Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thực trạng và đề xuất một số mô hình tham vấn tâm lý cho học sinh tại trường THPT Tân Kỳ
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu đề tài là tìm hiểu thực trạng các hoạt động về tham vấn tâm lý, từ đó xây dựng các mô hình hỗ trợ, tham vấn tâm lý cho HS nhằm phòng ngừa, hỗ trợ và can thiệp (khi cần thiết) đối với học sinh đang gặp phải khó khăn về tâm lý trong học tập và cuộc sống, để tìm hướng giải quyết phù hợp, giảm thiểu tác động tiêu cực có thể xảy ra, góp phần xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện và phòng chống bạo lực học đường tại trường THPT Tân Kỳ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thực trạng và đề xuất một số mô hình tham vấn tâm lý cho học sinh tại trường THPT Tân Kỳ
- MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TT Viết tắt Nội dung 1 BGD&ĐT Bộ giáo dục và đào tạo 2 CLB Câu lạc bộ 3 ĐHSP Đại học sư phạm 4 GD&ĐT Giáo dục và đào tạo 5 GS.TS Giáo sư tiến sĩ 6 GV Giáo viên 7 HĐ Hoạt động 8 HS Học sinh 9 KHCN Khoa học công nghệ 10 KHCN Khoa học công nghệ 11 MH TVTL Mô hình tham vấn tâm lý
- 12 PGS.TS Phó giáo sư tiến sĩ 13 SKSS Sức khỏe sinh sản 14 THPT Trung học phổ thông 15 TS Tiến sĩ 16 TT Thông tư 17 TVTL Tham vấn tâm lý 18 VTN Vị thành niên
- PHẦN I. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Hiện nay, nhân loại đang tiến vào nền văn minh trí tuệ. Cả thế giới chứng kiến sự bùng nổ của thông tin, sự phát triển của KHCN cả về số lượng lẫn chất lượng, cả về tốc độ lẫn phạm vi lĩnh vực. Đây là một tín hiệu đáng mừng, cho thấy sự tiến bộ vượt bậc về trí tuệ của nhân loại, song bên cạnh đó cũng tiềm ẩn nhiều áp lực, nhiều rủi ro, nhiều sự tác động tiêu cực từ mặt trái của xã hội. Là cán bộ quản lý và giáo viên giảng dạy ở cấp THPT, chúng tôi cũng không nằm ngoài guồng quay ấy, với những đòi hỏi, những yêu cầu ngày một cao về thể chất và trí tuệ. Áp lực nặng nề từ xã hội, gia đình, nhà trường khiến không ít HS rơi vào tình trạng căng thẳng, mệt mỏi. Hàng ngàn vụ án, tin tức nói về hiện tượng sử dụng bạo lực, giết người, gây gỗ, xích mích với cha mẹ, thầy cô, bạn bè; hàng trăm vụ tự tử, bỏ nhà ra đi trong một năm đã rung lên tiếng chuông báo động về sức khỏe tâm thần của các em. Những biểu hiện stress về tâm lý, tinh thần như vậy ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập và cuộc sống của các em. Nhiều bạn rơi vào bế tắc, chán nản, tuyệt vọng, cảm thấy quá khó khăn trong học tập, trong việc thiết lập và xử lý các mối quan hệ gia đình và xã hội, dẫn đến những hành vi tiêu cực, sai lệch, cực đoan. Nếu không có những can thiệp kịp thời, cuộc sống các em sẽ hoàn toàn rơi vào bi kịch.. .. Trong nhiều năm qua, việc tìm hiểu stress đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và cũng đạt được nhiều thành tựu cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Thế nhưng, tìm hiểu hoạt động tham vấn tâm lý cho các em HS THPT Tân Kỳ vẫn chưa được áp dụng một cách triệt để. Chúng tôi đã từng chứng kiến rất nhiều học sinh có biểu hiện stress về tâm lý trong quá trình dạy học ở nhà trường, nên chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Thực trạng và đề xuất một số mô hình tham vấn tâm lý cho học sinh tại trường THPT Tân Kỳ” với khách thể nghiên cứu là học sinh trường trung học phổ thông Tân Kỳ. Thông qua đề tài này, với ý nguyện tha thiết góp phần bảo vệ sức khỏe tâm lý cho học sinh, thắt chặt hơn nữa các mối quan hệ ở gia đình, trường học để chúng ta được nhìn thấy những ngôi trường thân thiện, những gia đình an vui. Làm thế nào để tất cả học sinh nói riêng, chúng ta nói chung trên hành trình vạn dặm của cuộc đời, có thể ngoảnh lại nhìn về những năm tháng tuổi hồn nhiên, trong sáng dưới mái trường với thầy cô, bạn bè, trong gia đình với cha mẹ để mỉm cười yêu thương và trân trọng, để có thêm dũng khí và sức mạnh mà bước đi tới đích thành công. Trước khi nghiên cứu, chúng tôi gửi lời xin lỗi xâu sắc tới những gia đình có học sinh và những học sinh bị biểu hiện tâm lý nặng đã chủ động chia sẻ 4
- cho chúng tôi những băn khoăn, những kí ức buồn trong học tập, trong cuộc sống. Chúng tôi cũng xin gửi lời tạ lỗi và tri ân sâu sắc tới cha mẹ, đồng nghiệp, những người đã chịu đựng, đã yêu thương, bảo vệ nhưng cũng không ít lúc làm chúng tôi tổn thương sâu sắc. Hành trình gian khổ ấy đã dần qua và đang mở ra một trang mới tươi đẹp cho các em, nhất là các em học sinh dưới mái trường Trung học phổ thông Tân Kỳ thân yêu. 1.2. Đóng góp mới của đề tài. Từ trước đến nay đã có một số đề tài, bài viết, công trình nghiên cứu về thực trạng và đề xuất một số mô hình tham vấn tâm lý cho học sinh tại các trường THPT. Song chủ yếu, các bài viết, các đề tài này còn dừng lại ở tính lý thuyết hoặc mới chỉ đưa ra một số giải pháp ứng dụng trong các lĩnh vực mang tính vĩ mô hoặc các giải pháp cụ thể nhưng chỉ ứng dụng ở một số lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống xã hội. Đặc biệt, các đề tài đề cập đến các giải pháp về tham vấn tâm lý cho học sinh THPT tại các đơn vị trường học trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói chung, địa bàn huyện Tân Kỳ nói riêng gần như chưa thấy triển khai và áp dụng. Đề tài này đã đi sâu nghiên cứu thực trạng, ứng dụng, đúc rút kinh nghiệm về một số mô hình mới giúp cho hoạt động tham vấn tâm lý tại nhà trường đạt được hiệu quả cao hơn. Qua đó, góp phần không nhỏ trong việc phát hiện và giảm thiểu các biểu hiện tâm lý tiêu cực ở các em HS THPT hiện nay. 1.3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng các hoạt động về tham vấn tâm lý, từ đó xây dựng các mô hình hỗ trợ, tham vấn tâm lý cho HS nhằm phòng ngừa, hỗ trợ và can thiệp (khi cần thiết) đối với học sinh đang gặp phải khó khăn về tâm lý trong học tập và cuộc sống, để tìm hướng giải quyết phù hợp, giảm thiểu tác động tiêu cực có thể xảy ra, góp phần xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện và phòng chống bạo lực học đường tại trường THPT Tân Kỳ. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lý luận Chúng tôi đã đọc và phân tích, tổng hợp các tài liệu liên quan đến đề tài để xây dựng cơ sở lý luận bao gồm: + Phương pháp phân tích tổng hợp nhiều tài liệu liên quan. + Phương pháp khái quát hóa những nhận định độc lập. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm + Điều tra xã hội bằng phiếu khảo sát ý kiến học sinh; ý kiến của các bạn về hoạt động TVTL, các dấu hiệu tâm lý tiêu cực ở trường THPT Tân Kỳ hiện nay. 5
- + Phương pháp quan sát và tự quan sát: Thu thập thông tin và quan sát xem sự cần thiết, hiệu quả, mong muốn hoạt động TVTL ở nhà trường hiện nay. + Phương pháp phỏng vấn Được thực hiện trong nhiều hoàn cảnh: giờ ra chơi, giờ sinh hoạt 15 phút, đầu giờ học, qua trò chuyện trực tiếp. + Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia: Khi thực hiện nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã trực tiếp gặp gỡ, phỏng vấn, hỏi ý kiến một số chuyên gia về y học, về tâm lý, xã hội học để giúp nhóm nghiên cứu có phương pháp, kiến thức rộng, sâu hơn như chuyên gia Đào Ngọc Cường… + Phương pháp thống kê toán học: Để xử lý kết quả khảo sát thực trạng và mức độ hiệu quả của của các mô hình TVTL cho HS tại trường THPT Tân Kỳ. + Phương pháp phân tích số liệu: Sau khi có các số liệu thu thập được từ kết quả thống kê, chúng tôi đã phân tích để thấy được ý kiến của các bạn HS là cần thiết, mong muốn hoạt động TVTL ở nhà trường hiện nay. Từ đó, tìm kiếm những mô hình để nâng cao hiệu quả TVTL cho HS tại Trường THPT Tân Kỳ. PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở lý luận đề tài. 2.1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài. 2.1.1.1. Khái niệm tham vấn (Counseling) Hiệp hội các nhà tham vấn Hoa Kì (ACA, 1997) cho rằng: Tham vấn là sự áp dụng nguyên tắc tâm lý, sức khỏe tinh thần hay nguyên tắc về sự phát triển con người thông qua các chiến lược can thiệp một cách có hệ thống về nhận thức, xúc cảm, hành vi, tập trung vào sự lành mạnh, sự phát triển cá nhân, phát triển nghề nghiệp cũng như vấn đề bệnh lý. Như vậy, quá trình tham vấn được hiểu như là một mối quan hệ tự nguyện giữa nhà tham vấn và khách hàng. Trong mối quan hệ này nhà tham vấn giúp khách hàng tự xác định và tự giải quyết vấn đề của mình. Carl Rogers đã mô tả tham vấn như là quá trình trợ giúp trong mối quan hệ an toàn với nhà trị liệu, đối tượng tìm thấy sự thoải mái, chia sẻ và chấp 6
- nhận những trải nghiệm đã từng bị chối bỏ để hướng tới sự thay đổi. (Dẫn theo Trần Thị Minh Đức (2009); Trần Đình Tuấn (2014) Theo C. Patterson (2000) thì “Tham vấn tâm lý là một loại quan hệ xã hội, trong mối quan hệ này, nhà tham vấn đưa ra điều kiện hoặc không khí tâm lý nhất định, nhằm làm cho đối tượng được tham vấn thay đổi, tự lựa chọn và giải quyết vấn đề của chính mình, đồng thời hình thành nên một cá tính độc lập có trách nhiệm, từ đó trở thành một người tốt, một thành viên tốt của xã hội” Theo Caplan (1970), tham vấn là 1 quá trình diễn ra giữa 2 người đều có chuyên môn nghiệp vụ, người tham vấn là 1 chuyên gia, người nhận dịch vụ tham vấn có yêu cầu giúp đỡ từ tham vấn viên, vấn đề cần xử lý liên quan đến công việc. (Dẫn theo Trần Thị Minh Đức, 2009; Trần Đình Tuấn, 2014). Từ những nghiên cứu về tham vấn của các tác giả trê n đã cho thấy: Bản chất của tham vấn là hoạt động trợ giúp thân chủ tự giải quyết vấn đề của mình thông qua việc giúp thân chủ hiểu được chính bản thân họ, nhận biết được hoàn cảnh khó khăn hiện tại và những vấn đề liên quan trong quá khứ, phát hiện và phát huy được khả năng sẵn có của mình, đưa ra cách nhìn mới về vấn đề của họ theo hướng tích cực mà không phải là cho lời khuyên hay làm thay họ. Tham vấn là quá trình tạo khả năng cho một người để họ có thể phân tích được vấn đề và có được quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Với ý nghĩa này tham vấn không chỉ giúp họ vượt qua được vấn đề hiện tại mà còn tăng khả năng ứng phó với những khó khăn trong tương lai, giúp họ có cuộc sống tốt đẹp hơn. 2.1.1.2. Khái niệm tham vấn tâm lý cho học sinh Tham vấn tâm lý cho học sinh là sự tương tác, trợ giúp tâm lý, can thiệp (khi cần thiết) của cán bộ, giáo viên tư vấn đối với học sinh khi gặp phải tình huống khó khăn trong học tập, hoàn cảnh gia đình, mối quan hệ với người khác hoặc nhận thức bản thân, từ đó tăng cảm xúc tích cực, tự lựa chọn và thực hiện quyết định trong tình huống đó. (Thông tư số 31/2017/TTBGD&ĐT ngày 18/12/2017) 2.1.1.3. Khái niệm tham vấn học đường Tham vấn học đường là tất cả những hoạt động liên quan đến công tác trợ giúp giữa nhà tham vấn học đường với học sinh, sinh viên, phụ huynh. Nhằm mục đích giúp HS có điều kiện, cơ hội phát triển tốt nhất; giúp phụ huynh nhìn nhận, dạy dỗ, quản lý con mình trong mọi hoạt động học hành, vui chơi giải trí một cách khoa học và hiệu quả nhất. School Counseling Là sự trợ giúp tâm lý một cách chuyên nghiệp của nhà tham vấn tâm lý học đường với thân chủ (ban quản lý, lãnh đạo nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ phụ huynh và học sinh) nhằm giải quyết các 7
- vấn đề trường học và sự phát triển lành mạnh của học sinh (Robert D. Clark, 2011). 2.1.1.4. Hoạt động tham vấn học đường Hoạt động tham vấn học đường là tiến trình tổ chức và triển khai các nội dung tham vấn học đường theo mục tiêu, kế hoạch của cán bộ tham vấn học đường đặt ra phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của bản th ân hoạt động này. Hoạt động tham vấn học đường là hoạt động đặc biệt, đòi hỏi người làm tham vấn học đường và nhà trường phải vạch ra một kế hoạch hành động chung, có sự tham gia phối hợp, hỗ trợ của các giáo viên, nhân viên và cả ban đại diện phụ huynh trong Hội đồng giáo dục dưới sự lãnh đạo trực tiếp của hiệu trưởng, sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng trong cộng đồng liên quan đến công tác giáo dục và tổ chức hoạt động giáo dục trong và ngoài trường. Hoạt động này đòi hỏi cán bộ tham vấn học đường không chỉ làm tham vấn tâm lý cho từng học sinh có vấn đề mà còn tham gia vào nhiều hoạt động, nhiều mối quan hệ và cần có nhiều kiến thức kỹ năng nghiệp vụ khác, để làm sao mọi học sinh đều được hưởng quyền được giáo dục, mọi nhà giáo trong trường đều hợp tác làm việc theo kế hoạch có từng chủ điểm. Bốn nghiệp vụ trong tư vấn học đường là : Tư vấn tâm lý, cố vấn, phối hợp, đánh giá phẩm chất (Counseling, consulting, Coordinating, Appraising). Như vậy, tư vấn viên học đường còn là một nhà hành chính tổ chức công tác giáo dục trong nhà trường. Tư vấn viên học đường còn là người trợ thủ đắc lực cho hiệu trưởng: Lập kế hoạch, tổ chức, thực hiện, và lượng giá chương trình thông đạt tổng thể nhà trường. (Lê Sơn, Lê Hồng Minh, 2014). 2.1.1.5. Khái niệm tư vấn tâm lý Tư vấn tâm lý cho HS là sự hỗ trợ tâm lý, giúp HS nâng cao hiểu biết về bản thân, hoàn cảnh gia đình, mối quan hệ xã hội, từ đó tăng cảm xúc tích cực, tự đưa ra quyết định trong tình huống khó khăn gặp phải khi đang học tại nhà trường. (TT số 31/2017/TTBGD&ĐT ngày 18/12/2017) 2.2. Cơ sở thực tiễn đề tài. Ở Việt Nam chúng ta, mặc dù còn khá mới, song những năm gần đây, lĩnh vực tâm lý học đường ngày càng trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm của ngành giáo dục nói riêng và cả xã hội nói chung. Nhất là trong bối cảnh giới trẻ đang nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến đạo đức, lối sống… hay áp lực thi cử, áp lực chọn ngành nghề trước ngưỡng cửa vào đời. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành nhiều văn bản, quyết định về công tác tư vấn, tư vấn tâm lý và các vấn đề xã hội cho học sinh, sinh viên. Gần đây nhất, Bộ đã ban hành Thông tư 31/2017/TTBGDĐT “Hướng dẫn 8
- thực hiện công tác tư vấn tâm lý cho học sinh trong trường phổ thông” có hiệu lực từ 2/2/2018, góp phần giải quyết những tồn tại hiện nay. Tuy nhiên, một hạn chế lớn trong thực tiễn triển khai công tác tham vấn, tư vấn học đường chính là nguồn nhân lực chưa có đủ trình độ và kỹ năng, bởi hầu hết hiện các nhà trường chưa có cán bộ chuyên trách làm công tác tham vấn tâm lý học đường. Việt Nam hiện nay, trong các trường THPT trên toàn đất nước, đã và đang có nhiều mô hình tham vấn tâm lý học đường hình thành và hoạt động rất hiệu quả. Có thể kế đến CLB tư vấn học đường Trường THPT Nguyễn Du, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Không chỉ trực ở phòng tư vấn học đường, cởi mở đón tiếp học sinh, nhận câu hỏi từ hộp thư, tư vấn trực tiếp và tư vấn qua một số trang mạng xã hội. CLB tư vấn học đường Trường THPT Nguyễn Du còn chủ động thiết kế các chuyên đề mang tính thời sự có chất lượng giáo dục cao, đa dạng hóa hình thức tư vấn đem lại sự hứng thú, phấn khởi cho học sinh. CLB sinh hoạt đều đặn 2 lần/tháng, với thời lượng 35 phút mỗi lần sinh hoạt. Với phương châm “tư vấn nhẹ nhàng, vui tươi, đề cao sự chủ động tích cực của học sinh” luôn làm cho không khí sinh hoạt các chuyên đề tư vấn hàng tháng lôi cuốn hấp dẫn học sinh. Mô hình tư vấn tâm lý học đường của Trường THPT Khoái Châu (Hưng Yên) cũng là một trong những điểm sáng của hoạt động tham vấn tâm lý. Nhà trường đã ra quyết định thành lập tổ tư vấn theo các thành phần cứng như quy định và có thể bổ sung cho phù hợp với thực tế nguồn thành viên tổ tư vấn của trường như: Ban giám hiệu, Đoàn Thanh niên, giáo viên chủ nhiệm, nhân viên y tế học đường và giáo viên bộ môn Giáo dục công dân. Các thành viên tổ tư vấn được giao phụ trách nắm bắt, thu thập thông tin, sàng lọc (trực tiếp qua giáo viên chủ nhiệm hay chính học sinh, hoặc gián tiếp qua hòm thư góp ý, hòm thư tư vấn và thư điện tử mà học sinh gửi đến). Trực tiếp gặp gỡ học sinh tìm hiểu và kiểm tra các thông tin (có thể là giáo viên chủ nhiệm, cán bộ quản lý, hay giao cho bộ phận phụ trách, thành viên tổ tư vấn). Cùng với đó, gặp gỡ các đối tượng học sinh hoặc người có liên quan để làm rõ hơn thông tin. Tổng hợp, tìm nguyên nhân, biện pháp giúp đỡ học sinh. Có thông tin phản hồi tích cực đến học sinh và giáo viên chủ nhiệm lớp có học sinh cần giúp đỡ để tiếp tục theo dõi, nắm bắt thông tin từ phía học sinh lớp mình. Nếu cần thiết thì phối hợp với cha mẹ học sinh hoặc những người có liên quan cùng chung tay hỗ trợ, tìm biện pháp giúp đỡ học sinh. Đặc biệt từ năm 2007, công tác tư vấn tâm lý cho học sinh Trường THPT Đinh Tiên Hoàng (Hà Nội) đưa vào thực hiện bài bản. Các hoạt động tư vấn tâm lý tại đây đã thật sự hiệu quả và chuyên nghiệp. Trường THPT Đinh Tiên Hoàng (Hà Nội) cũng đã xây dựng thành công mô hình phát hiện và can thiệp đối với học sinh có biểu hiện tâm lý tiêu cực và đã được đánh giá là rất thành công qua thực nghiệm thực tế. 9
- 2.3. Tổng quan các nghiên cứu về tham vấn và tham vấn tâm lý học đường. 2.3.1. Trên thế giới Tham vấn tâm lý học đường hay còn gọi là tham vấn học đường là một nhánh của ngành tham vấn tâm lý được xuất hiện vào đầu thế kỷ XX tại Hoa Kỳ. Jesse B. Davis có thể được xem là một trong những người đầu tiên trong lĩnh vực này khi giới thiệu một chương trình “Những hướng dẫn về nghề nghiệp và đạo đức” (Vocational and Moral Guidance) cho học sinh các trường học công. Frank Parsons, được xem như cha đẻ của nghề Hướng dẫn (còn gọi Khải đạo), đã viết cuốn sách “Chọn lựa một nghề ” (Choosing a Vocation) vào năm 1909 qua đó trình bày phương pháp kết nối những đặc điểm tính cách của một cá nhân với một nghề nghiệp. Jesse Davis, Frank Parsons, Eli Weaver và nhiều người khác nữa đã tạo thành một trào lưu thúc đẩy cho sự phát triển của ngành tham vấn học đường. Những năm 1930, lý thuyết đầu tiên về Khải đạo được giới thiệu: Lý thuyết về các nhân tố và đặc điểm của E. G. Williamson, (E. G. Williamson’s Trait and Factor theory). Lý thuyết này trở nên nổi tiếng như là một sự chỉ đạo cho hoạt động tham vấn. Năm 1940, đạo luật George Barden (George Barden Act) – đạo luật về giáo dục hướng nghiệp – ra đời đã mang lại những nguồn lực quan trọng cho sự phát triển và hỗ trợ hoạt động khải đạo và tham vấn trong môi trường học đường cũng như những môi trường khác. Đây là lần đầu tiên những nhà tham vấn học đường, những kiểm huấn viên địa phương và các tiểu ban nhận được những sự hỗ trợ chính thức từ chính phủ (sự điều hành, tài chính và nguồn nhân lực…). Năm 1957, năm mà vệ tinh Sputnik của Nga được phóng vào quỹ đạo cũng là thời điểm mà ngành tham vấn và khải đạo được “phóng lên”. Tiếp theo đó, đạo luật Nat’l Defense Ed. Act (NDEA) ra đời năm 1958. Năm 1953, hiệp hội các nhà tham vấn tâm lý học đường Hoa Kỳ (ASCA) tham gia vào APGA (American Personnel and Guidance Association), tiền thân của hiệp hội tham vấn tâm lý Hoa Kỳ ACA (American Counseling Association) ngày nay. Năm 1962, cuốn sách của Wrenn, Nhà tham vấn trong một thế giới thay đổi (The Counselor in a Changing World) đã định chế hóa các mục tiêu của tham vấn học đường. Năm 1964, ASCA phát triển các vai trò và chức năng dành cho các nhà tham vấn học đường. Năm 1965, đạo luật Giáo dục Tiểu học và Trung học (Elementary and Secondary Education Act) ra đời và cung cấp nguồn quỹ để phát triển những cơ hội giáo dục cho những gia đình nghèo. Đến những năm 80 và 90, nhu cầu về việc làm rõ những đặc tính và vai trò của nhà tham vấn học đường được xuất hiện với sự “chín muồi” của những vấn đề pháp lý liên quan. 10
- Năm 1997, Tiêu chuẩn quốc gia dành cho các chương trình tham vấn học đường (National Standards for School Counseling Programs) ra đời và kể từ đó, ngành tham vấn học đường được xem là đã hoàn thiện. Hiện nay, hiệp hội các nhà tham vấn học đường Hoa Kỳ (ASCA) được xem là nguồn tham khảo và kiểu mẫu cho các chương trình tham vấn tâm lý học đường của hầu hết các nước trên thế giới. ASCA hiện tại có hơn 23.000 hội viên trên toàn thế giới và là một phân hội của ACA với hơn 60.000 hội viên trên toàn thế giới. 2.3.2. Ở Việt Nam Trong hơn 10 năm qua, với sự xuất hiện hàng loạt những vấn đề liên quan đến đạo đức, kỷ luật trường học, học sinh tự tử, áp lực thi cử, những rối loạn tâm lý, quan hệ thầy trò… của các trường học Việt Nam, những nhà giáo dục, tâm lý và cùng những tổ chức và các cơ quan hữu trách đã “giật mình” và bắt đầu đề cập đến việc phải có các hoạt động tham vấn tâm lý trong trường học. Năm 2003, hội thảo “Nhu cầu tư vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh” được Viện Nghiên cứu Giáo dục, trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà tâm lý, giáo dục và hiệu trưởng các trường có hoạt động tham vấn học đường để “mổ xẻ” và kêu gọi sự quan tâm của giới chuyên môn cũng như các cơ quan chính phủ trong việc có các chiến lược nhằm phát triển hoạt động tham vấn học đường tại Việt Nam. Cũng trong thời gian này, một vài sinh viên khoa Tâm lý – Giáo dục trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh đã chọn đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình về vấn đề tham vấn học đường. Những “sự kiện” này được xem là những bước khởi đầu cho nhiều sự thay đổi tiếp theo của ngành tham vấn học đường tại Việt Nam. Năm 2004, Trung tâm Hỗ trợ tư vấn tâm lý (CACP) thuộc trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội được thành lập và cũng đề cập đến hoạt động nghiên cứu và hỗ trợ hoạt động tham vấn học đường. Năm 2005, với sự chấp thuận của Ủy ban Dân số – Gia đình – Trẻ em thành phố Hồ Chí Minh và sự hỗ trợ của UNICEF, Văn phòng tư vấn trẻ em thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức hội thảo “Kinh nghiệm bước đầu thực hiện mô hình tham vấn trong trường học” cũng nhận được sự quan tâm và chia sẻ kinh nghiệm thực tế của nhiều chuyên gia và những nhà lãnh đạo các trường học. Đầu năm 2006, hội nghị toàn quốc về “Tư vấn tâm lý – giáo dục – thực tiễn và định hướng phát triển” do Hội khoa học Tâm lý – Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh tổ chức cũng đề cập đến vấn đề tham vấn học đường như là một điều “khẩn thiết” nhằm hỗ trợ học sinh và nhà trường trong hoạt động giáo dục. Sở Giáo dục – Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh cũng tổ chức những buổi sinh hoạt đề cập đến hoạt động tư vấn học đường 11
- trong thời gian này với sự tham gia của các nhà tâm lý, giáo dục, nhà trường và phụ huynh học sinh. Trong khoảng thời gian này, một số văn bản của Bộ Giáo dục đã được ban hành nhằm chỉ đạo và hướng dẫn các Sở và trường học cùng những tổ chức liên quan trong việc triển khai thực hiện chương trình tham vấn học đường. Ngoài ra, chuyên mục tham vấn học đường do báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh khởi xướng (Thạc sĩ. Nguyễn Thị Oanh phụ trách) cũng nhận được sự hưởng ứng rất nhiệt tình của đông đảo học sinh, phụ huynh và các trường học. Tháng 06 năm 2006, cuốn sách “Tư vấn tâm lý học đường” của tác giả Nguyễn Thị Oanh đã được nhà xuất bản Trẻ phát hành trên toàn quốc. Đến nay, vấn đề tham vấn học đường tại Việt Nam đã trở thành một đề tài nóng bỏng và nhận được nhiều sự ủng hộ từ các em học sinh, phụ huynh, nhà trường, các nhà tâm lý giáo dục và các tổ chức thuộc chính phủ cũng như các tổ chức phi chính phủ. Trong quá trình tìm kiếm và nghiên cứu tài liệu, chúng tôi đã nhận thấy hiện nay có khá nhiều tài liệu liên quan để hoạt động tham vấn tâm lý như: Tác phẩm “Công tác tham vấn trẻ em, Giới thiệu thực hành” của Kathryn Geldard và David Geldard (Nguyễn Xuân Nghĩa và Lê Lộc dịch, NXB Đại học Mở – Bán công thành phố Hồ Chí Minh); Tác phẩm “Bạn có hấp dẫn không” của TS.Tâm lý học Jesse S.Nirenberg (nhóm Ánh Dương biên soạn, NXB Trẻ phát hành); Ngoài ra, tác phẩm “Tiến hình thành nhân” của nhà tâm lý học lỗi lạc trên thế giới Carl Rogers (Ts. Tâm lý học Tô Thị Ánh và Vũ Trọng Ứng dịch, NXB Thành phố Hồ Chí Minh phát hành) cung cấp một quan điểm, một cách tiếp cận hiệu quả trong tham vấn theo trường phái tâm lý học nhân văn; Đặc biệt, là các tài liệu của UNICEF về tập huấn “Công tác tham vấn trẻ em” cho các giảng viên; Tác phẩm “Hãy để lớp trẻ tự lựa chọn hay nghệ thuật kết của cuộc sống lứa đôi” của TS. Julian Hafner (Nguyễn Thanh Vấn dịch, NXB Phụ Nữ phát hành) là một tài liệu hữu ích khi trình bày về các ca tham vấn thành công dùng để tham khảo cho những người thực hành tham vấn cá nhân. Các tác giả Việt Nam, những người có công đầu trong việc thực hành và phát triển nghề tham vấn phải kể đến bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (lĩnh vực tham vấn trẻ em gia đình); Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc; GS. PTS Lê Diên Hồng, Bùi Đại, Bác sĩ Phan Văn Trường, Ngô Thị Khánh, Nguyễn Văn Kính (lĩnh vực tham vấn HIV/AIDS). Bên cạnh đó có khá nhiều bài báo đề cập đến lĩnh vực này rất hữu ích để chúng tôi nghiên cứu như: Bài viết “Về tâm lý học tư vấn” của TS. Nguyễn Thị Phương Hoa đăng trên tạp chí Tâm lý học số 2/ 1999 đã giới thiệu về tâm lý học tư vấn và triển vọng phát triển tâm lý học tư 12
- vấn ở nước ta; Bài viết "Tư vấn hay tham vấn – Thuật ngữ và cách tiếp cận" của PGS.TS Trần Thị Minh Đức, ĐHKHXHNV Hà Nội đăng trên Kỷ yếu hội nghị Tâm lý học, tháng 2/2003 bàn về sự khác nhau của tư vấn và tham vấn và các cách tiếp cận khác nhau khi giúp đỡ thân chủ... Ngoài ra còn có những bài báo giới thiệu phương pháp tham vấn như “Các phản ứng tư vấn cơ bản” của Đỗ Ngọc Khanh... Các nghiên cứu trên cho thấy bức tranh chung về nhu cầu cấp thiết cần phải có những mô hình hoạt động cụ thể để hỗ trợ tâm lý cho các đối tượng trong xã hội nói chung, trong đó, vấn đề TVTL học đường là một nội dung cấp thiết cần được quan tâm hàng đầu trong xã hội ngày nay. 2.4. Thực trạng hoạt động tham vấn tâm lý cho học sinh tại trường THPT Tân Kỳ trong thời gian qua. 2.4.1. Thuận lợi Ngày 18/12/2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 31/2017/TTBGD&ĐT hướng dẫn thực hiện công tác tư vấn cho học sinh trong trường phổ thông. Làm cơ sở cho việc hoạt động tham vấn tâm lý được đưa vào nội dung kế hoạch hàng năm trong nhà trường được thuận lợi. Nhà trường đã thành lập phòng tư vấn học đường, có các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động tham vấn tâm lý đạt hiệu quả. Đội ngũ giáo viên đạt chuẩn trình độ đào tạo, có nhiều kinh nghiệm trong công tác tham vấn tâm lý cho học sinh. Có sự phối hợp với hội phụ huynh, các cấp, chính quyền địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho công tác hoạt động tham vấn tâm lý tại nhà trường. Rất nhiều học sinh THPT có nhu cầu tham vấn tâm lý, là động lực thúc đẩy HS tìm kiếm đến nhà tham vấn học đường để được trò chuyện, chia sẻ, thấu cảm, trợ giúp trước những khó khăn tâm lý mà các em không tự giải quyết được. Vấn đề này nếu được giải quyết đúng hướng sẽ tác động tích cực đến chất lượng học tập cũng như cuộc sống của học sinh. 2.4.2. Khó khăn 2.4.2.1. Một số vấn đề về học sinh THPT Các em HS ở độ tuổi này không còn là trẻ con mà cũng chưa là người lớn thực sự, tâm lý phát triển phức tạp, nhiều lúc ương ngạnh, hiếu thắng, thậm chí có những biểu hiện bất cần có thể dẫn tới hành động tiêu cực. Tính cách các em cũng dễ nóng nảy, hay cãi cọ, cáu gắt, vui buồn vô cớ, có bạn dễ làm những việc điên rồ, ngông cuồng, quá khích, chống đối. Một thực tế cho thấy tỷ lệ tội phạm hay các vụ án bạo lực, tự hành xác, tự tử phần lớn rơi vào lứa tuổi này. HS như những mầm cây xanh tươi, nếu chăm bón tốt thì sẽ 13
- có hoa thơm trái ngọt, nếu lơ là, gió bão, mưa nắng cuộc đời sẽ làm những mầm xanh trụi lá. 2.4.2.2. Khó khăn tâm lý Ở lứa tuổi học sinh THPT, các em gặp khó khăn trong việc xây dựng mối quan hệ với người lớn. Phần lớn, các em học sinh luôn mong muốn được thừa nhận sự “trưởng thành” của mình. Có nhu cầu tự khẳng định mình là một con người có quyền bình đẳng với người lớn, muốn độc lập, tự quyết. Tuy nhiên, trong mắt người lớn, ông bà, bố mẹ, chúng tôi luôn là những đứa trẻ bé bỏng, cần được chở che, bao bọc. Điều này đã dẫn đến việc nảy sinh một số mâu thuẫn giữa thiếu niên với người lớn, đặc biệt là giữa con cái với bố mẹ. Trên cơ sở những vấn đề lý luận cơ bản từ các khái niệm được sử dụng, từ thực tiễn nắm bắt tâm lý lứa tuổi của các em học sinh, từ thực tế các mối quan hệ diễn ra trong và ngoài nhà trường, chúng tôi nhận thức được vai trò vô cùng quan trọng của TVTL cho học sinh tại trường THPT Tân Kỳ. Từ đó, chúng tôi xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, sứ mệnh , sự cần thiết của thầy cô, cha mẹ, bạn bè trong vấn đề TVTL để giúp HS vượt qua khó khăn trong học tập và cuộc sống. 2.4.3. Đánh giá chung thực trạng hoạt động tham vấn tâm lý cho học sinh tại trường THPT Tân Kỳ. 2.4.3.1. Sự cần thiết của các hoạt động TVTL cho HS tại trường THPT Tân Kỳ. Chúng tôi tiến hành khảo sát, điều tra chính thức được thực hiện trên 529 HS từ lớp 10 đến lớp 12 năm học 20202021 của trường THPT Tân Kỳ, cụ thể như sau: Nam Nữ Trường Tổng Khối Khối Khối Khối Khối Khối 10 11 12 10 11 12 THPT 81 90 89 92 89 88 Tân Kỳ 260 269 529 Bảng 1.1. Thống kê khách thể nghiên cứu thực trạng Chúng tôi đã sử dụng nội dung phiếu câu hỏi phần phụ lục 1. Sau đó thống kê và tính trung bình số HS trả lời đúng các câu hỏi trong phiếu điều tra. Bên cạch đó chúng tôi còn kết hợp với phương pháp phỏng vấn sâu và 14
- phương pháp quan sát để đưa ra kết luận một cách chính xác nhất. Kết quả nhận thức của HS thể hiện qua bảng số liệu sau: Qua biểu đồ ta thấy, có 41.58% HS cho rằng các hoạt động này không thực sự cần thiết; 36.69% Hs vẫn đang còn phân vân, chưa thật sự biết được liệu các hoạt động tham vấn tâm lý cho HS tại trường THPT có thật sự cần thiết hay không. Sở dĩ một số bạn HS cho rằng TVTL HS THPT là không cần thiết bởi các em nghĩ rằng bên cạnh mình luôn có cha mẹ, thầy cô… Nếu có chuyện gì quan trọng thì đã có cha mẹ, thầy cô giải quyết, không nên suy nghĩ làm gì cho mệt. Sự phân vân của các em HS cũng là một điều dễ hiểu, bởi các em chưa nhận thức được đầy đủ và chưa thật sự hiểu biết cặn kẽ về tâm lý tuổi HS THPT cũng như các hoạt động cần thiết thực hiện trong vấn đề TVTL. 2.4.3.2. Mức độ hiệu quả của một số MH TVTL cho HS tại trường THPT Tân Kỳ. Qua khảo sát đánh giá về tính hiệu quả của một số mô hình TVTL tại trường THPT Tân Kỳ, chỉ có 2.83% HS được khảo sát cho rằng các mô hình TVTL tại Trường THPT Tân Kỳ được tổ chức rất hiệu quả; 10.01% cho rằng hiệu quả; 36.31% cho rằng không hiệu quả. Trong khi đó có tới 50.85% HS đánh giá thiếu hiệu quả. Qua tìm hiểu thực trạng, chúng tôi nhận thấy, sở dĩ một số MH TVTL cho HS tại trường THPT Tân Kỳ đạt kết quả chưa cao là do những nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất: HS chưa nhận thức được vai trò của một số MH TVTL, đa số các em cho biết, rất e ngại khi được tham vấn vì không muốn người khác biết chuyện khó nói của mình. Thứ hai: Các mô hình tham vấn còn khô khan, chưa sinh động, nội dung chưa phù hợp nên gây nhàm chán cho các em HS. 15
- Thứ ba: Những thành viên làm công tác TVTL tự tìm tòi kiến thức, làm việc bằng kinh nghiệm và tấm lòng là chính, chưa lên kế hoạch TVTL cụ thể. Vì thế, khiến công tác này chưa hiệu quả, thiếu kỹ năng và kiến thức khoa học. Thứ tư: Nguồn kinh phí cho hoạt động TVTL còn eo hẹp, chủ yếu là trích từ ngân sách chi thường xuyên của nhà trường. cho nên gây khó khăn không nhỏ cho cho việc nâng cao chất lượng TVTL cho học sinh. 2.4.3.3. Sự mong muốn của HS về nhà tham vấn tâm lý Để góp phần nâng cao hiệu quả và sự tin tưởng của các em HS, chúng tôi đã nghiên cứu, đã thiết kế các câu hỏi thăm dò và thu được một số ý kiến đề xuất. Có 36.61 % các em học sinh cho rằng “Sự thấu hiểu, lắng nghe của người tư vấn” là rất quan trọng khi thực hiện công tác tham vấn tâm lý cho HS THPT. Bên cạnh đó, 27.59% HS cần “Giữ gìn thông tin cá nhân của HS”, 24.76% HS cần “Sự thân thiện và cởi mở của người tư vấn”. Tuy nhiên, cũng có 13.04% HS không yêu cầu gì. Các hình thức TVTL mà các em HS mong muốn cũng khá phong phú. Hình thức mà các em học sinh mong muốn nhất là “Tham vấn trực tiếp” (54.06% ý kiến đề xuất). Tiếp theo là “Tham vấn qua facebook” (17.01%), “Tham vấn qua điện thoại” (15.89%) và “Tham vấn qua thư từ” (13.04%). Kết luận : Nhìn chung, thực trạng HĐ TVTL cho HS tại trường THPT Tân Kỳ hiện nay chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Thực trạng này có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, trong khi HĐ TVTL cho HS là vô cùng quan trọng. Vì vậy, chúng tôi đề xuất một số giải pháp TVTL cho HS tại trường THPT Tân Kỳ, với hy vọng giúp các em HS vượt qua những khó khăn về tâm lý trong học tập và trong cuộc sống. 2.5. Đề xuất một số mô hình tham vấn tâm lý cho học sinh tại trường THPT Tân Kỳ . 2.5.1. Mô hình phát huy hiệu quả vai trò của các thành viên trong tổ tư vấn tâm lý. Mục Đích: Giúp các thành viên trong tổ tư vấn trường THPT Tân Kỳ hoạt động hiệu quả hơn trong việc phát hiện sớm, giải đáp kịp thời những khó khăn về tâm lý trong học tập và cuộc sống đối với các em HS. Cách tiến hành: Theo thông tư số 31/2017/TTBGDDT ngày 18 tháng 12 năm 2017 về hướng dẫn thực hiện công tác tư vấn tâm lý cho học sinh trong trường phổ thông, năm 2018 trường THPT Tân Kỳ đã thành lập tổ tư vấn, hỗ trợ học sinh gồm: Lãnh đạo nhà trường làm tổ trưởng; thành viên là cán bộ, giáo viên kiêm nhiệm công tác tư vấn tâm lý, nhân viên y tế trường học, cán bộ, giáo viên phụ trách công tác Đoàn, Hội, đại diện cha mẹ học sinh và một 16
- số học sinh là cán bộ lớp, cán bộ Đoàn, Hội. Cán bộ, giáo viên kiêm nhiệm công tác tư vấn cho học sinh của nhà trường là người có kinh nghiệm và được tập huấn, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ tư vấn tâm lý do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức. Giáo viên kiêm nhiệm công tác tư vấn tâm lý được hưởng định mức giảm tiết dạy theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. (Hình ảnh: Giờ làm việc của các thành viên tổ tư vấn) Như vậy trong thành phần tổ tư vấn nhà trường, chúng tôi đã vinh dự được nhà trường lựa chọn. Tuy nhiên, điều chúng tôi luôn trăn trở là làm sao để phát huy vai trò của mình trong tổ tư vấn. Sau quá trình suy nghĩ, chúng tôi chủ động đăng ký tham vấn theo từng lĩnh vực phù hợp với khả năng của từng thành viên có sự hướng dẫn của các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Cụ thể như sau: TT Họ và tên Tham vấn lĩnh vực 1 Lê Khắc Thục (Hiệu trưởng) Tham vấn giáo dục kỹ năng, biện pháp ứng xử văn hóa, chống bạo lực, xâm hại và xây dựng môi Lương Văn Việt (PHT, tổ trưởng) trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện. SĐT: 0943570054 Nguyễn Xuân Việt (HS lớp 11C7) 2 Nguyễn Thị Thanh Tĩnh ( PHT) Tham vấn kỹ năng, phương pháp học tập hiệu quả và định hướng nghề nghiệp Phạm Công Thành (GV: GDCD) SĐT. 094337976 3 Đậu Minh Nghĩa (GV: GDCD) Tham vấn tăng cường khả năng ứng phó vấn đề phát sinh trong mối quan hệ gia đình, thầy cô, bạn SĐT: 0949384666 bè và các mối quan hệ xã hội khác. Nguyễn Thùy Linh (HS lớp 10C1) SĐT:0857166547 4 Nguyễn Cảnh Hiếu (Bí thư đoàn) TVTL đối với HS gặp khó khăn cần hỗ trợ, đưa HS đến các cơ sở, chuyên gia điều trị tâm lý đối SDT: 0918184666 với các trường hợp HS bị rối loạn tâm lý nằm 17
- Đào Công Lân (Hội trưởng HPH) ngoài khả năng tư vấn của nhà trường. SĐT: 0942798459 5 Hoàng Thị Thảo (Nhân viên y tế) Tham vấn giới tính, hôn nhân, gia đình, sức khỏe sinh sản vị thành niên phù hợp với lứa tuổi. SĐT:0832150887 Hồ Thị Thanh Hương ( Phó bí thư) SĐT: 0943879400 Nguyên tắc làm việc của chúng tôi trong tổ tư vấn: Ân cần, nhẹ nhàng, thể hiện sự đồng cảm, thân thiện, cởi mở, giữ gìn thông tin bí mật cá nhân cho người được tham vấn. Ngay đầu năm học, chúng tôi tiến hành thiết kế mẫu phiếu đề nghị được tham vấn (Nội dung mẫu phiếu đề nghị được tham vấn được trình bày ở phần phụ lục 3). Để tạo điều kiện cho các em HS nhất là các em có tâm lý e ngại, chúng tôi thiết kế hòm phiếu “Điều em muốn nói”. Hàng tuần các HS cần hỗ trợ tham vấn sẽ lấy phiếu đề nghị được tham vấn tại hộp đựng phiếu bên ngoài phòng tư vấn. Các phiếu đề nghị được tham vấn sẽ được các em HS bỏ vào hòm phiếu, hàng ngày chúng tôi sẽ mở hòm phiếu, tiến hành đếm phiếu, phân loại lĩnh vực tham vấn, trực tiếp hoặc mời các thành viên tổ tư vấn là các thầy, cô phụ trách lĩnh vực được phân công tiến hành đánh giá thông qua quan sát, phỏng vấn sơ bộ và đôi khi có thể được đánh giá bằng các trắc nghiệm tâm lý chuyên sâu tại trường hoặc ở các đơn vị độc lập. Kết quả đánh giá này sẽ giúp chúng tôi xác định mức độ ưu tiên của từng vấn đề và quyết định hình thức hỗ trợ. “Khi một bạn HS được quyết định là sẽ nhận sự hỗ trợ, HS đó sẽ có một khung giờ làm việc riêng với thành viên tổ tư vấn tâm lý hàng tuần. Song song với việc gặp riêng HS hàng tuần, chúng tôi cùng với thành viên tổ tư vấn tâm lý cũng sẽ làm việc với giáo viên và phối hợp với phụ huynh để thống nhất về cách thức hỗ trợ các em học sinh đó trong các hoạt động ở những bối cảnh khác nhau, thành viên tổ tư vấn tâm lý sẽ lượng giá sự tiến bộ của học sinh định kỳ. 18
- Việc hỗ trợ dừng lại khi kết quả lượng giá cho thấy HS đó đã có tiến bộ, đạt được mục tiêu đề ra ban đầu. Ngay cả khi đã kết thúc hỗ trợ, thành viên tổ tư vấn tâm lý vẫn giữ mối liên hệ với những HS này để có thể hỗ trợ bất cứ lúc nào mà HS cần. (Hình ảnh: Thành viên tổ tư vấn thu phiếu tại hộp thư và tham vấn cho học sinh) Hiệu quả: Thông qua cách làm này, trong năm học qua, chúng tôi đã nhận được 76 phiếu đề nghị được tư vấn tâm lý ở 5 nhóm lĩnh vực khác nhau. Đã tiến hành các hoạt động hỗ trợ kịp thời, từ đó, giúp các em HS vượt qua khó khăn trong học tập và trong cuộc sống, được nhà trường, hội phụ huynh đánh giá cao. 2.5.2. Mô hình thành lập CLB tham vấn tâm lý học đường “đồng hành cùng bạn”. Không chỉ trực ở phòng tư vấn học đường, cởi mở đón tiếp HS, nhận câu hỏi từ hộp thư, tư vấn trực tiếp... mà CLB tham vấn học đường “đồng hành cùng bạn” trường THPT Tân Kỳ cũng được thành lập. Mục đích: Bảo vệ quyền lợi, hỗ trợ và tham vấn đối với HS gặp khó khăn về tâm lý. Là đại diện cho tâm tư, nguyện vọng cho học sinh nhà trường. Cách tiến hành thành lập: (Theo Nghị định 45/2010/NĐCP) + Đơn xin phép thành lập CLB tham vấn tâm lý học đường “đồng hành cùng bạn”. + Phạm vi hoạt động: Trường THPT Tân Kỳ 19
- + Nguyên tắc, tổ chức, hoạt động của CLB: Tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, tự đảm bảo kinh phí hoạt động, không vì mục đích lợi nhuận, tuân thủ hiến pháp, pháp luật và điều lệ CLB. Nghĩa vụ của thành viên: + Nhiệt tình tham gia hoạt động CLB, đưa ra ý tưởng xây dựng các chuyên đề, để xây dựng CLB ngày càng phát triển. + Tham gia CLB với tinh thần trách nhiệm cao. + Tuân thủ mọi quy định, quy chế phối hợp của CLB. Quyền lợi: Tất cả thành viên CLB đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau. + Được tham gia các hoạt động của CLB + Khi gặp các khó khăn về tâm lý sẽ được các thành viên trong CLB giúp đỡ, tháo gỡ những khó khăn thắc mắc. Phòng sinh hoạt CLB: Cùng sinh hoạt tại văn phòng Đoàn trường. Số lượng thành viên CLB: Bạn Nguyễn Xuân Việt (Bí Thư lớp 11C7 chủ tịch), BíThư các chi đoàn và lớp trưởng các lớp. Kinh phí hoạt động: Tự đóng góp kinh phí hoặc có thể kêu gọi các doanh nghiệp, các nhà tài trợ trên địa bàn. Hình thức hoạt động: Hoạt động phối hợp với BGH, BCH đoàn và tổ TVTL. (Hình ảnh: CLB TVTL học đường “Đồng hành cùng bạn” Trường THPT Tân Kỳ) Cách tiến hành hoạt động tham vấn tâm lý của CLB: Dựa trên vai trò, cơ cấu tổ chức, các thành viên trong CLB đã chủ động thiết kế các chuyên đề mang tính thời sự, có chất lượng giáo dục cao, đa 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong bài Cacbon của chương trình Hóa học lớp 11 THPT
19 p | 138 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh thông qua tổ chức các hoạt động nhóm tích cực tại trường THPT Lê Lợi
19 p | 54 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 trường THPT Yên Định 3 giải nhanh bài toán trắc nghiệm cực trị của hàm số
29 p | 34 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 31 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các dạng câu hỏi của bài đọc điền từ thi THPT Quốc gia
73 p | 31 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p | 21 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p | 22 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hệ thống bài tập Hóa học rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong chương trình Hóa học THPT
47 p | 15 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p | 26 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 một số kĩ năng học và làm bài thi trắc nghiệm khách quan môn Vật lí trong kì thi Trung học phổ thông quốc gia
14 p | 29 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phân loại và phương pháp giải bài tập chương andehit-xeton-axit cacboxylic lớp 11 THPT
53 p | 28 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang
21 p | 48 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Bài tập thực hành Word khối 10
37 p | 13 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 24 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học cho học sinh theo chủ đề tích hợp liên môn trong bài “Khái niệm mạch điện tử - chỉnh lưu - nguồn một chiều” chương trình công nghệ 12 ở trường THPT Y
55 p | 62 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn