intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thực trạng và đề xuất một số mô hình tham vấn tâm lý cho học sinh tại trường THPT Tân Kỳ

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:54

51
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là tìm hiểu thực trạng các hoạt động về tham vấn tâm lý, từ đó xây dựng các mô hình hỗ trợ, tham vấn tâm lý cho HS nhằm phòng ngừa, hỗ trợ và can thiệp (khi cần thiết) đối với học sinh đang gặp phải khó khăn về tâm lý trong học tập và cuộc sống, để tìm hướng giải quyết phù hợp, giảm thiểu tác động tiêu cực có thể xảy ra, góp phần xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện và phòng chống bạo lực học đường tại trường THPT Tân Kỳ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thực trạng và đề xuất một số mô hình tham vấn tâm lý cho học sinh tại trường THPT Tân Kỳ

  1. MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TT Viết tắt Nội dung 1 BGD&ĐT Bộ giáo dục và đào tạo 2 CLB Câu lạc bộ 3 ĐHSP Đại học sư phạm 4 GD&ĐT Giáo dục và đào tạo 5 GS.TS Giáo sư tiến sĩ 6 GV Giáo viên 7 HĐ Hoạt động 8 HS Học sinh 9 KHCN Khoa học công nghệ 10 KHCN Khoa học công nghệ 11 MH TVTL Mô hình tham vấn tâm lý
  2. 12 PGS.TS Phó giáo sư tiến sĩ 13 SKSS Sức khỏe sinh sản 14 THPT Trung học phổ thông 15 TS Tiến sĩ 16 TT Thông tư 17 TVTL Tham vấn tâm lý 18 VTN Vị thành niên
  3. PHẦN I. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Hiện nay, nhân loại đang tiến vào nền văn minh trí tuệ. Cả  thế  giới  chứng kiến sự  bùng nổ  của thông tin, sự  phát triển của KHCN   cả  về  số  lượng lẫn chất lượng, cả về tốc độ lẫn phạm vi lĩnh vực. Đây là một tín hiệu   đáng mừng, cho thấy sự tiến bộ vượt bậc về trí tuệ  của nhân loại, song bên   cạnh đó cũng tiềm  ẩn nhiều áp lực, nhiều rủi ro, nhiều sự tác động tiêu cực   từ mặt trái của xã hội. Là cán bộ quản lý và giáo viên giảng dạy ở  cấp THPT, chúng tôi cũng  không nằm ngoài guồng quay ấy, với những đòi hỏi, những yêu cầu ngày một  cao  về  thể  chất  và trí tuệ. Áp lực nặng nề  từ  xã hội, gia đình, nhà trường  khiến không ít HS rơi vào tình trạng căng thẳng, mệt mỏi. Hàng ngàn vụ án,  tin tức nói về hiện tượng sử dụng bạo lực, giết người, gây gỗ, xích mích với   cha mẹ, thầy cô, bạn bè; hàng trăm vụ  tự  tử, bỏ  nhà ra đi trong một năm đã   rung lên tiếng chuông báo động về  sức khỏe tâm thần của các em.  Những  biểu hiện stress về tâm lý, tinh thần như vậy ảnh hưởng rất lớn đến quá trình  học tập và cuộc sống của các em. Nhiều bạn rơi vào bế tắc, chán nản, tuyệt   vọng, cảm thấy quá khó khăn trong học tập, trong việc thiết lập và xử lý các  mối quan hệ gia đình và xã hội, dẫn đến những hành vi tiêu cực, sai lệch, cực  đoan. Nếu không có những can thiệp kịp thời, cuộc sống các em sẽ hoàn toàn  rơi vào bi kịch.. .. Trong nhiều năm qua, việc tìm hiểu stress đã thu hút được sự quan tâm  của nhiều nhà nghiên cứu và cũng đạt được nhiều thành tựu cả  về  mặt lý  luận lẫn thực tiễn. Thế nhưng, tìm hiểu hoạt động tham vấn tâm lý cho các  em HS THPT Tân Kỳ vẫn chưa được áp dụng một cách triệt để. Chúng tôi đã từng chứng kiến rất nhiều học sinh có biểu hiện stress về  tâm lý trong quá trình dạy học  ở nhà trường, nên chúng tôi mạnh dạn nghiên  cứu đề  tài  “Thực trạng và đề  xuất một số  mô hình tham vấn tâm lý cho   học sinh tại trường THPT Tân Kỳ”  với khách thể  nghiên cứu là học sinh  trường trung học phổ  thông Tân Kỳ. Thông qua đề  tài này, với ý nguyện tha  thiết góp phần bảo vệ  sức khỏe tâm lý cho học sinh, thắt chặt hơn nữa các   mối quan hệ   ở gia đình, trường học để  chúng ta được nhìn thấy những ngôi  trường thân thiện, những gia đình an vui. Làm thế nào để tất cả học sinh nói   riêng,   chúng   ta   nói   chung   trên   hành   trình   vạn   dặm   của   cuộc   đời,   có   thể  ngoảnh lại nhìn về  những năm tháng tuổi hồn nhiên, trong sáng dưới mái   trường với thầy cô, bạn bè, trong gia  đình với cha mẹ   để  mỉm cười yêu  thương và trân trọng, để  có thêm dũng khí và sức mạnh mà bước đi tới đích   thành công. Trước khi nghiên cứu, chúng tôi gửi lời xin lỗi xâu sắc tới những gia đình   có học sinh và những học sinh bị biểu hiện tâm lý nặng đã chủ  động chia sẻ  4
  4. cho chúng tôi những băn khoăn, những kí  ức buồn trong học tập, trong cuộc  sống.   Chúng tôi cũng xin gửi lời tạ  lỗi và tri ân sâu sắc tới cha mẹ, đồng  nghiệp, những người đã chịu đựng, đã yêu thương, bảo vệ nhưng cũng không  ít lúc làm chúng tôi tổn thương sâu sắc. Hành trình gian khổ ấy đã dần qua và   đang mở ra một trang mới tươi đẹp cho các em, nhất là các em học sinh dưới  mái trường Trung học phổ thông Tân Kỳ thân yêu. 1.2. Đóng góp mới của đề tài. Từ  trước đến nay đã có một số  đề  tài, bài viết, công trình nghiên cứu   về  thực trạng và đề  xuất một số  mô hình tham vấn tâm lý cho học sinh tại   các trường THPT. Song chủ yếu, các bài viết, các đề  tài này còn dừng lại  ở  tính lý thuyết hoặc mới chỉ đưa ra một số  giải pháp ứng dụng trong các lĩnh  vực mang tính vĩ mô hoặc các giải pháp cụ thể nhưng chỉ ứng dụng ở một số  lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống xã hội. Đặc biệt, các đề  tài đề  cập đến   các giải pháp về  tham vấn tâm lý cho học sinh THPT tại các đơn vị  trường   học trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói chung, địa bàn huyện Tân Kỳ nói riêng gần   như chưa thấy triển khai và áp dụng. Đề  tài này đã đi sâu nghiên cứu thực trạng,  ứng dụng,  đúc rút kinh  nghiệm về một số  mô hình mới giúp cho hoạt động tham vấn tâm lý tại nhà  trường đạt được hiệu quả  cao hơn. Qua đó, góp phần không nhỏ  trong việc  phát hiện và giảm thiểu các biểu hiện tâm lý tiêu cực  ở  các em HS THPT   hiện nay. 1.3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng các hoạt động về tham vấn tâm lý, từ đó xây dựng   các mô hình hỗ trợ, tham vấn tâm lý cho HS nhằm phòng ngừa, hỗ trợ và can  thiệp (khi cần thiết) đối với học sinh đang gặp phải khó khăn về tâm lý trong   học tập và cuộc sống, để tìm hướng giải quyết phù hợp, giảm thiểu tác động  tiêu cực có thể xảy ra, góp phần xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành  mạnh, thân thiện và phòng chống bạo lực học đường tại trường THPT Tân  Kỳ. 1.4. Phương pháp nghiên cứu ­ Phương pháp nghiên cứu lý luận Chúng tôi đã đọc và phân tích, tổng hợp các tài liệu liên quan đến đề tài  để xây dựng cơ sở lý luận bao gồm: + Phương pháp phân tích ­ tổng hợp nhiều tài liệu liên quan. + Phương pháp khái quát hóa những nhận định độc lập. ­ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm + Điều tra xã hội bằng phiếu khảo sát ý kiến học sinh; ý kiến của các bạn   về hoạt động TVTL, các dấu hiệu tâm lý tiêu cực ở trường THPT Tân Kỳ hiện  nay. 5
  5. + Phương pháp quan sát và tự quan sát: Thu thập thông tin và quan sát xem sự cần thiết, hiệu quả, mong muốn   hoạt động TVTL ở nhà trường hiện nay.  + Phương pháp phỏng vấn Được thực hiện trong nhiều hoàn cảnh: giờ  ra chơi, giờ  sinh hoạt 15   phút, đầu giờ học, qua trò chuyện trực tiếp. + Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia:  Khi thực hiện nghiên cứu đề  tài này chúng tôi đã trực tiếp gặp gỡ,   phỏng vấn, hỏi ý kiến một số chuyên gia về y học, về tâm lý, xã hội học để  giúp nhóm nghiên cứu có phương pháp, kiến thức rộng, sâu hơn như  chuyên  gia Đào Ngọc Cường… + Phương pháp thống kê toán học:  Để xử lý kết quả khảo sát thực trạng và mức độ hiệu quả của của các  mô hình TVTL cho HS tại trường THPT Tân Kỳ.  + Phương pháp phân tích số liệu:  Sau khi có các số liệu thu thập được từ kết quả thống kê, chúng tôi đã   phân tích để thấy được ý kiến của các bạn HS là cần thiết, mong muốn hoạt  động TVTL ở nhà trường hiện nay. Từ đó, tìm kiếm những mô hình để nâng  cao hiệu quả TVTL cho HS tại Trường THPT Tân Kỳ.  PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở lý luận đề tài.  2.1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài. 2.1.1.1. Khái niệm tham vấn (Counseling)  Hiệp hội các nhà tham vấn Hoa Kì (ACA, 1997) cho rằng:  Tham vấn là   sự  áp dụng nguyên tắc tâm lý, sức khỏe tinh thần hay nguyên tắc về sự  phát   triển con người thông qua các chiến lược can thiệp một cách có hệ thống về   nhận thức, xúc cảm, hành vi, tập trung vào sự  lành mạnh, sự  phát triển cá   nhân, phát triển nghề  nghiệp cũng như  vấn đề  bệnh lý. Như  vậy, quá trình   tham vấn được hiểu như là một mối quan hệ tự nguyện giữa nhà tham vấn và   khách hàng. Trong mối quan hệ  này nhà tham vấn giúp khách hàng tự  xác   định và tự giải quyết vấn đề của mình. Carl Rogers đã mô tả tham vấn như là quá trình trợ giúp trong mối quan  hệ an toàn với nhà trị liệu, đối tượng tìm thấy sự thoải mái, chia sẻ  và chấp  6
  6. nhận những trải nghiệm đã từng bị chối bỏ để  hướng tới sự  thay đổi. (Dẫn   theo Trần Thị Minh Đức (2009); Trần Đình Tuấn (2014) Theo C. Patterson (2000) thì “Tham vấn tâm lý là một loại quan hệ xã   hội, trong mối quan hệ  này, nhà tham vấn đưa ra điều kiện hoặc không khí   tâm lý nhất định, nhằm làm cho đối tượng được tham vấn thay đổi, tự  lựa   chọn và giải quyết vấn đề  của chính mình, đồng thời hình thành nên một cá   tính độc lập có trách nhiệm, từ đó trở thành một người tốt, một thành viên tốt   của xã hội” Theo Caplan (1970), tham vấn là 1 quá trình diễn ra giữa 2 người đều có  chuyên môn nghiệp vụ, người tham vấn là 1 chuyên gia, người nhận dịch vụ  tham vấn có yêu cầu giúp đỡ  từ  tham vấn viên, vấn đề  cần xử  lý liên quan   đến công việc. (Dẫn theo Trần Thị Minh Đức, 2009; Trần Đình Tuấn, 2014). Từ  những nghiên cứu về  tham vấn của các tác giả  trê n đã  cho thấy:  Bản chất của tham vấn là hoạt động trợ giúp thân chủ  tự  giải quyết vấn đề   của mình thông qua việc giúp thân chủ  hiểu được chính bản thân họ, nhận   biết được hoàn cảnh khó khăn hiện tại và những vấn đề  liên quan trong quá   khứ, phát hiện và phát huy được khả năng sẵn có của mình, đưa ra cách nhìn   mới về vấn đề  của họ  theo hướng tích cực mà không phải là cho lời khuyên   hay làm thay họ. Tham vấn là quá trình tạo khả năng cho một người để họ có   thể phân tích được vấn đề và có được quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống   của họ. Với ý nghĩa này tham vấn không chỉ  giúp họ  vượt qua được  vấn đề  hiện tại mà còn tăng khả  năng  ứng phó với những khó khăn trong tương lai,   giúp họ có cuộc sống tốt đẹp hơn. 2.1.1.2. Khái niệm tham vấn tâm lý cho học sinh Tham vấn tâm lý cho học sinh là sự tương tác, trợ giúp tâm lý, can thiệp   (khi cần thiết) của cán bộ, giáo viên tư vấn đối với học sinh khi gặp phải tình  huống khó khăn trong học tập, hoàn cảnh gia đình, mối quan hệ với người khác   hoặc nhận thức bản thân, từ  đó tăng cảm xúc tích cực, tự  lựa chọn và thực   hiện quyết định trong tình huống đó. (Thông tư số 31/2017/TT­BGD&ĐT ngày  18/12/2017) 2.1.1.3. Khái niệm tham vấn học đường  Tham vấn học đường là tất cả những hoạt động liên quan đến công tác  trợ  giúp giữa nhà tham vấn học đường với học sinh, sinh viên, phụ  huynh.   Nhằm mục đích giúp HS có điều kiện, cơ  hội phát triển tốt nhất; giúp phụ  huynh nhìn nhận, dạy dỗ, quản lý con mình trong mọi hoạt động học hành,  vui chơi giải trí một cách khoa học và hiệu quả nhất. School Counseling ­ Là sự trợ giúp tâm lý một cách chuyên nghiệp của  nhà tham vấn tâm lý học đường với thân chủ  (ban quản lý, lãnh đạo nhà  trường, thầy cô giáo, cha mẹ  phụ  huynh và học sinh) nhằm giải quyết các   7
  7. vấn đề trường học và sự phát triển lành mạnh của học sinh (Robert D.  Clark,  2011). 2.1.1.4. Hoạt động tham vấn học đường Hoạt động tham vấn học đường là tiến trình tổ  chức và triển khai các   nội dung tham vấn học đường theo mục tiêu, kế hoạch của cán bộ  tham vấn  học đường đặt ra phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ  của bản th ân hoạt động  này. Hoạt động tham vấn học đường là hoạt động đặc biệt, đòi hỏi người  làm tham vấn học đường và nhà trường phải vạch ra một kế  hoạch hành  động chung, có sự  tham gia phối hợp, hỗ trợ của các giáo viên, nhân viên và  cả  ban  đại diện phụ  huynh trong Hội đồng giáo dục dưới sự  lãnh đạo trực  tiếp của hiệu trưởng,  sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng trong cộng đồng  liên quan đến công tác giáo dục và tổ chức hoạt động giáo dục trong và ngoài   trường. Hoạt động này đòi hỏi cán bộ  tham vấn học đường không chỉ  làm  tham vấn tâm lý cho từng học sinh có vấn đề mà còn tham gia vào nhiều hoạt  động, nhiều mối quan hệ và cần có nhiều kiến thức kỹ năng nghiệp vụ khác,  để làm sao mọi học sinh đều được hưởng quyền được giáo dục, mọi nhà giáo  trong trường đều hợp tác làm việc theo kế hoạch có từng chủ điểm. Bốn nghiệp vụ  trong tư  vấn học đường là : Tư  vấn tâm lý, cố  vấn,   phối   hợp,   đánh   giá   phẩm   chất   (Counseling,  consulting,  Coordinating,  Appraising). Như  vậy, tư  vấn viên học đường còn là một nhà hành chính tổ  chức công tác giáo dục trong nhà trường. Tư  vấn viên học  đường còn là  người trợ thủ đắc lực cho hiệu trưởng: Lập kế hoạch, tổ chức, thực hiện, và   lượng giá  chương trình thông đạt tổng thể  nhà trường.  (Lê Sơn, Lê Hồng   Minh, 2014). 2.1.1.5. Khái niệm tư vấn tâm lý Tư vấn tâm lý cho HS là sự hỗ trợ tâm lý, giúp HS nâng cao hiểu biết về  bản thân, hoàn cảnh gia đình, mối quan hệ xã hội, từ đó tăng cảm xúc tích cực,  tự đưa ra quyết định trong tình huống khó khăn gặp phải khi đang học tại nhà   trường. (TT số 31/2017/TT­BGD&ĐT ngày 18/12/2017) 2.2. Cơ sở thực tiễn đề tài.  Ở Việt Nam chúng ta, mặc dù còn khá mới, song những năm gần đây,  lĩnh vực tâm lý học đường ngày càng trở  thành vấn đề  thu hút sự  quan tâm  của ngành giáo dục nói riêng và cả  xã hội nói chung. Nhất là trong bối cảnh  giới trẻ đang nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến đạo đức, lối sống… hay áp   lực thi cử, áp lực chọn ngành nghề trước ngưỡng cửa vào đời. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành nhiều văn bản, quyết định về  công tác tư  vấn, tư  vấn tâm lý và các vấn đề  xã hội cho học sinh, sinh viên.   Gần đây nhất, Bộ  đã ban hành Thông tư  31/2017/TT­BGDĐT “Hướng dẫn   8
  8. thực hiện công tác tư  vấn tâm lý cho học sinh trong trường phổ  thông” có   hiệu lực từ 2/2/2018, góp phần giải quyết những tồn tại hiện nay. Tuy nhiên,  một hạn chế  lớn trong  thực tiễn triển khai công tác tham vấn, tư  vấn học  đường chính là nguồn nhân lực chưa có đủ  trình độ  và kỹ  năng, bởi hầu hết   hiện các nhà trường chưa có cán bộ chuyên trách làm công tác tham vấn tâm lý  học đường. Việt Nam hiện nay, trong các trường THPT  trên toàn đất nước, đã và  đang có nhiều mô hình tham vấn tâm lý học đường hình thành và hoạt động   rất hiệu quả. Có thể  kế đến CLB tư  vấn học đường Trường THPT Nguyễn   Du, thành phố  Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Không chỉ  trực  ở  phòng tư  vấn học  đường, cởi mở đón tiếp học sinh, nhận câu hỏi từ  hộp thư, tư  vấn trực tiếp   và tư  vấn qua một số  trang mạng xã hội. CLB tư  vấn học đường Trường   THPT Nguyễn Du còn chủ động thiết kế các chuyên đề mang tính thời sự  có  chất lượng giáo dục cao, đa dạng hóa hình thức tư vấn đem lại sự hứng thú,  phấn khởi cho học sinh. CLB sinh hoạt đều đặn 2 lần/tháng, với thời lượng   35 phút mỗi lần sinh hoạt. Với phương châm “tư vấn nhẹ nhàng, vui tươi, đề  cao sự chủ động tích cực của học sinh” luôn làm cho không khí sinh hoạt các  chuyên đề tư vấn hàng tháng lôi cuốn hấp dẫn học sinh. Mô   hình   tư   vấn   tâm   lý   học   đường   của   Trường   THPT   Khoái   Châu  (Hưng Yên) cũng là một trong những điểm sáng của hoạt động tham vấn tâm   lý. Nhà trường đã ra quyết định thành lập tổ tư vấn theo các thành phần cứng  như  quy định và có thể bổ sung cho phù hợp với thực tế nguồn thành viên tổ  tư   vấn   của  trường   như:   Ban   giám   hiệu,   Đoàn   Thanh   niên,   giáo   viên   chủ  nhiệm, nhân viên y tế học đường và giáo viên bộ môn Giáo dục công dân. Các  thành viên tổ tư vấn được giao phụ trách nắm bắt, thu thập thông tin, sàng lọc   (trực tiếp qua giáo viên chủ nhiệm hay chính học sinh, hoặc gián tiếp qua hòm  thư  góp ý, hòm thư  tư  vấn và thư  điện tử  mà học sinh gửi đến). Trực tiếp   gặp gỡ  học sinh tìm hiểu và kiểm tra các thông tin (có thể  là giáo viên chủ  nhiệm, cán bộ quản lý, hay giao cho bộ phận phụ trách, thành viên tổ tư vấn).  Cùng với đó, gặp gỡ các đối tượng học sinh hoặc người có liên quan để làm  rõ hơn thông tin. Tổng hợp, tìm nguyên nhân, biện pháp giúp đỡ học sinh. Có  thông tin phản hồi tích cực đến học sinh và giáo viên chủ  nhiệm lớp có học  sinh cần giúp đỡ để tiếp tục theo dõi, nắm bắt thông tin từ phía học sinh  lớp  mình. Nếu cần thiết thì phối hợp với cha mẹ học sinh hoặc những người có  liên quan cùng chung tay hỗ trợ, tìm biện pháp giúp đỡ học sinh. Đặc biệt từ  năm 2007, công tác tư  vấn tâm lý cho học sinh Trường  THPT Đinh Tiên Hoàng (Hà Nội) đưa vào thực hiện bài bản. Các hoạt động   tư  vấn tâm lý tại đây đã thật sự  hiệu quả  và chuyên nghiệp. Trường THPT   Đinh Tiên Hoàng (Hà Nội) cũng đã xây dựng thành công mô hình phát hiện và   can thiệp đối với học sinh có biểu hiện tâm lý tiêu cực và đã được đánh giá là  rất thành công qua thực nghiệm thực tế. 9
  9. 2.3. Tổng quan các nghiên cứu về tham vấn và tham vấn tâm lý học   đường. 2.3.1. Trên thế giới Tham vấn tâm lý học đường hay còn gọi là tham vấn học đường là một  nhánh của ngành tham vấn tâm lý được xuất hiện vào đầu thế kỷ XX tại Hoa  Kỳ. Jesse B. Davis có thể được xem là một trong những người đầu tiên trong  lĩnh vực này khi giới thiệu một chương trình “Những hướng dẫn về  nghề  nghiệp và đạo đức” (Vocational and Moral Guidance) cho học sinh các trường  học công. Frank Parsons, được xem như cha đẻ của nghề Hướng dẫn (còn gọi  Khải đạo), đã viết cuốn sách “Chọn lựa  một nghề  ” (Choosing  a  Vocation)  vào năm 1909 qua đó trình bày phương pháp kết nối những đặc điểm tính cách   của một cá nhân với một nghề nghiệp. Jesse Davis, Frank Parsons, Eli Weaver   và nhiều người khác nữa đã tạo thành một trào lưu thúc đẩy cho sự phát triển  của ngành tham vấn học đường. Những năm 1930, lý thuyết đầu tiên về  Khải đạo được giới thiệu: Lý  thuyết về các nhân tố và đặc điểm của E. G.  Williamson, (E. G. Williamson’s  Trait and Factor theory). Lý thuyết  này trở  nên nổi tiếng như  là một sự  chỉ  đạo cho hoạt động tham vấn. Năm 1940, đạo luật George Barden (George Barden Act) – đạo luật về  giáo dục hướng nghiệp – ra đời đã mang lại những nguồn lực quan trọng cho   sự phát triển và hỗ trợ hoạt động khải đạo và tham vấn trong môi trường học  đường cũng như những môi trường khác. Đây là lần đầu tiên những nhà tham  vấn học đường, những  kiểm huấn viên địa phương  và các tiểu ban nhận  được những sự  hỗ  trợ  chính thức từ  chính phủ  (sự  điều hành, tài chính và   nguồn nhân lực…). Năm 1957, năm mà vệ  tinh Sputnik của Nga được phóng vào quỹ  đạo  cũng là thời điểm mà  ngành tham vấn  và khải đạo được “phóng lên”.  Tiếp  theo đó, đạo luật Nat’l Defense Ed. Act (NDEA) ra đời năm 1958. Năm   1953,   hiệp   hội   các   nhà   tham   vấn   tâm   lý   học   đường   Hoa   Kỳ  (ASCA) tham gia vào APGA (American Personnel and Guidance Association),  tiền thân của hiệp hội tham vấn tâm lý Hoa Kỳ  ACA (American Counseling   Association) ngày nay. Năm 1962, cuốn sách của Wrenn, Nhà tham vấn trong  một thế  giới thay đổi (The Counselor in a Changing World) đã định chế  hóa  các mục tiêu của tham vấn học đường. Năm 1964, ASCA phát triển các vai trò  và chức năng dành cho các nhà tham vấn học đường. Năm 1965, đạo luật Giáo dục Tiểu học và Trung học (Elementary and  Secondary Education Act) ra đời và cung cấp nguồn quỹ để  phát triển những  cơ hội giáo dục cho những gia đình nghèo. Đến những năm 80 và 90, nhu cầu  về việc làm rõ những đặc tính và vai trò của nhà tham vấn học đường được   xuất hiện với sự “chín muồi” của những vấn đề pháp lý liên quan. 10
  10. Năm 1997, Tiêu chuẩn quốc gia dành cho các chương trình tham vấn  học đường (National Standards for School Counseling Programs) ra đời và kể  từ đó, ngành tham vấn học đường được xem là đã hoàn thiện. Hiện nay, hiệp hội các nhà tham vấn học đường Hoa Kỳ (ASCA) được  xem là nguồn tham khảo và kiểu mẫu cho các chương trình tham vấn tâm lý   học đường của hầu hết các nước trên thế giới. ASCA hiện tại có hơn 23.000  hội viên trên toàn thế  giới và là một phân hội của ACA với hơn 60.000 hội   viên trên toàn thế giới. 2.3.2. Ở Việt Nam Trong hơn 10 năm qua, với sự  xuất hiện hàng loạt những vấn đề  liên   quan đến đạo đức, kỷ  luật trường học, học sinh tự  tử, áp lực thi cử, những   rối loạn tâm lý, quan hệ thầy trò… của các trường học Việt Nam, những nhà   giáo dục, tâm lý và cùng những tổ  chức và các cơ  quan hữu trách đã “giật  mình” và bắt đầu đề  cập đến  việc phải  có các hoạt động tham vấn tâm lý  trong trường học. Năm 2003, hội thảo “Nhu cầu tư vấn học đường tại thành phố Hồ Chí  Minh” được Viện Nghiên cứu Giáo dục, trường ĐHSP  thành phố  Hồ  Chí  Minh tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà tâm lý, giáo dục và hiệu trưởng  các trường có hoạt động tham vấn học đường để “mổ xẻ” và kêu gọi sự quan   tâm của giới chuyên môn cũng như  các cơ  quan chính phủ  trong việc có các  chiến lược nhằm phát triển hoạt động tham vấn học đường tại Việt Nam.  Cũng trong thời gian này, một vài sinh viên khoa Tâm lý – Giáo dục trường  ĐHSP  thành phố  Hồ  Chí Minh  đã chọn đề  tài cho luận văn tốt nghiệp của  mình về  vấn đề  tham vấn học đường. Những “sự  kiện” này được xem là   những bước khởi đầu cho nhiều sự  thay đổi tiếp theo của ngành tham vấn  học đường tại Việt Nam. Năm 2004, Trung tâm Hỗ  trợ  tư  vấn tâm lý (CACP) thuộc trường Đại  học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội được thành lập và cũng đề cập đến  hoạt động nghiên cứu và hỗ trợ hoạt động tham vấn học đường. Năm 2005, với sự chấp thuận của  Ủy ban Dân số – Gia đình – Trẻ em   thành phố Hồ Chí Minh và sự hỗ trợ của UNICEF, Văn phòng tư vấn trẻ em   thành phố  Hồ  Chí Minh  đã tổ  chức hội thảo “Kinh nghiệm bước đầu thực  hiện mô hình tham vấn trong trường học”  cũng nhận  được sự  quan tâm và  chia sẻ kinh nghiệm thực tế của nhiều chuyên gia và những nhà lãnh đạo các  trường học. Đầu năm 2006, hội nghị toàn quốc về “Tư vấn tâm lý – giáo dục  – thực tiễn và định hướng phát triển” do Hội khoa học Tâm lý – Giáo dục   thành phố  Hồ  Chí  Minh  tổ  chức cũng đề  cập đến vấn đề  tham vấn học   đường như  là một điều “khẩn thiết” nhằm hỗ  trợ  học sinh và nhà trường   trong hoạt động giáo dục. Sở  Giáo dục – Đào tạo  thành phố  Hồ  Chí Minh  cũng tổ chức những buổi sinh hoạt đề cập đến hoạt động tư vấn học đường  11
  11. trong thời gian này với sự  tham gia của các nhà tâm lý, giáo dục, nhà trường  và phụ huynh học sinh. Trong khoảng thời gian này, một số văn bản của Bộ Giáo dục đã được  ban hành nhằm chỉ  đạo và hướng dẫn các Sở  và trường học cùng những tổ  chức liên quan trong việc triển khai thực hiện chương trình tham vấn học  đường. Ngoài ra, chuyên mục tham vấn học đường  do báo  Phụ  nữ  thành phố  Hồ  Chí Minh khởi xướng (Thạc sĩ. Nguyễn Thị  Oanh phụ  trách) cũng nhận  được sự  hưởng  ứng rất nhiệt tình của đông đảo học sinh, phụ  huynh và các  trường học. Tháng 06 năm 2006, cuốn sách “Tư  vấn tâm lý học đường” của   tác giả Nguyễn Thị Oanh đã được nhà xuất bản Trẻ phát hành trên toàn quốc. Đến nay, vấn đề  tham vấn học đường tại Việt Nam đã trở  thành một   đề  tài nóng bỏng và nhận được nhiều sự   ủng hộ  từ  các em học sinh, phụ  huynh, nhà trường, các nhà tâm lý ­ giáo dục và các tổ  chức thuộc chính phủ  cũng như các tổ chức phi chính phủ. Trong quá trình tìm kiếm và nghiên cứu tài liệu, chúng tôi đã nhận thấy  hiện nay có khá nhiều tài liệu liên quan để  hoạt động tham vấn tâm lý như:   Tác phẩm “Công tác tham vấn trẻ  em, Giới thiệu thực hành” của Kathryn  Geldard và David Geldard (Nguyễn Xuân Nghĩa và Lê Lộc dịch,  NXB Đại học  Mở – Bán công thành phố Hồ Chí Minh); Tác phẩm “Bạn  có hấp dẫn không”  của TS.Tâm lý học Jesse S.Nirenberg (nhóm Ánh Dương biên soạn, NXB Trẻ  phát hành); Ngoài ra, tác phẩm “Tiến hình thành nhân” của nhà tâm lý học lỗi lạc  trên thế giới Carl Rogers (Ts. Tâm lý học Tô Thị Ánh và Vũ Trọng Ứng dịch,  NXB Thành phố Hồ Chí Minh phát hành) cung cấp một quan điểm, một cách   tiếp cận hiệu quả trong tham vấn theo trường phái tâm lý học nhân văn; Đặc biệt, là các tài liệu của UNICEF về tập huấn “Công tác tham vấn  trẻ em” cho các giảng viên; Tác phẩm “Hãy để lớp trẻ tự lựa chọn hay nghệ  thuật kết của cuộc sống lứa đôi” của TS. Julian Hafner (Nguyễn Thanh Vấn   dịch, NXB Phụ  Nữ  phát hành) là một tài liệu hữu ích khi trình bày về  các ca  tham vấn thành công dùng để  tham khảo cho những người thực hành tham  vấn cá nhân. Các tác giả  Việt Nam, những người có công đầu trong việc thực hành   và phát triển nghề tham vấn phải kể đến bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (lĩnh vực  tham vấn trẻ  em gia đình); Bác sĩ Đỗ  Hồng Ngọc; GS. PTS Lê Diên Hồng,   Bùi Đại, Bác sĩ Phan Văn Trường, Ngô Thị  Khánh, Nguyễn Văn Kính (lĩnh  vực tham vấn HIV/AIDS). Bên cạnh đó có khá nhiều bài báo đề cập đến lĩnh   vực này rất hữu ích để chúng tôi nghiên cứu như: Bài viết “Về tâm lý học tư   vấn” của TS. Nguyễn Thị  Phương Hoa  đăng trên tạp chí Tâm lý học số  2/  1999 đã giới thiệu về tâm lý học tư vấn và triển vọng phát triển tâm lý học tư  12
  12. vấn ở nước ta; Bài viết "Tư vấn hay tham vấn – Thuật ngữ và cách tiếp cận"  của PGS.TS Trần Thị Minh Đức, ĐHKHXHNV Hà Nội đăng trên Kỷ yếu hội  nghị  Tâm lý học, tháng 2/2003 bàn về  sự  khác nhau của tư  vấn và tham vấn   và các cách tiếp cận khác nhau khi giúp đỡ thân chủ... Ngoài ra còn có những  bài báo giới thiệu phương pháp tham vấn như  “Các phản  ứng tư  vấn cơ   bản” của Đỗ Ngọc Khanh... Các nghiên cứu trên cho thấy bức tranh chung về nhu cầu cấp thiết cần   phải có những mô hình hoạt động cụ  thể để  hỗ  trợ  tâm lý cho các đối tượng   trong xã hội nói chung, trong đó, vấn đề TVTL học đường là một nội dung cấp  thiết cần được quan tâm hàng đầu trong xã hội ngày nay. 2.4.   Thực   trạng   hoạt   động   tham   vấn   tâm   lý   cho   học   sinh   tại  trường THPT Tân Kỳ trong thời gian qua. 2.4.1. Thuận lợi Ngày 18/12/2017,  Bộ  Giáo dục và Đào tạo đã ban hành  Thông tư  số  31/2017/TT­BGD&ĐT hướng dẫn thực hiện công tác tư vấn cho học sinh trong  trường phổ  thông. Làm cơ  sở  cho việc hoạt động tham vấn tâm lý được đưa  vào nội dung kế hoạch hàng năm  trong nhà trường được thuận lợi. Nhà trường đã thành lập phòng tư vấn học đường, có các trang thiết bị  cần thiết phục vụ cho hoạt động tham vấn tâm lý đạt hiệu quả. Đội ngũ giáo viên đạt chuẩn trình độ  đào tạo, có nhiều kinh nghiệm   trong công tác tham vấn tâm lý cho học sinh. Có sự  phối hợp với hội phụ  huynh,  các cấp, chính quyền địa phương   tạo điều kiện thuận lợi cho công tác hoạt động tham vấn tâm lý tại nhà trường.  Rất nhiều học sinh THPT có nhu cầu tham vấn tâm lý, là động lực thúc  đẩy HS tìm kiếm đến nhà tham vấn học đường để được trò chuyện, chia sẻ,   thấu cảm, trợ  giúp trước những khó khăn tâm lý mà các em không tự  giải  quyết được. Vấn đề  này nếu được giải quyết đúng hướng sẽ  tác động tích  cực đến chất lượng học tập cũng như cuộc sống của học sinh. 2.4.2. Khó khăn 2.4.2.1. Một số vấn đề về học sinh THPT Các em HS  ở độ  tuổi này không còn là trẻ  con mà cũng chưa là người  lớn thực sự, tâm lý phát triển phức tạp, nhiều lúc  ương ngạnh, hiếu thắng,  thậm chí có những biểu hiện bất cần có thể dẫn tới hành động tiêu cực. Tính  cách các em cũng dễ nóng nảy, hay cãi cọ, cáu gắt, vui buồn vô cớ, có bạn dễ  làm những việc điên rồ, ngông cuồng, quá khích, chống đối. Một thực tế cho  thấy tỷ  lệ  tội phạm hay các vụ  án bạo lực, tự  hành xác, tự  tử  phần lớn rơi   vào lứa tuổi này. HS như những mầm cây xanh tươi, nếu chăm bón tốt thì sẽ  13
  13. có hoa thơm trái ngọt, nếu lơ  là, gió bão, mưa nắng cuộc đời sẽ  làm những   mầm xanh trụi lá.  2.4.2.2. Khó khăn tâm lý Ở  lứa tuổi học sinh THPT, các em gặp khó khăn trong việc xây dựng   mối quan hệ với người lớn. Phần lớn, các em học sinh luôn mong muốn được   thừa nhận sự  “trưởng thành” của mình. Có nhu cầu tự  khẳng định mình là  một con người có quyền bình đẳng với người lớn, muốn độc lập, tự  quyết.  Tuy nhiên, trong mắt người lớn, ông bà, bố  mẹ, chúng tôi luôn là những đứa   trẻ bé bỏng, cần được chở che, bao bọc. Điều này đã dẫn đến việc nảy sinh  một số mâu thuẫn giữa thiếu niên với người lớn, đặc biệt là giữa con cái với   bố mẹ.    Trên cơ  sở  những vấn đề  lý luận cơ  bản từ  các khái niệm được sử  dụng, từ  thực tiễn nắm bắt tâm lý lứa tuổi của các em học sinh, từ  thực tế  các mối quan hệ diễn ra trong và ngoài nhà trường, chúng tôi nhận thức được  vai trò vô cùng quan trọng của TVTL cho học sinh tại trường THPT Tân Kỳ.  Từ đó, chúng tôi xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, sứ mệnh , sự cần thiết của  thầy cô, cha mẹ, bạn bè trong vấn đề  TVTL  để  giúp HS vượt qua khó khăn  trong học tập và cuộc sống.  2.4.3. Đánh giá chung thực trạng hoạt động tham vấn tâm lý cho  học sinh tại trường THPT Tân Kỳ.  2.4.3.1. Sự cần thiết của các hoạt động TVTL cho HS tại trường THPT  Tân Kỳ.  Chúng tôi tiến hành khảo sát, điều tra chính thức được thực hiện trên   529 HS từ  lớp 10 đến lớp 12 năm học 2020­2021 của trường THPT Tân Kỳ,   cụ thể như sau: Nam Nữ Trường Tổng Khối Khối Khối Khối Khối Khối 10 11 12 10 11 12 THPT  81 90 89 92 89 88 Tân Kỳ 260 269 529 Bảng 1.1. Thống kê khách thể nghiên cứu thực trạng Chúng tôi đã sử  dụng nội dung phiếu câu hỏi phần phụ  lục 1. Sau đó  thống kê và tính trung bình số  HS trả  lời đúng các câu hỏi trong phiếu điều  tra. Bên  cạch đó  chúng tôi còn kết hợp với phương pháp phỏng vấn sâu và  14
  14. phương pháp quan sát để  đưa ra kết luận một cách chính xác nhất. Kết quả  nhận thức của HS thể hiện qua bảng số liệu sau: Qua biểu đồ  ta thấy, có 41.58% HS cho rằng các hoạt động này không  thực sự cần thiết; 36.69% Hs vẫn đang còn phân vân, chưa thật sự biết được  liệu các hoạt động tham vấn tâm lý cho HS tại trường THPT có thật sự  cần  thiết hay không. Sở dĩ một số bạn HS cho rằng TVTL  HS THPT là không cần  thiết bởi các em nghĩ rằng bên cạnh mình luôn có cha mẹ, thầy cô… Nếu có   chuyện gì quan trọng thì đã có cha mẹ, thầy cô giải quyết, không nên suy nghĩ  làm gì cho mệt. Sự phân vân của các em HS cũng là một điều dễ hiểu, bởi các  em chưa nhận thức được đầy đủ  và chưa thật sự  hiểu biết cặn kẽ về tâm lý  tuổi  HS  THPT  cũng như  các hoạt động cần thiết thực hiện trong vấn  đề  TVTL. 2.4.3.2.   Mức   độ   hiệu   quả   của   một   số   MH   TVTL   cho   HS   tại   trường THPT Tân Kỳ. Qua khảo sát đánh giá về tính hiệu quả  của một số mô hình TVTL tại  trường THPT Tân Kỳ, chỉ có 2.83% HS được khảo sát cho rằng các mô hình   TVTL tại Trường THPT Tân Kỳ được tổ chức rất hiệu quả; 10.01% cho rằng   hiệu quả;  36.31% cho rằng không hiệu quả. Trong khi đó có tới 50.85% HS  đánh giá thiếu hiệu quả. Qua tìm hiểu thực trạng, chúng tôi nhận thấy, sở dĩ   một số MH TVTL cho HS tại trường THPT Tân Kỳ  đạt kết quả  chưa cao là  do những  nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất: HS chưa nhận thức được vai trò của một số MH TVTL, đa  số các em cho biết, rất e ngại khi được tham vấn vì không muốn người khác  biết chuyện khó nói của mình. Thứ  hai:  Các mô hình tham vấn còn khô khan, chưa sinh động, nội  dung chưa phù hợp nên gây nhàm chán cho các em HS. 15
  15. Thứ ba: Những thành viên làm công tác TVTL tự tìm tòi kiến thức, làm  việc bằng kinh nghiệm và tấm lòng là chính,  chưa lên  kế  hoạch TVTL cụ  thể. Vì thế, khiến công tác này chưa hiệu quả, thiếu kỹ  năng và kiến thức  khoa học. Thứ  tư:  Nguồn kinh phí cho hoạt động TVTL còn eo hẹp, chủ  yếu là  trích từ ngân sách chi thường xuyên của nhà trường. cho nên gây khó khăn không   nhỏ cho cho việc nâng cao chất lượng TVTL cho học sinh. 2.4.3.3. Sự mong muốn của HS về nhà tham vấn tâm lý Để góp phần nâng cao hiệu quả và sự  tin tưởng của các em HS, chúng   tôi đã nghiên cứu, đã thiết kế các câu hỏi thăm dò và thu được một số ý kiến   đề xuất. Có 36.61 % các em học sinh cho rằng “Sự   thấu hiểu, lắng nghe của  người tư  vấn” là rất quan trọng khi thực hiện công tác tham vấn tâm lý cho  HS THPT. Bên cạnh đó, 27.59% HS cần “Giữ gìn thông tin cá nhân của HS”,  24.76% HS cần “Sự thân thiện và cởi mở của người tư vấn”. Tuy nhiên, cũng  có 13.04% HS không yêu cầu gì. Các hình thức TVTL mà các em HS mong muốn cũng khá phong phú.  Hình thức mà các em học sinh mong muốn nhất là “Tham vấn trực tiếp”  (54.06% ý kiến đề  xuất). Tiếp theo là “Tham vấn  qua  facebook” (17.01%),  “Tham vấn qua điện thoại” (15.89%) và “Tham vấn qua thư từ” (13.04%). Kết luận : Nhìn chung, thực trạng HĐ TVTL cho HS tại trường THPT  Tân Kỳ  hiện nay chưa đạt hiệu quả  như  mong muốn. Thực trạng này có cả  nguyên nhân khách quan và chủ  quan, trong đó, nguyên nhân chủ  quan là chủ  yếu, trong khi HĐ TVTL cho HS là vô cùng quan trọng. Vì vậy, chúng tôi đề  xuất một số  giải pháp TVTL cho HS tại trường THPT Tân Kỳ, với hy vọng   giúp các em HS vượt qua những khó khăn về tâm lý trong học tập và trong cuộc  sống. 2.5.   Đề  xuất một số  mô hình tham vấn tâm lý cho học sinh tại  trường THPT Tân Kỳ . 2.5.1. Mô hình phát huy hiệu quả vai trò của các thành viên trong tổ  tư vấn tâm lý. ­ Mục Đích: Giúp các thành viên trong tổ tư vấn trường THPT Tân Kỳ  hoạt động hiệu quả  hơn trong việc phát hiện sớm, giải đáp kịp thời những   khó khăn về tâm lý trong học tập và cuộc sống đối với các em HS. ­ Cách tiến hành: Theo thông tư số 31/2017/TT­BGDDT ngày 18 tháng 12  năm 2017 về  hướng dẫn thực hiện công tác tư  vấn tâm lý cho học sinh trong   trường phổ thông,  năm 2018 trường THPT Tân Kỳ đã thành lập tổ  tư  vấn, hỗ  trợ  học sinh gồm: Lãnh đạo nhà trường làm tổ  trưởng;   thành viên là cán bộ,  giáo viên kiêm nhiệm công tác tư vấn tâm lý, nhân viên y tế trường học, cán   bộ, giáo viên phụ trách công tác Đoàn, Hội, đại diện cha mẹ học sinh và một   16
  16. số học sinh là cán bộ lớp, cán bộ Đoàn, Hội. Cán bộ, giáo viên kiêm nhiệm công tác tư  vấn cho học sinh của nhà  trường là người có kinh nghiệm và được tập huấn, bồi dưỡng về  chuyên   môn, nghiệp vụ tư vấn tâm lý do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức. Giáo viên   kiêm nhiệm công tác tư vấn tâm lý được hưởng định mức giảm tiết dạy theo  quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. (Hình ảnh: Giờ làm việc của các thành viên tổ tư vấn) Như  vậy trong thành phần tổ  tư  vấn nhà trường, chúng tôi đã vinh dự  được nhà trường lựa chọn. Tuy nhiên, điều chúng tôi luôn trăn trở là làm sao để  phát huy vai trò của mình trong tổ tư vấn. Sau quá trình suy nghĩ, chúng tôi chủ  động đăng ký tham vấn theo từng lĩnh vực phù hợp với khả  năng của từng  thành viên có sự hướng dẫn của các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực  này. Cụ thể như sau: TT Họ và tên Tham vấn lĩnh vực 1 Lê Khắc Thục (Hiệu trưởng) Tham vấn giáo dục kỹ năng, biện pháp ứng xử văn  hóa,   chống   bạo   lực,   xâm   hại   và   xây   dựng   môi  Lương Văn Việt (PHT, tổ trưởng) trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện. SĐT: 0943570054 Nguyễn Xuân Việt (HS lớp 11C7) 2 Nguyễn Thị Thanh Tĩnh ( PHT) Tham vấn kỹ năng, phương pháp học tập hiệu quả  và định hướng nghề nghiệp Phạm Công Thành (GV: GDCD) SĐT. 094337976 3 Đậu Minh Nghĩa (GV: GDCD) Tham vấn tăng cường khả  năng  ứng phó vấn đề  phát sinh trong mối quan hệ gia đình, thầy cô, bạn  SĐT: 0949384666 bè và các mối quan hệ xã hội khác. Nguyễn Thùy Linh (HS lớp 10C1) SĐT:0857166547 4 Nguyễn Cảnh Hiếu (Bí thư đoàn) TVTL đối với HS gặp khó khăn cần hỗ  trợ, đưa  HS đến các cơ  sở, chuyên gia điều trị  tâm lý đối  SDT: 0918184666 với   các   trường   hợp   HS   bị   rối   loạn   tâm   lý   nằm  17
  17. Đào Công Lân (Hội trưởng HPH) ngoài khả năng tư vấn của nhà trường. SĐT: 0942798459 5 Hoàng Thị Thảo (Nhân viên y tế) Tham vấn giới tính, hôn nhân, gia đình, sức khỏe   sinh sản vị thành niên phù hợp với lứa tuổi. SĐT:0832150887 Hồ Thị Thanh Hương ( Phó bí thư) SĐT: 0943879400 Nguyên tắc làm việc của chúng tôi trong tổ tư vấn: Ân cần, nhẹ nhàng, thể hiện sự đồng cảm, thân   thiện, cởi mở, giữ gìn thông tin bí mật cá nhân cho người được tham vấn. Ngay đầu năm học, chúng tôi tiến hành thiết kế  mẫu phiếu đề  nghị  được tham vấn (Nội dung mẫu phiếu đề nghị được tham vấn được trình bày  ở phần phụ lục 3). Để tạo điều kiện cho các em HS nhất là các em có tâm lý e ngại, chúng  tôi thiết kế  hòm phiếu “Điều  em muốn nói”.  Hàng tuần các HS cần hỗ  trợ  tham vấn sẽ lấy phiếu đề nghị được tham vấn tại hộp  đựng phiếu bên ngoài  phòng tư vấn. Các  phiếu đề  nghị  được tham vấn sẽ  được các em HS bỏ  vào hòm  phiếu, hàng ngày chúng tôi sẽ mở hòm phiếu, tiến hành  đếm phiếu, phân loại  lĩnh vực tham vấn, trực tiếp hoặc  mời các thành viên tổ tư vấn là các thầy, cô  phụ  trách lĩnh vực được phân công tiến hành đánh giá thông qua quan sát,   phỏng vấn sơ bộ và đôi khi có thể được đánh giá bằng các trắc nghiệm tâm lý   chuyên sâu tại trường hoặc  ở  các đơn vị  độc lập. Kết quả  đánh giá này sẽ  giúp chúng tôi xác định mức độ   ưu tiên của  từng vấn đề và quyết định hình  thức hỗ  trợ. “Khi một bạn HS được quyết định là sẽ  nhận sự  hỗ  trợ,  HS đó  sẽ có một khung giờ làm việc riêng với thành viên tổ tư vấn tâm lý hàng tuần.  Song song với việc gặp riêng HS hàng tuần, chúng tôi cùng với thành viên tổ  tư  vấn tâm lý cũng sẽ  làm việc với giáo viên và phối hợp với phụ huynh để  thống nhất về  cách thức hỗ  trợ  các em học sinh đó trong các hoạt động  ở  những bối cảnh khác nhau, thành viên tổ  tư  vấn tâm lý sẽ  lượng giá sự  tiến  bộ của học sinh định kỳ. 18
  18. Việc hỗ  trợ dừng lại khi kết quả lượng giá cho thấy HS đó đã có tiến   bộ, đạt được mục tiêu đề  ra ban đầu. Ngay cả  khi đã kết thúc hỗ  trợ, thành  viên tổ tư vấn tâm lý vẫn giữ mối liên hệ với những HS này để có thể hỗ trợ  bất cứ lúc nào mà HS cần. (Hình ảnh: Thành viên tổ  tư  vấn thu  phiếu tại hộp thư  và tham vấn cho học   sinh) ­ Hiệu quả: Thông qua cách làm này, trong năm học qua, chúng tôi đã nhận   được 76 phiếu đề nghị được tư vấn tâm lý ở 5 nhóm lĩnh vực khác nhau. Đã tiến   hành các hoạt động hỗ  trợ  kịp thời, từ đó, giúp các em  HS vượt qua khó khăn  trong học tập và trong cuộc sống, được nhà trường, hội phụ huynh đánh giá cao. 2.5.2. Mô hình thành lập  CLB  tham vấn tâm lý học đường “đồng  hành cùng bạn”. Không chỉ  trực  ở  phòng tư  vấn học đường, cởi mở  đón tiếp HS, nhận  câu hỏi từ  hộp thư, tư  vấn trực tiếp... mà CLB tham vấn học đường “đồng  hành cùng bạn” trường THPT Tân Kỳ cũng được thành lập. ­ Mục đích: Bảo vệ quyền lợi, hỗ trợ và tham vấn đối với HS gặp khó  khăn   về   tâm   lý.   Là   đại   diện   cho   tâm   tư,   nguyện   vọng   cho   học   sinh   nhà  trường. ­ Cách tiến hành thành lập: (Theo Nghị định 45/2010/NĐ­CP) + Đơn xin phép thành lập CLB tham vấn tâm lý học đường “đồng hành   cùng bạn”. + Phạm vi hoạt động: Trường THPT Tân Kỳ 19
  19. + Nguyên tắc, tổ chức, hoạt động của CLB: Tự nguyện, dân chủ, bình  đẳng, tự đảm bảo kinh phí hoạt động, không vì mục đích lợi nhuận, tuân thủ  hiến pháp, pháp luật và điều lệ CLB. ­ Nghĩa vụ của thành viên:  + Nhiệt tình tham gia hoạt động CLB, đưa ra ý tưởng xây dựng các   chuyên đề, để xây dựng CLB ngày càng phát triển. + Tham gia CLB với tinh thần trách nhiệm cao. + Tuân thủ mọi quy định, quy chế phối hợp của CLB. ­ Quyền lợi: Tất cả  thành viên CLB đều có quyền và nghĩa vụ  ngang  nhau. + Được tham gia các hoạt động của CLB + Khi gặp các khó khăn về  tâm lý sẽ  được các thành viên trong CLB   giúp đỡ, tháo gỡ những khó khăn thắc mắc. ­ Phòng sinh hoạt CLB: Cùng sinh hoạt tại văn phòng Đoàn trường. ­ Số lượng thành viên CLB: Bạn Nguyễn Xuân Việt (Bí Thư lớp 11C7 ­  chủ tịch), BíThư các chi đoàn và lớp trưởng các lớp. ­ Kinh phí hoạt động:  Tự  đóng góp kinh phí hoặc có thể  kêu gọi các  doanh nghiệp, các nhà tài trợ trên địa bàn. ­ Hình thức hoạt động: Hoạt động phối hợp với BGH, BCH đoàn và tổ  TVTL. (Hình ảnh: CLB TVTL học đường   “Đồng hành cùng bạn” Trường THPT Tân Kỳ)           Cách tiến hành hoạt động tham vấn tâm lý của CLB: Dựa trên vai trò, cơ cấu tổ chức, các thành viên trong CLB đã chủ động  thiết kế  các chuyên đề  mang tính thời sự, có chất lượng giáo dục cao, đa   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2