Tiểu luận: Dịch vụ công trên địa bàn Vĩnh Phúc
lượt xem 24
download
Bài tiểu luận với đề tài "Dịch vụ công trên địa bàn Vĩnh Phúc" trình bày 2 nội dung chính: Thực trạng các dịch vụ công ở nông thôn Vĩnh Phúc, định hướng phát triển dịch vụ công ở nông thôn và giải pháp thực hiện cho giai đoạn tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Dịch vụ công trên địa bàn Vĩnh Phúc
- Trang 1
- LỜI MỞ ĐẦU Cách đây hơn 30 năm, Vĩnh Phúc được cả nước biết đến là quê hương của "Khoán hộ", với những bứt phá trong đổi mới về cơ chế khoán trong sản xuất nông nghiệp. Cùng với cả nước đẩy mạnh CNH, HÐH, Vĩnh Phúc lại tạo nên dấu ấn trong chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế. Vào thời điểm tái lập tỉnh năm 1997, xuất phát điểm nền kinh tế rất thấp, kinh tế thuần nông, tỷ trọng nông nghiệp chiếm trên 52% giá trị GDP, công nghiệp chiếm 12,86%; thu nhập bình quân đầu người là 140 USD. Đến năm 2009: Công nghiệp, xây dựng chiếm 61,06%; dịch vụ chiếm 24,68%; nông, lâm, thủy sản 14,25%. GDP bình quân đầu người đạt 1.380 USD. Không có hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, hiện nay, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 9,4%. Mặc dù có tốc độ phát triển các khu công nghiệp thuộc diện cao ở miền Bắc nhưng Vĩnh Phúc vẫn còn 60% dân số sống bằng nghề nông với hiệu quả sản xuất chưa cao. Bình quân mỗi lao động nông nghiệp chỉ tạo ra 7, 2 triệu đồng /năm; trong khi đó, sản xuất công nghiệp cao gấp 8, 2 lần, làm dịch vụ gấp 3, 5 lần. Đồng đất Vĩnh Phúc đa số bạc màu, nghèo dinh dưỡng, tuy nông dân đã biết ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhưng giá trị thu nhập vẫn thấp. Năm 2006, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ra Nghị quyết 03NQ/TU về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân. Nội dung bao trùm của Nghị quyết là “giảm đóng góp, tăng đầu tư”, trong đó vấn đề đào tạo nghề, nâng cao trình độ cho nông dân và cung cấp dịch vụ công nông thôn được đặc biệt chú trọng. Sau 4 năm tổ chức thực hiện, Nghị quyết 03NQ/TU của Tỉnh uỷ đã thực sự đi vào cuộc sống, đã thu được những kết quả quan trọng, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đại bộ phận nhân dân trong tỉnh. Trang 2
- NỘI DUNG CHÍNH A. THỰC TRẠNG CÁC DỊCH VỤ CÔNG Ở NÔNG THÔN VĨNH PHÚC Dịch vụ công có thể hiểu khái quát là những dịch vụ do Nhà nước chịu trách nhiệm, phục vụ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân không vì mục tiêu lợi nhuận (khác với dịch vụ tư, do tư nhân đảm nhiệm vì mục tiêu lợi nhuận). Trên cơ sở đó, dịch vụ công ở nông thôn được hiểu là những loại dịch vụ do Nhà nước đảm nhiệm để đáp ứng nhu cầu của khu vực nông thôn. Có nhiều dịch vụ công nông thôn (DVCNT), trong đó các dịch vụ thiết yếu là: giáo dục, y tế, văn hoá thông tin, thuỷ lợi, giao thông, nước sinh hoạt, vệ sinh môi trường, khuyến nông, khuyến công. Trong những năm đổi mới vừa qua, tại tỉnh Vĩnh Phúc các dịch vụ công thiết yếu và cơ bản đã được cải thiện đáng kể, góp phần rất quan trọng vào phát triển kinh tế, xã hội và có tác động tích cực đến cải thiện đời sống, đảm bảo công bằng ở các vùng nông thôn. Với trình độ phát triển kinh tế xã hội và đời sống ngày càng cao hơn, đã có những thay đổi lớn về phát triển và cung cấp dịch vụ công, Nhà nước có chủ trương xã hội hoá việc cung ứng một số dịch vụ công. Đặc biệt, ở khu vực nông thôn các nhu cầu về DVCNT không nhất thiết phải do Nhà nước độc quyền cung cấp mà Nhà nước đóng vai trò bà đỡ, tạo môi trường thuận lợi cho quá trình xã hội hoá DVCNT theo phương châm "nhà nước và nhân dân cùng làm" và thu hút các thành phần kinh tế khác tham gia cung ứng DVCNT hiệu quả hơn. I. Những kết quả trên một số lĩnh vực 1. Lĩnh vực Giáo dục, đào tạo và dạy nghề Hiện tại, tổng số có 571 đơn vị giáo dục công lập và ngoài công lập từ Mầm non đến THPT. Cụ thể như sau: Ngành học mầm non có 217 trường. Trong đó có 162 trường công lập, 3 trường tư thục và 52 cơ sở mầm non tư thục khác (tỷ lệ học sinh Trang 3
- ngoài công lập chiếm 1,5%). Trong năm 2010 đã chuyển đổi các trường mầm non bán công sang công lập. Bậc tiểu học 174 trường công lập. Bậc THCS 146 trường công lập. Bậc THPT 38 trường công lập, 02 trường dân lập. Nhiều cơ quan, đoàn thể, tổ chức kinh tế, dòng họ, cá nhân tham gia hoạt động khuyến học, Quỹ hội khuyến học các cấp trên toàn tỉnh đã quyên góp được khoảng 10 tỷ đồng, góp phần cho công tác khuyến khích hỗ trợ phát triển giáo dục của địa phương. Hiện nay, mạng lưới các cơ sở dạy nghề với các loại hình đa dạng như: cơ sở dạy nghề công lập, cơ sở dạy nghề của tổ chức xã hội và cơ sở dạy nghề của các doanh nghiệp. Toàn tỉnh có 55 cơ sở, trong đó: 4 trường cao đẳng nghề, 3 trường trung cấp nghề, 10 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có dạy nghề, 23 trung tâm dạy nghề, 15 cơ sở giáo dục khác có tham gia dạy nghề. Từ năm 20052010, các cơ sở dạy nghề đã tuyển sinh đào tạo nghề cho 147.340 người, trong đó đào tạo hệ dài hạn, hệ trung cấp nghề và hệ cao đẳng nghề được 38.016 người và 109.324 người được qua đạo tạo nghề hệ ngắn hạn, hệ sơ cấp, dạy nghề dưới 3 tháng. Từ 2004 đến nay Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật tỉnh đã đào tạo 12.495 học sinh trung học chuyên nghiệp, mở 874 lớp huấn luyện nghề ngắn hạn cho nông dân với tổng số 26.220 người. Kết quả bước đầu cho thấy, đại bộ phận nông dân có chuyển biến về nếp nghĩ, cách làm trong sản xuất, kinh doanh, từng bước hình thành đội ngũ nông dân kiểu mới có kiến thức, tay nghề, năng động trong nền kinh tế thị trường. * Khó khăn: Việc xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục còn chậm và hạn chế về quy mô. Một số thôn, xóm chưa có cơ sở nuôi dạy trẻ, lớp học mầm non, nên vẫn phải tổ chức nuôi dạy nhờ ở nhà dân và các nhà văn hoá thôn. Cơ sở vật chất, nhà xưởng, thiết bị thực hành của các cơ sở dạy nghề thiếu; chương trình, giáo trình chậm đổi mới; đào tạo nghề chưa thực sự gắn với thị trường lao động, việc làm. Chưa thu hút được nhiều lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn vào các khu công nghiệp, đô thị. 2. Lĩnh vực y tế Hiện tại, tổng số cơ sở khám, chữa bệnh toàn tỉnh có 355 đơn vị với 2070 giường bệnh. Trong đó các cơ sở công lập có 163 đơn vị, gồm: cấp tỉnh 10 đơn vị (5 Trang 4
- bệnh viện, 5 trung tâm kỹ thuật hệ dự phòng với 1.330 giường bệnh); cấp huyện 6 bệnh viện, 3 trung tâm y tế và 7 trung tâm kỹ thuật hệ dự phòng (với 740 giường bệnh); cấp xã có 137 trạm y tế xã. Cơ sở khám chữa bệnh xã hội hoá trên địa bàn tỉnh hiện có 192 cơ sở y tế tư nhân, trong đó có 17 phòng khám đa khoa, 175 phòng khám chuyên khoa và phòng chẩn trị y học cổ truyền; cấp giấy phép hành nghề cho 05 công ty TNHH kinh doanh thuốc theo thẩm quyền và 550 nhà thuốc, quầy thuốc, đại lý thuốc trên địa bàn tỉnh. Các chương trình quốc gia về y tế được duy trì và triển khai hiệu quả, hầu hết các Trạm y tế đều được đầu tư xây dựng nhà kiên cố và được bổ sung các trang thiết bị y tế; 96,5% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế, có 110/137 bác sĩ đang công tác các Trạm y tế, đạt 80%. Tỷ lệ cán bộ công tác tại các trạm y tế là 5,1 cán bộ/trạm. * Khó khăn: Tỷ lệ bác sỹ đạt 7 người/1 vạn dân, thấp hơn tỷ lệ bình quân của toàn quốc. Một số chuẩn y tế khó thực hiện ở các xã (chuẩn II về vệ sinh môi trường ); một số địa phương chưa có nguồn nhân lực để cử đi đào tạo bác sỹ. Kinh phí đầu tư hàng năm để thực hiện Đề án Chuẩn quốc gia về y tế xã còn hạn chế, còn nợ đọng XDCB, đặc biệt đối với các xã khó khăn. 3. Lĩnh vực Văn hóa, Thông tin Công tác xã hội hoá tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử văn hoá và tổ chức lễ hội hàng năm phục vụ nhân dân được triển khai tích cực. Toàn tỉnh hiện có 1.264 di tích các loại, trong đó có 287 di tích đã được Nhà nước xếp hạng gồm: 65 di tích xếp hạng cấp Quốc gia và 222 di tích xếp hạng cấp tỉnh. Từ năm 2005 đến nay tổng kinh phí hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước cho tu bổ chống xuống cấp ở 40 di tích trên địa bàn tỉnh ước gần 3 tỷ đồng. Huy động từ các nguồn xã hội hóa trong nhân dân là gần 10 tỷ đồng. Những di tích trọng điểm của tỉnh có sự đóng góp của nhân dân cả nước với nguồn kinh phí hàng chục tỷ đồng: Thiền Viện Trúc lâm Tây Thiên huyện Tam Đảo (tổng kinh phí trên 20 tỷ đồng), Di tích chùa Hà thành phố Vĩnh Yên trên 50 tỷ đồng... Trang 5
- Việc xây dựng nhà văn hóa ở cơ sở được đẩy mạnh theo hướng xã hội hóa. Toàn tỉnh đã xây dựng được 112/137 nhà văn hóa xã, 1147/1368 nhà văn hóa thôn (làng – tổ dân phố). Ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ một phần cho mua sắm trang thiết bị, còn toàn bộ phần xây dựng cơ bản đều do nhân dân đóng góp khoảng từ 120 – 150 triệu đồng cho một nhà văn hóa xã và 70 90 triệu đồng cho một nhà văn hóa thôn. Ở tuyến huyện, thành, thị và cơ sở có 06 nhà thi đấu; 06 sân vận động cấp huyện, 80/152 xã (phường) có sân chơi bãi tập thể dục thể thao (TDTT), 149/1450 thôn, khối phố có sân chơi bãi tập TDTT, 248 câu lạc bộ TDTT, 360/390 trường học đạt chất lượng về giáo dục thể chất. Xây dựng 121/137 trạm cung cấp thông tin xã, đạt 88,3%; thực hiện kết nối Internet cho 109 trạm cung cấp thông tin ở cấp xã. * Khó khăn: Việc dành đất cho xây dựng thiết chế văn hoá ở một số địa phương còn khó khăn, ngân sách nhà nước đầu tư, hỗ trợ có hạn. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội ở nông thôn nhiều nơi chưa tốt, phát triển văn hoá chưa theo kịp với tốc độ phát triển kinh tế. 4. Lĩnh vực thủy lợi Ngân sách tỉnh đã bố trí 164 tỷ đồng kiên cố hoá trên 366 km kênh mương. Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh đầu tiên thực hiện miễn thuỷ lợi phí cho sản xuất nông nghiệp (thực hiện từ năm 2007). Hiện nay có 4500 ha /5300 ha khó khăn nguồn nước đã được tưới tiêu chủ động và đã xây dựng xong bản đồ tưới trên địa bàn tỉnh. Từ năm 2007 2010, ngân sách tỉnh hỗ trợ miễn thuỷ lợi phí: 216 tỷ đồng. * Khó khăn: Nhiều công trình thuỷ lợi từ lâu đã bị xuống cấp nhưng chưa đầu tư kinh phí duy tu, sửa chữa, nâng cấp (đặc biệt là các công trình xã, HTX quản lý). Những vùng không có khả năng xây dựng công trình, nhà nước có chính sách hỗ trợ khác, nhưng đến nay chưa thực hiện được. Nông dân ở những vùng này bị thiệt thòi hơn so với những vùng có công trình được đầu tư. 5. Lĩnh vực nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn Về cấp nước sinh hoạt: Tính đến thời điểm tháng 1/2010, dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh là 584.633 người, đạt 73%; sử dụng nước sạch theo Tiêu chuẩn TC09 là 140.312 người, đạt 24%; Trang 6
- Về vệ sinh nông thôn: Số hộ gia đình nông thôn có nhà WC là 161.254 hộ, chiếm khoảng 95%; trong đó, hợp vệ sinh theo Tiêu chuẩn TC08 là 45.151 hộ, đạt 28%. Số chuồng trại chăn nuôi được xử lý chất thải đảm bảo vệ sinh môi trường là 64.831chuồng trại, đạt tỷ lệ 45%/ tổng số chuồng trại chăn nuôi cần phải xử lý. Việc xã hội hoá và đầu tư cho bảo vệ môi trường đang được thực hiện ở các địa phương trên địa bàn tỉnh, ngày càng có nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã bảo vệ môi trường ra đời, nhiều dịch vụ công về bảo vệ môi trường được các cá nhân, tổ chức đứng ra thực hiện như: Tổ thu gom rác thải, công ty TNHH xử lý môi trường xanh, Hợp tác xã dịch vụ môi trường Duy Tiến, … các doanh nghiệp đã quan tâm hơn đến công tác bảo vệ môi trường trong sản xuất và kinh doanh. Công tác cung cấp và hỗ trợ người dân trong việc xây dựng hầm bioga được thực hiện rộng khắp trên địa bàn tỉnh. Tính đến tháng 12/2009 toàn tỉnh đã triển khai được 6.400 hầm bioga, với kinh phí ngân sách tỉnh hỗ trợ là 9,6 tỷ đồng, dân tự đầu tư 26,784 tỷ đồng. * Khó khăn: Phối hợp liên ngành, địa phương để giải quyết các vấn đề môi trường trong thời gian qua tiến hành có lúc, có nơi chưa đồng bộ và thiếu chặt chẽ, chưa đưa ra được cơ chế, hình thức phối hợp có hiệu quả, chưa thúc đẩy mạnh mẽ quá trình xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường. Số hộ gia đình sử dụng nhà WC hợp vệ sinh theo Tiêu chuẩn TC08 còn thấp. Số làng nghề được xử lý chất thải đảm bảo vệ sinh môi trường thấp (chiếm khoảng 12%/ tổng số làng nghề phải xử lý). 6. Lĩnh vực giao thông Tính đến tháng 12 năm 2009 toàn tỉnh đã kiên cố hoá được 2.312 km/3.562 km đường giao thông nông thôn, đạt 64,9% so với mục tiêu Nghị quyết số 11/2007/NQ HĐND tỉnh về cơ chế hỗ trợ phát triển giao thông nông thôn. Riêng nguồn vốn đóng góp của nhân dân năm 2009 cho phong trào xây dựng giao thông nông thôn đạt gần 40%, với khối lượng chủ yếu là nâng cấp cúng hoá mặt đường 270km (nhựa 9,7km; bê tông xi măng 260,6km); xây rãnh gạch 30,5km và tu sửa nền, mặt đường, các công trình thoát nước bị hư hỏng. Trang 7
- Hiện có 8 tuyến xe buýt từ thành phố Vĩnh Yên về 8 huyện, thị xã hoạt động ổn định. Các tuyến xe buýt đã kịp thời đáp ứng cơ bản nhu cầu đi lại của nhân dân. * Khó khăn: Nguồn vốn xây dựng giao thông nông thôn rất lớn, việc huy động nguồn vốn đóng góp của nhân dân rất khó khăn do vậy nhiều dự án phải kéo dài, thi công không đúng tiến độ. Công tác xã hội hóa xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn còn hạn chế so với tiềm năng. 7. Lĩnh vực khuyến nông Đến nay đã hình thành các vùng trồng trọt sản xuất hàng hoá (TTSXHH) với tổng diện tích gần 14 nghìn ha cây trồng các loại. Năng suất, chất lượng cây trồng tăng, hiệu quả sản xuất trên đơn vị diện tích và thu nhập của nông dân tăng, đã hình thành một số vùng TTSXHH như lúa chất lượng cao Yên Lạc, Vĩnh Tường, gạo Long Trì (Tam Dương), bí đỏ Vĩnh Tường, dưa chuột An Hoà (Tam Dương); su su Tam Đảo,... Năm 2008 và năm 2009, UBND tỉnh cho thí điểm triển khai xây dựng 12 khu sản xuất tập trung, với kinh phí đầu tư, hỗ trợ 19,6 tỷ đồng. Đồng thời, tỉnh đã hỗ trợ gần 2 tỷ đồng thí điểm hỗ trợ lãi suất mua phân bón trả chậm cho nông dân mua trên 8,5 nghìn tấn phân bón, góp phần tăng năng suất, sản lượng giúp nông dân vượt qua khó khăn do thiên tai, lạm phát. Trạm Khuyến nông các huyện, thành, thị đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, xây dựng nhiều mô hình trình diễn, chuyển giao và áp dụng tiến bộ KHCN mới vào sản xuất. Cụ thể như: xây dựng các mô hình trình diễn các loại giống mới, sản xuất rau an toàn, trồng cây ăn quả, sử dụng phân bón, chăn nuôi: dế, rắn, lợn rừng … Trên địa bàn tỉnh đã giao tổng số: 30.295,2 ha đất lâm nghiệp cho các tổ chức và hộ gia đình sử dụng. Việc xã hội hóa công tác quản lý và bảo vệ phát triển rừng đã làm rõ trách nhiệm quản lý và quyền lợi của các chủ rừng từ đó đã đem lại hiệu quả rõ rệt, độ che phủ của rừng đã được nâng lên. * Khó khăn: Các các vùng trồng trọt sản xuất hàng hoá và khu sản xuất tập trung hiện nay mới được hình thành, khối lượng hàng hoá ít, giá thành cao; công nghiệp chế biến nông, lâm sản chậm phát triển; trình độ khoa học công nghệ, quản lý còn Trang 8
- yếu, chất lượng lao động chưa cao, tình trạng thừa lao động thiếu việc làm khá phổ biến. II. Một số kinh nghiệm bước đầu 1. Đánh giá chung Từ năm 1997 đến nay bộ mặt nông thôn Vĩnh Phúc ngày càng khởi sắc, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trong nông nghiệp, nông thôn được tăng cường. Hệ thống chính trị ở nông thôn không ngừng được củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao và đào tạo nghề cho nông dân tiếp tục phát triển; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận người dân được cải thiện và nâng cao. Sản xuất nông nghiệp từng bước chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá. Kinh tế nông thôn ngày càng phát triển, kinh tế trang trại có bước chuyển biến tích cực, góp phần khai thác tốt tiềm năng đất đai, lao động ở nông thôn, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá. Việc cung ứng các dịch vụ công nông thôn đã đạt được một số thành tựu và có xu hướng xã hội hoá ngày càng mở rộng, nhưng đồng thời cũng bộc lộ không ít hạn chế. Quá trình xã hội hoá dịch vụ công trong các lĩnh vực diễn ra chậm so với tiềm năng. Việc sắp xếp, đổi mới cơ chế quản lý đối với các cơ sở công lập thuộc các lĩnh vực nông nghiệp nông thôn gặp nhiều khó khăn. Nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước được huy động cho đầu tư phát triển dịch vụ công còn rất hạn chế. Chính quyền một số huyện, xã còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, chưa chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch, giải pháp giảm nghèo. 2. Một số kinh nghiệm bước đầu Một là, tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo về phát triển các dịch vụ trong nông nghiệp nông thôn, ban hành nhiều Nghị quyết chuyên đề về lĩnh vực an sinh xã hội, trong đó có quy định cụ thể về cơ chế thực hiện và huy động nguồn lực cho công tác xã hội hóa các dịch vụ công, đặc biệt là Nghị quyết số 03 của Tỉnh ủy về nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2006 – 2010, định hướng đến năm 2020. Các chủ trương của Tỉnh ủy, Nghị quyết của HĐND tỉnh đều được UBND tỉnh Trang 9
- cụ thể hóa bằng các văn bản để tổ chức thực hiện và tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức chính trị xã hội, các địa phương tuyên truyền, triển khai cụ thể hóa các nhiệm vụ này xuống người dân. Hai là, phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương trong việc tổ chức triển khai thực hiện chủ trương, chính sách về xã hội hóa dịch vụ công, nâng cao vai trò của các tổ chức hội quần chúng trong việc tuyên truyền, vận động các cá nhân và doanh nghiệp tham gia cung ứng dịch vụ công nông thôn. Ba là, Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư với các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước để huy động nguồn lực và kêu gọi các thành phần kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ công trong một số lĩnh vực như: giáo dục phổ thông, đào tạo nguồn nhân lực, khám chữa bệnh, vệ sinh môi trường, giống cây trồng vật nuôi, đường giao thông, vận tải hàng khách,… Bốn là, Phân cấp, trao toàn quyền đối với người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công được tự chủ về tài chính, tuyển dụng và bố trí bộ máy nhân sự cũng như tăng thu nhập của người lao động. Năm là, Đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa họccông nghệ, thúc đẩy hình thành các vùng sản xuất hàng hoá. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ và dạy nghề cho nông dân. B. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CÔNG Ở NÔNG THÔN VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHO GIAI ĐOẠN TỚI I. Định hướng phát triển: Nhà nước nhỏ Xã hội lớn Một là, cải cách đơn vị sự nghiệp dịch vụ công cần được thể chế hoá bằng Chương trình của Chính phủ, trong đó đổi mới cơ chế quản lý theo hướng tăng cường quyền tự chủ trong cung ứng dịch vụ công nói chung và DVCNT cho các cơ sở cung cấp các dịch vụ. Chuyển đổi hình thức tổ chức hoạt động của một số đơn vị sự Trang 10
- nghiệp dịch vụ công nông thôn sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp ngoài công lập. Hai là, Phân cấp cho địa phương cấp huyện, cấp xã chịu trách nhiệm về từng loại DVCNT theo hướng tự cân đối trong khuôn khổ ngân sách được giao. Tăng đầu tư cho phát triển cơ sở vật chất DVCNT tương ứng với yêu cầu của xã hội, của nền kinh tế hội nhập. Cần đưa các chỉ tiêu chung của DVCNT vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương; Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước vào phát triển giáo dục, đào tạo nghề, chăm sóc sức khoẻ, đường giao thông, thuỷ lợi và các dịch vụ khuyến nông ở cấp cơ sở đặc biệt là ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Ba là, Nghiên cứu áp dụng chế độ Nhà nước đặt hàng các DVCNT và cơ chế đấu thầu thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công cho Doanh nghiệp tư nhân, tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính phủ đảm nhận. II. Các giải pháp 1. Đối với giáo dục đào tạo Tiếp tục thực hiện đổi mới giáo dục công lập một cách toàn diện. Khuyến khích chuyển các cơ sở giáo dục và dạy nghề công lập sang ngoài công lập và thành lập mới các cơ sở ngoài công lập cho từng cấp học và từng địa phương. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho một số tập đoàn và doanh nghiệp lớn đầu tư xây dựng các trường Đại học tư thục trên địa bàn tỉnh. Thành lập quỹ học bổng hỗ trợ học sinh nghèo theo một quy trình xét duyệt thống nhất. 2. Đối với dịch vụ y tế Tăng ngân sách thường xuyên cho hoạt động y tế cấp cơ sở và các hoạt động chăm sóc sức khoẻ, tuyên tuyền giáo dục chăm sóc sức khoẻ sinh sản, có tỷ lệ ưu tiên cho các xã vùng sâu, vùng xa. Hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho cán Trang 11
- bộ y tế cấp cơ sở, đặc biệt là một số chuyên khoa như sản, tiêm chủng, quản lý y tế cấp cơ sở. Đối với các bệnh viện và các trung tâm y tế cấp huyện cần được đầu tư nâng cấp cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị và trình độ tay nghề của đội ngũ bác sỹ, nhân viên y tế để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh giảm mức độ quá tải hiện nay đối với các bệnh viện tuyến tỉnh. Khuyến khích mở rộng các dịch vụ khám chữa bệnh chất lượng cao của tư nhân. 3. Đối với thuỷ lợi Cần đưa ra chính sách đầu tư công trình đầu mối, bê tông hóa hệ thống kênh mương, đầu tư tu sửa, trang bị, nâng cấp công trình thủy lợi và chính sách đối với công trình thủy lợi do dân tự xây dựng. Chỉ đạo thực hiện mạnh mẽ việc tu sửa, nâng cấp các công trình thuỷ lợi đã xây dựng nhằm nâng cao hiệu quả, tính bền vững của công trình và chất lượng dịch vụ thuỷ lợi. Tăng cường phân cấp những khoản đầu tư sửa chữa nhỏ công trình thuỷ lợi với mức giá trị nhất định cho các hợp tác xã và tổ dịch vụ. Đồng thời, thực hiện giao các dự án xây dựng và sửa chữa các công trình quy mô vừa và nhỏ cho cấp cơ sở theo nguyên tắc "xã có công trình, dân có việc làm" để gắn trách nhiệm, quyền lợi của họ với công trình. 4. Đối với giao thông nông thôn (GTNT) Cần tiếp tục thực hiện chủ trương về xây dựng quỹ phát triển GTNT và đề ra cơ chế xây dựng các tuyến đường GTNT chính cho các xã khó khăn, đặc biệt là đường đến trung tâm huyện, xã, nối các trường học, bệnh viện, trạm xá. Tiếp tục chính sách kích cầu bằng ngân sách nhà nước, tuy nhiên phải cân đối tăng tỷ lệ hỗ trợ cho các xã nghèo. Xây dựng mô hình dân tự quản đối với đường xã, liên thôn. 5. Đối với văn hóa thông tin Cần đẩy mạnh công tác xã hội hoá các hoạt động văn hoá, thông tin ở cấp cơ sở theo hướng ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển các phương tiện tuyên truyền, giao lưu, người dân đóng góp, tự quản lý, tổ chức các hoạt động, đặc biệt là các hoạt động thể thao, văn nghệ quần chúng, xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá với sự tham Trang 12
- gia của các tổ chức đoàn thể xã hội. Tăng kinh phí, các nguồn tài trợ để xây dựng các trung tâm văn hoá cộng đồng tuyến huyện, xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin, trước hết là hệ thống loa truyền thanh cho các thôn xóm trong các xã. 6. Lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Đẩy mạnh phát triển trang trại và kinh tế hợp tác, doanh nghiệp trên địa bàn nông thôn. Mở rộng và phát triển các loại hình dịch vụ nông thôn: dịch vụ tài chính, phát triển quỹ tín dụng nhân dân; hình thành các cơ sở dịch vụ chuyên cung cấp vật tư nông nghiệp, dịch vụ vận tải, dịch vụ thú y... Tổ chức các hình thức hợp tác sản xuất, kinh doanh thích hợp với mỗi vùng, địa phương. Phát triển loại hình lao động phi nông nghiệp bằng cách đẩy mạnh đầu tư khuyến khích các hộ dân chuyển sang làm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Trong đó, đặc biệt chú trọng tới việc bảo tồn duy trì và mở rộng các làng nghề truyền thống tại nông thôn đây chính là khu vực thu hút và giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Các trạm khuyến nông và khuyến công cần mở rộng sang cung cấp thông tin, các dịch vụ nghiên cứu thị trường, thương mại (marketing) và phát triển thương hiệu. Hoạt động này có thể được tổ chức, hợp tác với các doanh nghiệp, hợp tác xã, trạm, trại giống Đẩy mạnh nâng cao chất lượng lao động nông thôn thông qua công tác bồi dưỡng, nâng cao kiến thức cho nông dân, trang bị học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, hiểu biết thị trường cho lực lượng lao động nông thôn, đặc biệt là lao động chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Trang 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Chính sách dịch vụ công tác xã hội tại cộng đồng với người khuyết tật ở Việt Nam
246 p | 22 | 14
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng dịch vụ công trực tuyến trên địa bàn huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk
24 p | 16 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp: Đánh giá thực trạng kinh doanh dịch vụ tiêu dùng phục vụ công nhân ven khu công nghiệp Yên Phong I: Trường hợp nghiên cứu ở xã Yên Trung, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh
149 p | 74 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu các yếu tố tác động đến chất lượng dịch vụ công tại các UBND phường trên địa bàn TP.HCM
101 p | 18 | 9
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
26 p | 34 | 9
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước trong điều kiện ứng dụng dịch vụ công trực tuyến tại Kho bạc Nhà nước Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng
26 p | 54 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Dịch vụ công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm đối với người khuyết tật từ thực tiễn Quận Thủ Đức Thành phố Hồ Chí Minh
106 p | 27 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Công tác xã hội: Dịch vụ công tác xã hội dành cho gia đình và trẻ có rối loạn phổ tự kỷ
27 p | 15 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế quốc tế: Đầu tư dưới hình thức đối tác công tư (Publicprivate Partnership - PPP) trong một số lĩnh vực dịch vụ công: Thực tiễn tại một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam
29 p | 18 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đánh giá mức độ hài lòng của người dân về dịch vụ công lĩnh vực Tư pháp tại Ủy ban nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau
106 p | 27 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao chất lượng dịch vụ công - Trường hợp tại Ủy ban nhân dân huyện Ia H’Drai, tỉnh Kon Tum
26 p | 13 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Sự hài lòng của người nộp thuế về chất lượng dịch vụ công theo cơ chế “một cửa” tại chi cục thuế quận Tân Bình
89 p | 17 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu sự hài lòng của người dân về dịch vụ công đăng ký kinh doanh hộ cá thể tại UBND thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
27 p | 29 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Ảnh hưởng của chất lượng dịch vụ công đến sự hài lòng của người nộp thuế tại Chi cục Thuế Thành phố Nha Trang
113 p | 3 | 2
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực Tư pháp - Hộ tịch trên địa bàn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
24 p | 3 | 1
-
Luận án Tiến sĩ Công tác xã hội: Dịch vụ công tác xã hội đối với người cai nghiện ma túy bằng methadone tại Thành phố Hồ Chí Minh
246 p | 1 | 1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Công tác xã hội: Dịch vụ công tác xã hội đối với người cai nghiện ma túy bằng methadone tại Thành phố Hồ Chí Minh
27 p | 1 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn