năng nghe. Tùy từng nội dung, yêu cầu cần đạt sẽ được cụ thể hóa. Nhưng nhìn chung khi nghe một văn bản, tôi đặt ra các yêu cầu sau đây để rèn luyện và đánh giá kĩ năng nghe của HS. 9
  14. Yêu cầu cần đạt Tiêu chí cụ thể 1. Nhận ra các ý tưởng - Phân biệt được các luận điểm chính từ các chi chính tiết cụ thể - Xác định được sự chuyển tiếp dẫn tới các mối quan hệ giữa các luận điềm chính 2. Nhận ra được mục đích - Thấy được mong muốn của người nói ở các điểm của người nói. nhấn của thông tin, ở thái độ của người nói được phản ánh bởi thông điệp bằng lời và không lời - nắm được cách tổ chức các luận điểm, thông tin được sử dụng - phân biệt giữa điều khẳng định đã được kiểm chứng và chưa kiểm chứng. - Phân biệt được tình cảm và lí lẽ của người nói thể hiện 3. lắng nghe với tư duy - xác định nội dung nhận thức và các khía cạnh phản biện. cảm xúc - diễn giải được các tín hiệu thông điệp - chỉ ra được ý nghĩa của tranh luận giữa diễn giả và thính giả 4. Đánh giá và kết luận - rút ra mối quan hệ giữa thông tin ban đầu và thông tin được cung cấp bơi người nói - rýt ra những suy luận có giá trị thông tin - đánh giá mức dộ tin cậy của thông tin Việc dạy nói cho HS cũng là một trong những trọng tâm quan trọng việc dạy học tiếng Việt. Mục đích là rèn cho HS có kĩ năng nói tiếng Việt tự tin thành thạo. chính vì thế khi tiến hành giờ dạy tôi giúp HS biết được mình nói cái gì (xác định đề tài), nói với ai (xác định giao tiếp), nói trong hoàn cảnh nào (xác định hoàn cảnh giao tiếp), nói để làm gì ( xác định mục đích giao tiếp), nói như thế nào (cách thức giao tiếp) để thuyết phục người nghe. Việc rèn luyện kĩ năng nói cho HS ở trường THPT hiện nay không đơn giản. Vì thế trong quá trình hướng dẫn luyện nói, tôi tạo ra những tình huống giả định tương đối gần gũi với cuộc sống hàng ngày của HS, để HS có thể nói về một vấn đề nào đó. Tôi tạo không khí hào hứng, thể hiện thái độ thân thiện. Ví dụ: khi dạy bài phong cách ngôn ngữ báo chí, tôi cho HS đóng vai phóng viên phỏng vấn một bạn HS trong lớp. Các em trong lớp theo dõi và đánh giá hoạt động đóng vai và cách diễn xuất của các bạn (dùng cử chỉ và ngôn ngữ, cách thực hiện lời thoại có lưu loát không? Đảm bảo nội dung chính của văn bản không?... 10
  15. Sau đó, tôi tiến hành thảo luận bằng phương pháp khăn trải bàn với những câu hỏi mang tính định hướng : Câu 1: Chú ý, tập trung và lắng nghe có quan trọng trong giao tiếp không? Vì sao? Câu 2: Khi giao tiếp có cần chú ý đến lượt lời không? Câu 3: Khi giao tiếp có cần nói đúng mục đích không? Câu 4: Việc lựa chọn trật tự từ trong câu và cách đặt câu (phù hợp với ngữ cảnh và t́nh huống ) có tác dụng ǵ trong quá tŕnh giao tiếp? Câu 5: Nội dung thông tin truyền đạt trong giao tiếp cần đảm bảo những điều kiện nào? Câu 6: Cần duy trì việc sử dụng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ cử chỉ không? Vì sao? Câu 7: Cần có khả năng phát âm đúng chính không? Câu 8: Để giao tiếp thành công và đặt hiệu quả như mong muốn em cần có những kỹ năng nào khi thực hiện hoạt động giao tiếp? Khi dạy bài Thực hành về nghĩa của từ trong sử dụng (SGK Ngữ văn 11 tập 1), giáo viên có thể bắt đầu bài học bằng một tình huống giao tiếp giữa hai người bạn trong một cuộc hội thoại ngắn, trong đó các lời thoại có lỗi dùng từ. Sau đó để HS nhận ra và sửa chữa. Từ đó HS sẽ thấy được lợi ích của việc lựa chọn đúng từ trong sử dụng có ý nghĩa như thế nào. Sau đó rút kinh nghiệm dựa trên những định hướng cụ thể về tiêu chí đánh giá mà tôi cung cấp (Phiếu đánh giá sẽ được in ở phần phụ lục). khi đánh giá cần tìm những ưu điểm, biểu hiện tiến bộ dù rất nhỏ để khuyến khích HS và nhấn mạnh lưu ý để HS có thể thực hiện tốt hơn nhiệm vụ nói - nghe. 1.2 Rèn kĩ năng đọc - viết. Cần chú ý đến yêu cầu hiểu nội dung, chủ đề của văn bản, xác định đặc điểm thuộc về phương thức thể hiện. một số phương pháp, biện pháp dạy đọc văn bản, đồng thời phát triển kĩ năng đọc cho HS: Đọc diễn cảm, đọc phân vai, kể chuyện, đóng vai để giải quyết một tình huống, tổ chức thuyết trình về một vấn đề, thảo luận tranh luận về vấn đề cuộc sống do văn bản gợi lên. Khi dạy học tiếng việt để rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh, tôi sử dụng các kĩ thuật trình bày một phút, hệ thống câu hỏi trong bài học đáp ứng yêu cầu phát triển ngôn ngữ của HS. Giúp HS biết đọc văn bản trong mối quan hệ đa chiều với thế giới được biểu hiện trong đó. Cũng có thể dùng kĩ thuật KWL… Đa phần HS đều yếu trong kĩ năng viết: hành văn lẫn lộn, dùng từ tối nghĩa, câu văn thiếu ý, sắp xếp các bộ phận trong câu, lựa chọn trật tự câu chưa chặt chẽ, chưa kết nối các câu, đoạn trong giao tiếp bằng những phương tiện ngôn ngữ (từ, câu) thích hợp, sử dụng ngôn ngữ chưa phù hợp phong cách… Khi dạy HS viết bài hay đoạn văn thường hướng dẫn hs luyện tập huy động và sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp và có hiệu quả 11
  16. Từ thực trạng trên tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm 2021 - 2022 và kiểm tra ở 4 lớp 11 A, B, C, D trường THPT Đặng Thúc Hứa kết quả như sau: Khảo sát chất lượng năm học 2021 -2022, tổng số 161 HS Điểm Dưới 5 5 – 6.5 7 – 8.5 9 -10 Số HS 37 52 36 Tỉ lệ 43.6 52.8 3.6 0 Như vậy, kết quả HS khá, giỏi đạt 3.6% Trung bình 52.8 % Yếu 43.6 % Qua đề kiểm tra ngắn với đề bài: Thay thế thành ngữ trong những câu sau bằng các từ ngữ thông thường tương đương về nghĩa. Nhận xét sự khác biệt và hiệu quả của mỗi cách diễn đạt. a. Này các cậu đừng có mà ma cũ bắt nạt ma mới. cậu ấy vừa mới chân ướt chân ráo đến, mình phải tìm cách giúp đỡ chứ. b. Họ không đi tham quan, không đi thực tế kiểu cưỡi ngựa xem hoa mà đi chiến đấu thực sự, đi làm nhiệm vụ của những chiến sĩ bình thường. Từ kết quả trên cho thấy khả năng vận dụng kiến thức và viết bài của các em còn thấp. vì thế tôi đã rèn luyện kĩ năng viết chú trọng ở nhiều tầng bậc: kĩ năng dùng từ, đặt câu khi viết, kĩ năng lập dàn ý, kĩ năng viết đoạn, viết văn bản hoàn chỉnh. Ví dụ, trước khi dạy bài Phong cách ngôn ngữ hành chính cho HS lớp 12, GV có thể yêu cầu HS thử tự tạo lập một văn bản “Đơn xin nghi học”, “Đơn xin học nghề”. Quan sát, đánh giá và chỉ ra lỗi sai trong cách tạo lập văn bản không đúng phong cách ngôn ngữ của HS. Từ đó, GV cùng HS khám phá nội dung bài học và hướng dẫn HS tập tạo lập văn bản hành chính đúng hình thức yêu cầu. Từ đó, các em sẽ nhận ra được giá trị của bài học với đời sống thực tiễn. Khi dạy các bài phong cách học tiếng Việt, giáo viên có thể đưa ra các văn bản có lỗi về đặc trưng phong cách và yêu cầu HS chỉ ra sự bất hợp lí của văn bản. Từ đó tiến tới khẳng định vai trò của việc nắm vững đặc trưng về phong cách ngôn ngữ trong việc tạo lập các văn bản thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống. 2. Rèn kĩ năng giao tiếp bằng các phương pháp, hình thức dạy học giao tiếp trong giờ tiếng Việt. Việc lựa chọn các phương pháp, kĩ thuật dạy học để rèn kĩ năng giao tiếp cho HS cần dựa trên các cơ sở sau: mục tiêu của bài học; nội dung bài học; thời lượng bài học; điều kiện và phương tiện thiết bị dạy học… do đó ở từng nội dung học cần vận dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học một cách phù hợp, nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp cho HS. Sau đây là một vài phương pháp, kĩ thuật dạy học mà tôi đã áp dụng trong quá trình dạy học và đạt hiệu quả giao tiếp cao. 12
  17. 2.1. Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm (dạy học hợp tác) trong dạy học phân môn tiếng Việt. Phương pháp này khá thích hợp với những kiểu bài thực hành làm bài tập, các bài tiếng Việt cần trình bày quan điểm. Đây là một trong những phương pháp có sự tham gia tích cực của HS. Nhưng bản thân tôi đã chứng kiến rất nhiều trường hợp hoạt động nhóm chưa hiệu quả: các nhóm thường cử một người thay mặt nhóm lên trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình và hầu hết đó đều là những HS khá, giỏi, có kĩ năng trình bày vấn đề khá tốt. GV khi chữa bài cho HS chỉ chú ý xem các em viết được bao nhiêu phần trăm kiến thức và xem nhẹ cách các em thức trình bày vấn đề trên giấy, bỏ qua cả lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu và sự thiếu hợp lý của bố cục trình bày. Không nhận xét khả năng diễn đạt… Vì thế không rèn được kĩ năng nói - viết của HS. Mục đích: Giúp HS hợp tác với nhau, bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp HS rèn luyện kĩ năng giải quyết các vấn đề khó khăn. Thông qua đó để rèn kỹ năng giao tiếp cho các em. Cách thức tiến hành: Để rèn kĩ năng giao tiếp cho HS khi dạy học theo nhóm, tôi thường chia nhóm trong đó có cả HS giỏi, khá, trung bình, yếu. Số lượng HS giỏi, khá, trung bình, yếu giữa các nhóm phải bằng nhau để đảm bảo công bằng. Quy mô nhóm có thể lớn hoặc nhỏ tuỳ theo vấn đề thảo luận, tuy nhiên, nhóm từ 4 - 6 HS là tốt nhất. Chia nhóm vào thời điểm thích hợp của tiết học. GV nêu chủ đề cần thảo luận, quy định thời gian thảo luận và phân công vị trí ngồi thảo luận cho các nhóm. giao câu hỏi cho các nhóm. Yêu cầu các nhóm thảo luận, Các nhóm tiến hành thảo luận. GV theo dõi, trợ giúp các nhóm. Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận. Các nhóm khác lắng nghe, chất vấn, trao đổi bổ sung ý kiến. GV bổ sung nội dung mà HS trình bày còn thiếu cho hoàn thiện. GV đưa ra định hướng đúng những vấn đề HS cần nhớ sau khi thảo luận. HS ghi nhớ hoặc ghi chép nội dung chính của bài học vào vở. Bên cạnh đó, trong phần trình bày của HS, tôi quy định điểm số cho cả phần viết trình bày sơ đồ, bảng phụ (nếu có), và cho điểm cả cách thuyết trình của HS. tôi tạo điều kiện cho tất cả thành viên trong nhóm được trình bày quan điểm, kể cả những người rụt rè e thẹn hay ngại trước đám đông, tôi thường yêu cầu HS đó đại diện trình bày ý kiến của nhóm mình. Thậm chí, qua sự quan sát của mình, nếu thấy học sinh nào chưa thực sự tập trung, tôi yêu cầu chính em đó đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Về phần trình bày kết quả thảo luận, tôi khuyến khích các em trình bày dưới nhiều hình thức như trình bày bằng lời, đóng vai, viết hoặc vẽ lên giấy khổ lớn, một người thay mặt nhóm trình bày, hoặc một người trình bày một ý tưởng… Trong quá trình HS trình bày, GV cần tập trung để điều chỉnh và sửa chữa cho các em để các em hoàn thiện được khả năng nói - viết của mình. Một kinh nghiệm nữa để sử dụng phương pháp này hiệu quả nhằm rèn kỹ năng giao tiếp cho HS là, nên dành một thời giờ thích đáng cho việc thảo luận nhóm và để học sinh có cơ hội trình bày quan điểm cá nhân. Để giúp HS mài sắc năng lực 13
  18. tư duy và sử dụng ngôn ngữ, trong khi sử dụng phương pháp này, tôi sử dụng thêm phương pháp phản ứng nhanh và xử lý tình huống. Đừng để phương pháp thảo luận chỉ còn là hình thức vì không đủ thời gian cần thiết để hoàn thành. Ví dụ khi dạy bài Nghĩa của câu Phần Hai thành phần nghĩa của câu là nghĩa sự việc và nghĩa tình thái: tôi dạy theo tiến trình bài học, bắt đầu từ VD đến nội dung bài học. Sau đó, tôi dành nhiều thời gian cho HS luyện tập phát triển khả năng nói, viết. Hình thức luyện tập thì tôi chia nhóm HS thảo luận ba bài luyện tập. Hết thời gian thảo luận, tôi gọi HS lên bảng giải bài tập và thuyết minh cho bài làm của mình (quan trọng là phần thuyết minh, HS có hiểu mới lý giải cho các bạn hiểu). Tôi gọi HS khác nhận xét. Cuối cùng, là mình nhận xét, đánh giá bài làm của HS. Sau đó tôi cho bài tập khác (có thể là mẫu chuyện hoặc mẫu đối thoại trong giao tiếp) yêu cầu HS phân tích hai thành phần nghĩa của câu (cho điểm khi có HS giải đúng). Phần Luyện tập: tôi chia nhóm HS thảo luận bốn bài luyện tập. Hết thời gian thảo luận, HS lên bảng giải bài tập và thuyết minh cho bài làm của mình. Lưu ý : Bài tập 4 – đây là bài tập thể hiện kĩ năng đặt câu của HS. Khi dạy các GV cần lưu ý các câu mà HS đã đặt có đúng ngữ pháp và có ý nghĩa hay không. Khuyến khích và cho điểm HS đặt được một đoạn văn có sử dụng các từ tình thái đã cho (yêu cầu này đòi hỏi HS không những đặt câu có sử dụng từ tình thái đã cho theo cùng một chủ đề mà còn phải liên kết các câu lại thành một đoạn có ý nghĩa). Sau đó, gọi vài HS phát biểu suy nghĩ của các em về vai trò, tác dụng của nghĩa tình thái trong giao tiếp. Nếu HS chưa nhận ra, thì có thể chỉ cho các em biết lợi ích của việc nắm vững nghĩa tình thái trong giao tiếp (người nói thể hiện đúng mực thái độ của mình, người nghe tiếp nhận cảm thấy thoải mái; đồng thời người nói có thể nắm bắt được thái độ, tình cảm của người nghe đối với mình từ đó mà có cách cư xử phù hợp … ) và cho VD từ tình huống giao tiếp cụ thể để minh họa (nếu chưa hết thời gian của tiết học). 2.2. Phương pháp ứng dụng Mục đích: Dạy học tiếng Việt theo phương pháp ứng dụng chính là dạy cho HS cách tổ chức giao tiếp bằng ngôn ngữ một cách hiệu quả trong những tình huống điển hình và những tình huống cụ thể. Đây là phương pháp chủ yếu để phát triển lời nói cho HS. Tôi thường sử dụng phương pháp này bằng cách: nêu câu hỏi, đưa ra tình huống thực hành cụ thể. HS suy nghĩ, dựa vào hoàn cảnh giao tiếp để giải quyết vấn đề. Tôi khuyến khích HS suy nghĩ, trình bày tích cực. Cả lớp lắng nghe, lựa chọn cách giải quyết tình huống tốt nhất. Tôi định hướng HS bình xét. Sau đó nhận xét, đánh giá chung Ví dụ: Trong quá trình giảng dạy bài Ngữ cảnh (SGK Ngữ văn 11 tập 1), tôi dùng hình ảnh “một chàng trai đang quỳ trước mặt một cô gái”, rồi yêu cầu HS đặt câu phù hợp với ngữ cảnh đã cho. Các HS suy nghĩ nhanh và đặt câu; GV ghi lại các câu của HS lên bảng (ghi luôn những câu sai ngữ pháp do HS đặt). Sau đó, Tôi cùng HS phân tích các câu vừa được đặt, nhận xét cách đặt câu và sự phù hợp 14
  19. của tình huống với các câu đặt ra; cuối cùng chọn ra câu đúng với yêu cầu, phù hợp với hoàn cảnh và đồng thời chỉ ra lỗi của các câu sai. Hoặc cho tình huống: Nếu đột nhiên nghe được câu nói: “Cháy hết rồi”, em sẽ có những cách hiểu như thế nào? Dựng đoạn hội thoại phù hợp với bối cảnh mà các em đã xác định. HS đưa vào tình huống cụ thể để hội thoại phù hợp với cách hiểu. Từ đó đặt ra câu hỏi để HS rút ra vai trò quan trọng của ngữ cảnh trong quá trình tạo lập, lĩnh hội lời nói, giúp lời nói đạt được tính hướng đích. Hoặc các tình huống thực tiễn có ý nghĩa: hai bạn HS đang trao đổi nhau về bộ phim/ trận đá bóng vừa xem; cô giáo chủ nhiệm đến thăm một HS bị ốm; em muốn đi dự sinh nhật người bạn thân nhưng hôm đó trời mưa nên bố mẹ em băn khoăn không muốn em đi… HS có thể chuẩn bị dưới hình thức đóng vai, diễn kịch dựa vào nội dung được gợi ra từ tình huống. Ví dụ. Khi dạy bài Nghĩa của câu, Gv đặt HS vào tình huống Tuấn: mình hôm nay được 10 điểm ấy. Hương ạ Hương:…….. Hãy thử liệt kê tất cả các câu đáp lại của Hương về câu nói của Tuấn có sử dụng các nghĩa tình thái khác nhau. GV yêu cầu HS viết câu hỏi và câu trả lời vào giấy nhỏ, sau đó thu lại và chọn 5 mẫu đối thoại để phân tích, phân tích cả câu sai. GV giúp HS phân tích những câu trả lời dựa vào những tiêu chí sau: - Sự việc trong câu là gì? - Người nói trong câu có thái độ gì? - Yếu tố nào thể hiện những thái độ đó? - Nghĩa tình thái trong câu là gì? GV chốt lại vấn đề: Nghĩa tình thái thể hiện thái độ và sự đánh giá của người nói đối với sự việc được nói đến trong câu hoặc đối với người đối thoại: nghĩa tình thái hướng về sự việc, nghĩa tình thái hướng về người đối thoại. Ngoài việc ứng dụng trong các tình huống giao tiếp ở dạng nói thì GV có thể đưa ra những bài tập mang tính ứng dụng những lý thuyết được học bằng hệ thống bài tập viết đoạn văn, bài văn có sử dụng các kiểu câu đã học. Điều này giúp HS rèn luyện kỹ năng giao tiếp ở dạng viết. Trong cuộc sống sinh hoạt, học tập hàng ngày, chúng ta thường tiếp xúc với những tình huống giao tiếp bất ngờ, không được chuẩn bị sẵn. Trong hoàn cảnh đó, chúng ta phải tự mình dùng những kinh nghiệm và kiến thức về ngôn ngữ để giải quyết vấn đề. Chính vì vậy, việc dạy học tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp như thế này chính là cách hữu hiệu để rèn kĩ năng giao tiếp cho HS. 2.3. Phương pháp tổ chức trò chơi Hình thức dạy học vừa chơi vừa học tiếng Việt là dạy học bằng trò chơi, chơi là hình thức còn học là mục đích. Đây là hình thức dạy học có khả năng hấp 15
  20. dẫn, cuốn hút sự tham gia, sự tập trung của HS, đem lại hiệu quả nhất định bởi “biết mà học không bằng vui mà học” (Khổng Tử). Hình thức dạy học này có thể được áp dụng ở đầu tiết học để tập trung sự chú ý của HS, từ đó tạo không khí sinh động cho lớp học, tạo hứng thú học tập cho các em, dẫn dắt HS đến với nội dung bài học. 2.3.1. Trò chơi “Thi tìm từ nhanh”: Mục đích: giúp các em nhận biết nhanh các từ ngữ phục vụ cho bài học và làm giàu thêm vốn từ cho các em, luyện trí thông minh và tác phong nhanh nhẹn khi trình bày. Chuẩn bị: Làm một số bìa nhỏ có ghi các từ ngữ phục vụ nội dung bài học hay sử dụng tivi, màn chiếu chiếu các từ ngữ phục vụ nội dung. Cách tổ chức chơi: chọn 2 đội, mỗi đội 2 em cùng tham gia trò chơi. Bắt trò chơi GV gắn yêu cầu cần tìm lên bảng, 2 nhóm nhanh chóng tìm từ GV đã cho sẵn, gắn lên bảng khi có hiệu lệnh hết giờ, 2 nhóm dừng trò chơi, nhóm nào tìm được nhiều từ hơn, chính xác hơn là đội thắng cuộc. Giáo viên có thể cho học sinh thi tìm từ theo một số câu cho sẵn. Sau khi học sinh được quan sát, trao đổi, học sinh tìm được các từ nêu về đặc điểm, của các thành ngữ, điển cố thông qua hệ thống câu hỏi, hình ảnh tĩnh, động, qua đoạn phim mà giáo viên đã sưu tầm được. Ví dụ: dạy bài Thực hành về thành ngữ, điển cố, tôi tổ chức trò chơi: nhận diện thành ngữ, điển cố được sử dụng trong ngữ liệu cụ thể; sử dụng thành ngữ, điển cố phù hợp với mục đích nói, viết để tăng hiệu quả giao tiếp…. PHIẾU BÀI TẬP (hai đội chơi điền vào bảng) Thành ngữ Điển cố Trò chơi này có tác dụng rất cao, tạo được không khí thoải mái, vui vẻ và rèn được tính nhanh nhẹn, tập trung tinh thần thi đua sôi nổi và khắc sâu được một số từ cần thiết không thể thiếu trong bài làm của HS trong những tiết sau. Ngoài ra, còn tạo cho HS tính mạnh dạn, tự tin , thích tham gia vào hoạt động chung của lớp. 2.3.2. Trò chơi: Thi đố bạn Đối với các tiết học hướng dẫn HS trình bày miệng, tôi thường tổ chức cho HS chơi trò chơi “Thi đố bạn” Mục đích: Giúp HS hình thành bài học có hệ thống. Tập tác phong nhanh nhẹn. Chuẩn bị: - 1 bảng phụ đã viết sẵn đoạn văn; 1 số băng giấy đã viết sẵn các câu văn trong đoạn văn trên. 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2