intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Ứng dụng công nghệ sinh thái trong xử lí chất thải hữu cơ nông nghiệp trồng trọt

Chia sẻ: Nguyen Ma | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:53

104
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của tiểu luận trình bày hiện trạng chất thải hữu cơ ở Việt Nam; sử dụng chế phẩm sinh học biến rơm rạ thành phân bón hữu cơ; ứng dụng công nghệ sinh thái trong xử lí chất thải hữu cơ nông nghiệp trong trồng trọt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Ứng dụng công nghệ sinh thái trong xử lí chất thải hữu cơ nông nghiệp trồng trọt

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN  BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SINH THÁI TRONG XỬ LÍ  CHẤT THẢI HỬU CƠ NÔNG NGHIỆP TRỒNG TRỌT GVHD: TS. LÊ QUỐC TUẤN Sinh viên thực hiện: MSSV Nguyễn Hoài Nam  11157199 Nguyễn Thị Linh Thảo  12149428 Nguyễn Thị Xuân Đạt 12149018 Lâm Thị Thu Thác  14163243 Nguyễn Thị Thu Huyền 12149244 1
  2. TP. HCM, tháng 11 năm 2015 2
  3. MỤC LỤC 3
  4. I. ĐẶT VẤN ĐỀ  Ngành nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế  quan trọng và phức tạp.   Nó không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học – kỹ thuật,   bởi vì một mặt cơ sở để phát triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm năng sinh học –   cây trồng, vật nuôi. Nông nghiệp đã chuyển mạnh sang cơ cấu sản xuất hiệu quả hơn   và đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, an ninh lương thực được bảo đảm. Cơ cấu hộ nông   dân theo ngành nghề đang chuyển dịch theo hướng tăng dần số lượng và tỷ trọng nhóm  các hộ  tham gia sản xuất phi nông nghiệp như  công nghiệp, tiểu thủ  công nghiệp và  dịch vụ. Tỷ trọng phát triển ngành nghề công nghiệp, dịch vụ tăng lên rõ rệt, góp phần   tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho nông dân. Song song với sự  chuyển biến tích cực, nông thôn Việt Nam vẫn còn bộc lộ  những hạn chế, yếu kém:   phát triển thiếu quy hoạch, tự phát những hạn chế, yếu kém này kéo theo tình trạng ô  nhiễm môi trường nông thôn. Một trong những nguyên nhân chính của ô nhiễm môi trường nông thôn là do   CTR từ hoạt động nông nghiệp, chăn nuôi, sự  lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân  bón trong sản xuất nông nghiệp, CTR từ hoạt động làng nghề và rác thải từ sinh hoạt.  Trong đó, nông nghiệp làm phát sinh một lượng lớn chất thải hửu cơ,  từ các hoạt động  sản xuất nông nghiệp như: trồng trọt (thực vật chết, tỉa cành, làm cỏ...), thu hoạch  nông sản (rơm, rạ, trấu, cám, lõi ngô, thân ngô)… Chất thải nông nghiệp nếu không được xử  lý sẽ  gây ra ô nhiễm môi trường   không khí, môi trường đất, nước, làm mất vẻ mỹ quan , gây nhiều bệnh tật, tác động   xấu đến sức khỏe con người, môi trường, đánh mất một nguồn lợi lớn về kinh tế. 4
  5. II. NỘI DUNG  II.1. Tổng quan về công nghệ sinh thái  II.1.1. Khái niệm  Công nghệ  sinh thái là sự  kết hợp các quy luật sinh thái và công nghệ  để  giải   quyết các vấn đề  của môi trường như  điều tra ô nhiễm, cải tạo ô nhiễm, xử  lý chất  thải. Có thể định nghĩa theo cách khác: “Công nghệ sinh thái là các thiết kế dùng cho xử lý   chất thải, kiểm soát xói mòn, phục hồi sinh thái và nhiều ứng dụng khác nhằm hướng  tới sự phát triển bền vững”. II.1.2. Quá trình hình thành và phát triển  Công nghệ  sinh thái bắt đầu từ  những năm 1960, xuất phát từ  việc nghiên cứu   các quá trình làm sạch môi trường. Ứng dụng các sinh vật trong xử lý nước thải, chất  thải và phục hồi các nguồn tài nguyên đất và tài nguyên nước. HT Odum là người đi  đầu trong kỹ  thuật sinh thái để   ứng dụng cho các mục tiêu. Ông tiến hành các thí  nghiệm   thiết   kế   hệ   sinh   thái   lớn   tại   Port   Aranasa,   Texa   (HT   Odum,   1963),   thành  phốMorehead, Bắc Carolina (HT Odum, 1985, 1989) và Gainesville, Florida (Ewel và  HTOdum, 1984). Hiện nay người ta sử  dụng các hệ  sinh thái tự  nhiên để  tái tạo tài nguyên; sử  dụng hệ sinh thái nhân tạo để xử lý nguồn nước, đất và không khí; phục hồi tài nguyên   đất, tài nguyên thực vật cho vùng nông thôn; kiến tạo cảnh quan đô thị. Các hệ  sinh  thái được ứng dụng hiệu quả trong vệc đóng kín các chu trình sinh địa hóa. II.1.3. Các lĩnh vực ứng dụng của công nghệ sinh thái hiện nay  Tuy là lĩnh vực khá mới nhưng sự  phát triển và  ứng dụng của công nghệ  sinh  thái rất đáng kể, bao gồm nông nghiệp; công nghiệp; xử lý nước cấp, nước thải, chất   5
  6. thải, khí thải; xử  lý kim loại nặng, chất hữu cơ; sử  dụng năng lượng; phục hồi tài  nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng… II.1.3.1. Công nghệ sinh thái trong nông nghiệp  “Công nghệ sinh thái” là thiết kế lại hệ thống ruộng lúa sao cho đa dạng hóa về  thực vật (Flora) và động vật (Fauna). Hay nói cách khác là làm cho các loài trong hệ  sinh thái ruộng lúa được phong phú. Từ đó tạo được chuỗi thức ăn và mạng lưới thức   ăn trong sự  biến động nhưng cân bằng còn được gọi là dịch vụ  sinh thái (Ecological   Services). Từ  dịch vụ  sinh thái này các thiên địch sẽ  tấn công các loài sâu hại và giữ  mật số của dịch hại  ở mức thấp nhất không gây ra sự mất mát năng suất và chúng ta  không cần phải xử lý thuốc trừ sâu. Trồng các loại hoa có phấn hoa và mật hoa trên các bờ  ruộng thì các loài thiên  địch  ở  giai đoạn trưởng thành cần ăn thêm mật và phấn hoa để  bổ  sung năng lượng  cho sự sinh sản. Do đó, nếu trên bờ ruộng hay các cây trồng khác xung quanh có nhiều   hoa với lượng mật và phấn hoa dồi dào sẽ  thu hút chúng đến ăn và rồi cư  ngụ  ngay   trong ruộng lúa để tấn công các loại sâu rầy. Công việc này được hiểu như kiến thiết  lại đồng ruộng, đảm bảo được môi trường tự  nhiên hay còn được gọi là “Công nghệ  sinh thái”(Ecological Engineering).Có nhiều loài cây nhỏ có nhiều hoa và hoa phát triển  quanh năm sẽ  thu hút nhiều côn trùng có ích. Chúng có thể  trồng dễ  dàng trên bờ  ruộng, ít phải chăm sóc. Những lợi ích mà công nghệ sinh thái mang lại: Thu hút Ong mật và Ong ký sinh đến bảo vệ ruộng lúa Giảm chi phí thuốc trừ sâu Tăng lợi nhuận Tạo nguồn nguyên, nhiên liệu sạch 6
  7. II.1.3.2. Công nghệ sinh thái bảo vệ môi trường  Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, loài người phải bắt đầu tìm cách   giải quyết vấn đề  ô nhiễm môi trường bằng các biện pháp khác nhau. Trong đó, các   biện pháp công nghệ thái học ngày càng tỏ  ra  ưu việt hơn so với các biện pháp khác.   Nói chung, hiện nay vấn đề bảo vệ môi trường được giải quyết theo ba hướng sau: Phân hủy các độc chất vô cơ  và hữu cơ; phục hồi các chu trình trao đổi  chất của C, N, P và S trong tự  nhiên; thu nhận các sản phẩm có giá trị   ở  dạng nhiên   liệu hoặc các hợp chất hữu cơ. Xử  lý chất thải, như: xử  lý sinh học hiếu khí, xử  lý bằng lên men phân  hủy yếm khí. Thu nhận các chất có ích từ lên men yếm khí, như: xử lý các dạng nước   thải khác nhau và tái sử dụng chúng để phục vụ cho các ngành công nghiệp nặng. Xử  lý các chất thải công nghiệp như: xử  lý chất thải công nghiệp chế  biến sữa, xử lý chất thải công nghiệp dệt. Dùng vi sinh vật để  khả  năng ăn dầu để  xử  l í các sự  cố  tràn dầu hay ô  nhiễm dầu. II.1.3.3. Công nghệ sinh thái trong năng lượng  Như chúng ta đã biết, năng lượng có vai trò rất quan trọng trong đời sống, sinh   hoạt và sản xuất của con người. Mọi hoạt động từ nấu ăn, đun nước thường ngày cho  đến các hoạt động sản xuất trong các nhà máy, xí nghiệp bắt buộc phải có năng lượng   mà chủ  yếu là xăng, dầu, gas…đều có nguồn gốc từ  năng lượng hóa thạch. Việc sử  dụng năng lượng hóa thạch đã mang lại những thay đổi to lớn trong xã hội loài người,   nâng cao trình độ phát triển của xã hội, đem lại cuộc sống ấm no hơn. Tuy nhiên việc  sử dụng nhiên liệu hóa thạch gây nên sự tàn phá môi trường, khan hiếm các nguồn tài  nguyên, biến đổi khí hậu…, đang đặt con người trước những thách thức của sự  phát  triển. Trước những thách thức này, người ta nhận thấy rằng việc ứng dụng công nghệ  sinh thái vào năng lượng là chìa khóa để giải quyết vấn đề, vượt qua các trở ngại của   7
  8. quy luật phát triển. Công nghệ  sinh thái sẽ  giúp chúng ta khắc phục các nhược điểm  của nhiên liệu hóa thạch đó là việc thải ra CO2 một loại khí gây nên hiện tượng hiệu  ứng nhà kính dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu. Ngoài ra năng lượng hóa thạch không   phải là nguồn tài nguyên vô tận, đến một lúc nào đó chúng sẽ bị cạn kiệt, do vậy con   người không thể trông đợi mãi vào chúng mà phải tìm ra được nguồn năng lượng mới   an toàn hơn, thân thiện hơn để  thay thế, mà công nghệ  sinh thái có thể  giúp chúng ta   việc này. Vai trò của công nghệ sinh thái trong năng lượng Nghiên cứu tạo ra nguồn năng lượng mới, an toàn, thân thiện với môi   trường Khắc  phục  hậu  quả   môi  trường của  việc  khai  thác  và  sử  dụng  năng   lượng hiện nay II.1.3.4. Các hoạt động khác của công nghệ sinh thái hiện nay  Công nghệ  sạch: liên quan đến sự  thay dổi quy trình sản xuất, thay đổi  công nghệ và thay đổi nguyên liệu đầu vào. Công nghệ  phân hủy sinh học: dùng các cơ  thể  sống phân hủy các chất  độc thành các chất không độc như nước, khí CO2 và các vật liệu khác. Bao gồm công   nghệ  kích thích sinh học: bổ  sung chất dinh dưỡng để  kích thích sự  sinh trưởng của   các vi sinh vật phân hủy chất thải có sẵn trong môi trường, công nghệ bổ sung vi sinh  vật vào môi trường để  phân hủy chất ô nhiễm, công nghệ  xử  lý ô nhiễm kim loại và   các chất ô nhiễm khác bằng thực vật và nấm. Dự  phòng môi trường: phát triển các thiết bị  dò và theo dõi môi trường,  đặc biệt dò nước và khí thải công nghiệp trước khi giải phóng ra môi trường. Sử dụng các hệ sinh thái tự nhiên để tái tạo tài nguyên Hệ sinh thái nhân tạo để xử lí nước, đất, không khí 8
  9. Kiến tạo cảnh quan đô thị, phục hồi tài nguyên đất, tài nguyên thực vật  cho vùng nông thôn II.2 Tổng quan về chất thải hữu cơ nông nghiệp II.2.1. Khái niệm và nguồn gốc  Chất thải rắn hữu cơ là các chất thải có chứa các hợp chất hữu cơ(C, H, N, S,   P) có khả  năng dễ  dàng phân hủy sinh học (phân hủy trong điều kiện tự  nhiên.) VD:   rau quả, cơm thừa… hay nói một cách đơn giản: Chất thải rắn hữu cơ là rác thải có   nguồn gốc từ  sinh vật (thực vật, động vật). Chúng có “tuổi thọ” thấp nhất, tồn tại  trong môi trường với thời gian ngắn rồi biến mất. Chất thải rắn hữu cơ trong nông nghiệp là các chất thải hữu cơ có nguồn gốc từ  các hoạt động sản xuất nông nghiệp như: Trồng trọt: gieo cấy, thực vật chết, rơm rạ, vỏ nông sản sau thu hoạch, lá  cành qua cắt tỉa, xác bã sau chế biến… Chăn nuôi: chăm sóc gia súc gia cầm, vệ sinh chuồng trại, các hoạt động   giết mổ, phân gia súc gia cầm... Các loại rác thải của vùng nguyên liệu công nghiệp, như: vỏ hạt cà phê,   vỏ lạc, bã mía, v.v...  Phế liệu nhà máy giấy, nhà máy sợi Phế thải của làng nghề chế biến tinh bột Về mặt hóa học, các rác hữu cơ ấy chứa các phân tử lớn mà tuỳ theo loại rác có   thể giàu polysaccarit, protein, lipit, hoặc hỗn hợp của chúng, v.v.... II.2.2. Thành phần của chất thải hữu cơ Các thành phần của rác thải hửu cơ, tất cả, đều là từ  xác động vật, thực vật   hoặc các bộ phận của chúng. Do vậy, rác thải hửu cơ cũng có thành phần hóa học như  9
  10. thành   phần   cơ   thể   sống,   trong   đó   các   nhóm   chất   quan   trọng   (về   lượng)   là  cacbonhydrat, protein và lipit. Tất cả  chúng đều là những phần tử  lớn (polime) gồm  nhiều gốc liên kết với nhau. Cacbonhydrat có thành phần tỷ  lệ  lớn trong sinh khối rác thải hửu cơ. Những  nhóm chính của cacbonhydrat gồm: xenluloza, hemixenluloza, lignin, pectin và tinh bột. II.2.3. Hiên trang ch ̣ ̣ ất thải hữu cơ ở Viêt Nam.  ̣ Tổng quan Nông nghiệp chiếm một tỉ trọng khá lớn trong nền kinh tế  nước ta. Không chỉ  cung cấp lương thực cho quốc nội mà còn xuất khẩu một lượng lớn sáng nước ngoải: Sản lượng nông nghiệp năm 2014: Trồng trọt Chăn nuôi Sản   lượng  Sản lượng (  Sản phẩm Sản phẩm (nghìn tấn) nghìn tấn) Lúa gạo 45000  Thịt trâu 86,9 Rau 147,4  Thịt bò 292,9 Chè  132,1  Thịt heo 3400 Cà phê 641,7 Thịt gia cầm 875   Qua đó ta có thể thấy sản lượng các sản phẩm tạo ra từ hoạt độn sản xuất nông   nghiệp là vô cùng lớn, ước tính tổng giá trị lên tới 830 nghìn tỉ đồng đem lại nguồn tài   chính  dồi dào cho nền kinh tế. Tuy nhiên qua quá trình sản xuất chế  biến một phần  lớn các phụ phẩm (rơm, rạ, chất thải gia súc gia cầm, thực vật chết) đều không được  xử lí triệt để hoặc xử lí sơ  xài gây ra lãng phí một nguồn tài nguyên năng lượng đáng   kể mà còn gây ô nhiễm môi trường.. 10
  11. Nếu như không xử lí triệt để tương lai cho dù tạo ra bao nhiêu sản phẩm, giá trị  có lớn như thế nào thì so với chi phí chi ra để khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường  hay việc lãng phí một nuồn nguyên liệu lớn cũng như muối bỏ biển mà thôi. Trồng trọt Trong nông nghiệp trồng trọt có quy mô lớn nhất cũng như  tạo ra lượng chất   thải và phụ phẩm nông nghiệp phát sinh chim đa số  trong chất thải nông nghiệp. Sau  đây chúng ta cùng nhìn hiện trạng này thông qua hai ví dụ tiêu biểu: Lúa nước: là loại cây lương thực chính  ở  nước ta với khoảng 7, 5 triệu hecta   đất trồng lúa mỗi năm tạo ra lượng rơm thải lêm tới 76 triệu tấn. Tuy nhiên lượng rơm  thải này hiện nay không được tính toán trong thống kê lượng chất thải phát sinh ở địa  phương cũng như trên toàn quốc.bên cạnh đó còn có các phụ phầm khác như  vỏ trấu,   thực vật chết… Đối với rơm rạ  một phần nhỏ  thường được sử  dụng làm thức ăn cho gia súc  hay phân bón, tuy nhiên phần còn lại thường đem đi đốt bỏ ngay tại ruộng. Hiện tượng  này ngày càng phổ  biến không chỉ   ở  những vùng quê Bắc Bộ: Hưng Yên, Nam Định,  Thái Bình...mà còn cả   ở  Đồng Bằng sông Cửu Long vựa lúa lớn nhất nước. Nguyên  nhân chủ yếu là do ngày nay việc xuất hiện cụng những loại chất đốt nhứ khí gas hay  than đã thay thế rơm rạ cho nên phần rơm rạ dư được xử  lí sơ xài bằng cách đốt hay   thậm chí vứt trực tiếp vào kênh rạch đường xá. Quá trình đốt này rất nguy hiểm bởi   chúng tạo ra các loại khí như  CO, CO2, NOX, SO2  và một số  khí độc hại. Khi không  cháy hết chúng tạo ra khí Anđêhit và bụi mịn, đặc biệt vào những ngày nắng nóng   chúng kết hợp với lớp không khí sát mặc đất tạo nên khói mù. Hiện nay một số công nghệ nhằm tái sử dụng phụ phẩm của cây lúa đang được   áp dụng: Dùng rơm làm môi trường trồng nấm 11
  12. Ủ rơm làm thức ăn cho gia súc Xử lí rơm làm phân bón Dùng vỏ trấu đốt lò hơi Hình: ứng dụng của rơm rạ. Mía đường:  là loại cây công nghiệp quan trọng  ở  nước ta, Mỗi năm nước ta  sản xuất gần 2 triệu tấn mía đường song song đó lượng phụ  phẩm từ  quá trình này   cũng vô cùng to lớn. Tính riêng  ở  khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long: Lá mía phế  thải (2.47 triệu   tấn/ năm), Bã mía (1, 42 triệu tấn/năm). Với số  lượng lớn chất thải sau sản xuất như  vậy nhưng thực tế  là hiện nay   phần lớn các nhà máy đều không có nơi chứ  hay phương pháp xử  lí bã mía sau sản   xuất hay có chăng cũng chỉ là nơi chứa rất nhỏ. Phương pháp thường được lựa chọn là  đổ trực tiếp ra ngoài môi trường xung quanh hay để chúng tự phân hủy. Điểu này gây  tác hại rấ  lớn không chỉ  gây ô nhiễm môi trường xung quanh mà còn phí phạm một  nguồn tài nguyên bã mía rất lớn Như  vậy với cách làm hiện nay vô hình chung đã lãng phí một nguồn nguyên  liệu vô cùng lớn khi mà bã mía có rất nhiều ứng dụng: Chất đốt cung cấp nhiệp cho nhà máy điện lò lơi 12
  13. Sản xuất bột giấy Đệm lót chuồng trại Vật liệu lọc nước Ủ lên men làm thức ăn gia súc phân bón Giá thể trồng nấm mèo, linh chi  Chăn nuôi: Chăn nuôi  ở  nước ta đang là một trong những ngành có bước phát triển mạnh  mẽ, đáp  ứng nhu cầu lương thực trong nước cũng như  xuất khẩu. Theo số  liệu của   Tổng cục thống kê, năm 2014 đàn lơn nước ta có khoảng 26, 76 triệu con, đàn trâu bò  khỏang 7, 75 triệu con, đàn gia cầm khoảng 327, 69 triệu con. Tính theo số đầu gia súc   này lượng chất thải hàng năm là 76 triệu tấn Tuy nhiên với số lượng chất thải khổng lồ như vậy chỉ có khoảng từ 40­70% là  được xử  lí còn lại là thải trực tiếp ra sông hồ, kênh rạch. Nguyên nhân là đặc điểm  nển nông nghiệp nước ta tuy phát triển nhưng phần là chăn nuôi theo hộ  gia đình có  quy mô nhỏ  thường xây dựng gần khu dân cư do đó không những không có nơi nhằm  xủ  lí chất thải mà còn tang nguy cơ  ô nhiễm cho người dân xung quanh. Còn với các   trang trại chăn nuôi tuy được xây dựng xa khu dân cư nhưng biện pháp xử kí thường là   chôn lấp do thiếu kinh phí công nghệ. Hiện nay những biện pháp chủ  yếu được người nông thôn chọn giải quyết là:   Xử kí bằng công nghệ khí sinh học (biogas), Ủ làm phân bón cho cây trồng nhưng cũng  chỉ được áp dụng ờ một vài địa phương nhất định mà chưa có một chương trình cụ thể  cho toàn quốc. 13
  14. II.2.4. Tac đông cua ch ́ ̣ ̉ ất thải hữu cơ.  II.2.4.1. Tac đông đên môi tr ́ ̣ ́ ường.  Hiện nay nước ta chưa có một quy trình xử lí chất thải nông nghiệp cụ thể nào  do thiếu thốn về phương tiện kĩ thuật, nhân lực. Biện pháp thường được chọn để giải   quyết là chôn lấp và đốt bỏ điều này đã gây tác hại nghiêm trọng đến môi trường: Không khí:  ­ Do việc xử lí bằng đốt bỏ đã thải vào môi trường các loại khí như CO,   CO2 khói và tro bụi tang lên nhanh chóng góp phần tạo hiện tượng nóng  lên toàn cầu. ­ Khi vân chuyển và lưu giữ  các chất thải sẽ phát sinh mùi do quá trình   phân hủy như NH3, H2S, Phenol, Cl2…gây ô nhiễm không khí. Bên cạnh  đó là mùi hôi thối của chất thải động vật từ  các cơ  sở  chăn nuôi gần   khu dân cư  cũng làm ô nhiễm không khí Nước: Việc xử lí chất thải bằng cách đổ trực tiếp vào sông hồ gây ô nhiễm   nước, là tắc nghẽn đường nước lưu thông, giảm diện tích tiếp xúc của nước   với không khí dẫn tới giảm DO trong nước. Chất thải hữu cơ phân hủy gây  mùi hôi thối, gây phú dưỡng hóa làm hệ thủy sinh suy yếu.  Tại tỉnh Hà Nam: Nước thải chăn nuôi mang theo chất thải rắn chảy ra ao   hồ   của  thôn   đã   khiến   100%   diện  tích  ao  hồ   bị   ô   nhiễm   không  sử   dụng   được,gần 28% ao hồ bị phú dưỡng hóa. Đất đai: Trong hoạt đông nông nghiệp việc phun thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ  thực vật đã dân tới ô nhiễm môi trường đất, trong đất tồn tại lượng lớn chất  hóa học gây chết hệ vi sinh vật dưới đất tạo điều kiện cho nấm và sâu bệnh  hại phát triển gây bệnh cho cây. 14
  15. II.2.4.2. Anh h ̉ ưởng đên con ng ́ ươi.  ̀ Ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí gây tác động không nhỏ đến sức khỏe  và điều kiên sống của người dân: Việc các hộ chăn nuôi gần khu dân cư khiến mùi hôi thối từ các chất thài do  những hộ  này phát gây  ảnh hưởng tới chất lượng sống cùa họ. Trong một  điều tra tại Thái Nguyên với 113 hộ gia đình chăn nuôi 20 con lợn trở lên thì   50% các hộ có nhà xây gần chuồng hoặc gần giếng nước gần chồng lợn thì   tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc, trứng giun của người chăn nuôi cao  gấp hai lần so với người chăn nuôi , và có sự tương quan tỉ lệ thuận giữa tỉ  lệ nhiễm ký sinh trùng đường rột với ký si trùng trong đất.( Đại học Y khoa  Thái Nguyên,2008). Các chất thải hữu cơ khó phân hủy tồn dư trong đất do chôn lấp có khả năng  tích lũy trong nông sản, ttrong mô tế bào động vật có thể gây hàng loạt bệnh   nguy hiểm cho con người như vô sinh quái thai, dị tật, tim mạch, thần kinh,   ung thư và có thể di chứng cho thế hệ sau. Ô nhiểm không khí do khói bụi từ việc đốt rác thải nông nghiệp gây các bênh  về viêm đường hô hấp hay thậm chí là ung thư phổi Chưa có một số liệu cụ thể nhưng nếu xem lượng chất thải nông nghiệp là  những nguồn năng lượng, nguyên liệu đáng lẽ  có thể tái chế nhằm sử dụng  cho các hoạt động khác thì mỗi năm thiệt hại kinh tế của chúng ta là không  hề nhỏ. 15
  16. II.2.5. Hiên trang x ̣ ̣ ử ly ch ́ ất thải hữu cơ nông nghiệp ở Viêt Nam va thê gi ̣ ̀ ́ ới.  II.2.5.1. Viêt Nam.  ̣ Các quá trình xử lý sinh học rác hữu cơ do con người thực hiện chính là sự bắt   chước những gì diễn ra trong tự nhiên. Nói cách khác, xử  lý sinh học rác thải hữu cơ  dựa vào hoạt động phân huỷ của vi sinh vật nhằm phân hủy chất hữu cơ của rác.  Các biện pháp: Ủ đống (composting) Đây là hình thức xử lý được coi là đơn giản nhất và với quy mô nhỏ  nhất. Rác   được ủ thành đống hoặc luống, nổi trên mặt đất hoặc chìm dưới hố, hoặc nửa nôỉ nửa  chìm. Đống  ủ có thể  được trát kín bằng bùn. Trong trường hợp này, suốt quá trình ủ,   oxy sẽ được tiêu thụ dần đến hết, và điều kiện chuyển từ hiếu khí sang kị  khí; nhiệt  độ có thể tăng lên đến 60­70oC. Nếu đống ủ không được trát kín, nó cũng có thể được  đảo xới định kỳ để được cung cấp oxy vào bên trong. Hình thức  ủ  đóng có thể  được áp dụng không những với rác thải sinh hoạt mà  còn với rác thải sản xuất của làng nghề, loại giàu tinh bột (chế  biến sắn, làm bún,   miến, v.v...), với phế  thải công nghiệp: công nghiệp cà phê (vỏ  hạt cà phê), công   nghiệp đường (bã thân cây mía), công nghiệp giấy (phế  liệu từ  thực vật), phế  thải   nông nghiệp (rơm, rạ), và với phế  thải chăn nuôi (phân và nước tiểu gia súc và gia  cầm). Thời gian ủ dài hay ngắn là tuỳ thuộc vào quy mô đống ủ, tuỳ nguyên liệu ủ và  điều kiện hiếu khí hay kị khí. Có thể kết hợp một giai đoạn hiếu khí với một giai đoạn  kị khí. Sản phẩm của sự   ủ  đống được gọi là phân  ủ  (compost), cũng giống như  của  quá trình phân huỷ  chất hữu cơ  trong tự  nhiên, là hỗn hợp của các chất hữu cơ  đơn   giản (các sản phẩm trung gian của quá trình phân huỷ các chất hữu cơ phức tạp) và các   chất vô cơ. Hỗn hợp này tương đương với mùn trong tự nhiên, vì thế có thể được dùng  16
  17. làm phân bón hữu cơ, dùng cho trồng trọt. Khi bón vào đất, chúng được các nhóm vi   sinh vật đất phân huỷ tiếp tới các chất vô cơ  mà cây hấp thụ được. Trong quá trình ủ  đống nói trên, nếu đảm bão giữ được nhiệt sinh ra (tới 60­70oC) thì hầu hết vi sinh vật  gây bệnh (vốn không sinh bào tử), và cả  trứng giun, sán bị  giết chết, nên phân  ủ  nói  chung không đáng lo ngại về mặt vệ sinh. Trong một số  trường hợp,  để  tăng cường quá trình phân huỷ  trong  đống  ủ,   người ta bổ sung các chế phẩm vi sinh vật gồm các tế bào sống đã được lựa chọn. Đó   có thể là chế  phẩm đơn chủng, hoặc đa chủng có những hoạt tính mong muốn, ví dụ  phân huỷ một loại chất nhất định, ở điều kiện hiếu khí, hay kị khí, hoặc vi hiếu khí. Hình: Quy trình ủ rơm rạ. Một   số   chủng   đã   được   dùng   làm   chế   phẩm   là   thuộc   các   chi Cellulomonas,   Trichoderma, Aspergillus, và Penicillium. Tại Viện Công nghệ  môi trường (Viện KH ­ CN Việt Nam) đã nghiên cứu và   sản xuất thành công, một loại chế  phẩm vi sinh mới dùng để  xử  lý phế  thải hữu cơ  thành phân bón hữu cơ: Cụ thể, Viện đã phân lập và tuyển chọn các chủng vi sinh vật  ưa nhiệt bao gồm 30 chủng xạ khuẩn  ưa nhiệt thuộc nhóm xạ khuẩn Streptomyces và   20 chủng vi khuẩn ưa nhiệt thuộc giống Bacillus. Các xạ khuẩn và vi khuẩn này có ưu   điểm là sinh enzym (men)có tác dụng phân hủy mạnh các chất hữu cơ trong chất thải  17
  18. như rác thải sinh hoạt, rơm rạ, bả rong riềng than bùn, phân gia súc, gia cầm… ở nhiệt   độ  cao (từ  50 ­ 60 độ  C trở  lên) thành phân bón hữu cơ.Trong một gam chế phẩm có   chứa hàng chục tỷ  tế  bào vi sinh vật hữu hiệu. Tất cả  các chủng vi sinh vật tuyển  chọn dùng để sản xuất các chế phẩm vi sinh vật đều đã được nghiên cứu kỹ các đặc   điểm sinh học để  khẳng định được chúng không độc hại cho con người, vật nuôi và  môi trường. Sau khi xử lý phế thải bằng vi sinh vật đã tạo ra được sản phẩm phân hữu   cơ  sạch, an toàn. Các loại rau, củ, quả  như  cà chua, cà rốt, bắp cải, đậu tương sinh   trưởng nhanh, năng suất cao, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt hơn (so với cây trồng   đối chứng chỉ bón đơn thuần bằng phân hóa học hoặc phân tươi không qua ủ), không   có ký sinh trùng gây bệnh như giun, sán… Sản xuất nhiên liệu từ  trấu: than trấu, củi trấu là lựa chọn tối  ưu để  thay thế  nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt  ở  nước SX nông nghiệp như  Việt Nam. Làm nguyên  liệu sản xuất than tổ  ong: thành phần có 60% chất thải hữu cơ từ làng nghề  và 40%  than cám thông thường. Than hữu cơ đã cháy hết có thể tái tạo sử dụng làm phân bón. II.2.5.2. Thê gi ́ ơi.  ́ Sản xuất điện năng từ rơm: Các nhà nghiên cứu đã phát triển một nhà máy khí sinh học chưa từng có chạy   hoàn toàn bằng phế  thải nông nghiệp: Rơm. Nhà máy sẽ  sản xuất ra nhiều khí sinh  học hơn 30% so với những nhà máy trước đây.  Viện công nghệ gốm sứ và hệ  thống  IKTS tại Dresden (CHLB Đức) đã triển khai một nhà máy khí sinh học chưa từng có. “Tại nhà máy thử  nghiệm của chúng tôi, chúng tôi chỉ  dùng phế  liệu của nông   nghiệp là lõi ngô và rơm lúa mì mà không dùng đến hạt. Bằng nguồn nguyên liệu ít giá   trị này chúng tôi đã sản xuất được khí sinh học với hiệu suất cao hơn các công nghệ   truyền thống tới 30%” – Michael Steller. Chủ nhiệm khoa IKTS nói.  18
  19. Hình: Nguyên liệu rơm hoặc lõi ngô. Thời gian để phân huỷ phế liệu (quá trình ủ) tại nhà máy có thể giảm từ 50 đến   70%. Sinh khối thường lưu giữ trong các thiết bị lên men để tạo ra khí sinh học trong   80 ngày. Nhờ  tìm ra được phương pháp tiền xử  lý, việc  ủ  trong các nhà máy thử  nghiệm của nhóm các nhà khoa học nói trên chỉ  mất 30 ngày. “Lõi ngô (hoặc rơm)   chứa xenlulôz không bị lên men trực tiếp. Nhưng tại nhà máy của chúng tôi, xenlulôz bị   men phân huỷ trước khi ủ”. Steller giải thích. Các nhà nghiên cứu cũng tối  ưu hoá được quy trình chuyển hoá khí sinh học  thành điện năng, Họ  chuyển khí đến một pin nhiên liệu nhiệt độ  cao với hiệu suất   chuyển hoá thành điện năng lên tới 40 đến 55%. Trong khi đó, các động cơ khí thường   dùng cho mục đích này chỉ thực hiện được hiệu suất trung bình 38% vì nhiệt rất khó   chuyển hoá thành điện năng. Ngoài ra, vì pin nhiên liệu vận hành  ở  850 độ  C, nên có   thể tận dụng trực tiếp nhiệt năng để làm nóng hoặc cung cấp cho mạng lưới sưởi ấm   tại các thành phố. Nếu cộng gộp cả hiệu suất điện và nhiệt, thì pin nhiên liệu sẽ  đạt  được hiệu suất chung lên tới 85%, trong khi hiệu suất như vừa nói của động cơ  đôt   thông   thường   không   vượt   dược   quá   38%.  19
  20. Nhà máy thử nghiệm có công suất 1,5 kilowatt, đủ để đáp ứng nhu cầu năng lượng của   một hộ gia đình. Các nhà nghiên cứu sẽ trình bày quan niệm và kết quả nghiên cứu đầy  triển vọng của họ tại Hội chợ Hanover tổ chức từ 20 đến 24 Tháng Tư năm nay. Giai  đoạn kế tiếp của Dự án, theo các nhà khoa học là phối hợp với các đối tác công nghiệp   để nâng quy mô thử nghiệm lên công suất 2 megawatt. II.3. Ứng dụng công nghệ sinh thái trong xử lí chất thải hữu cơ nông nghiệp  trong trồng trọt. II.3.1. Sử dụng chế phẩm sinh học biến rơm rạ thành phân bón hữu cơ. Hình: rơm rạ đốt trên đồng ruộng. Theo phân tích, thành phần hóa học của rơm rạ  tính theo khối lượng khô gồm  xenluloza, đạm hữu cơ, chất béo. Nếu tính theo nguyên tố  thì carbon (C) chiếm 44%,  hyđrô (H)­ 5%. Oxygen (O)­ 49%, N­ khoảng 0,92%, và một lượng rất nhỏ photpho (P),   lưu huỳnh (S), kali (K). Đó là điều gây cản trở việc sử dụng rơm, rạ một cách kinh tế. Đề  góp phần giảm thiểu ô nhiễm sử  dụng chế  phẩm sinh học biến rơm rạ  thành phân bón hữu cơ  thử  nghiệm thành công tại nhiều địa phương khác nhau (Thái  Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Hòa Bình, Hưng Yên, Hà Nội...) đem lại hiệu quả kinh tế  rõ rệt, được các chuyên gia nông nghiệp và bà con nông dân đánh giá cao. Như chúng ta biết, trong tự nhiên, tất cả các chất hữu cơ tự nhiên đều bị nhóm   này hay nhóm khác của vi sinh vật phân huỷ, trong điều kiện hiếu khí hoặc kị  khí.  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2