Tiểu luận: Vấn đề giảng viên, sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam nói chung và hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập nói riêng
lượt xem 80
download
Tiểu luận: Vấn đề giảng viên, sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam nói chung và hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập nói riêng nhằm trình bày về tình hình giáo dục đại học Việt Nam, giảng viên và sinh viên trong hệ thống giáo dục Việt Nam, giảng viên, sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Vấn đề giảng viên, sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam nói chung và hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập nói riêng
- TRƯỜ NG ĐẠI HỌ C KHOA HỌ C XÃ HỘ I & NHÂN VĂN KHOA GIÁO DỤC MÔN : GIÁO DỤC ĐẠI HỌ C THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM ĐỀ TÀI: VẤN ĐỀ GIẢNG VIÊN, SINH VIÊN TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC NGOÀI CÔNG LẬP NÓI RIÊNG GVGD: PGS. TS. PHẠM LAN HƯƠ NG NHÓ M 03: 1. Trần Công Bình 2. Nguyễn Trung Cang 3. Nguyễn Ngọc Bảo Châu 4. Vũ Hoàng Lan Chi 5. Nguyễn Thành Công 6. Dương Bảo Cường 7. Trần Cao Cường 8. Nguyễn Thị Anh Đào 9. Trần Tiến Đạt 10. Phan Thị Diễm 11. Đỗ Thị Ngọc Diệp 12. Vũ Thị Kim Liên 13. Trần Thị Thu Nhi 14. Nguyễn Thị Thu Thanh Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 11 năm 2013
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 03 Họ và tên số thứ tự Trần Công Bình 10 Nguyễn Trung Cang 11 Nguyễn Ngọc Bảo Châu 13 Vũ Hoàng Lan Chi 14 Nguyễn Thành Công 15 Dương Bảo Cường 17 Trần Cao Cường 18 Nguyễn Thị Anh Đào 20 Trần Tiến Đạt 21 Phan Thị Diễm 23 Đỗ Thị Ngọc Diệp 24 Vũ Thị Kim Liên 53 Trần Thị Thu Nhi 72 Nguyễn Thị Thu Thanh Lớp NVSP18 Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên i Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . MỤC LỤC Chương I: Giới thiệu đề tài .....................................................................................................1 Chương II: Vấn đề Giảng viên, Sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam nói chung và hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập nói riêng .....................................2 I. Tình hình chung về giáo dục Đại học ở Việt Nam ...........................................................2 1. Khái niệm giáo dục ..........................................................................................................2 2. Tình hình chung giáo dục Đại học ở Việt Nam ...........................................................2 2.1. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất 1950 .............................................................2 2.2. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 2 1956 ..................................................................2 2.3. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3 1979 ..................................................................2 2.4. Nền giáo dục nước nhà sau cải cách kinh tế - xã hội 1986: có những tay đổi đáng kể...............................................................................................................................3 2.5 Tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay ...................................................................4 II. Giảng viên và sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học việt nam ..............................6 1. Giảng viên .........................................................................................................................6 1.1. Số lượng giảng viên..................................................................................................6 1.2. Chất lư ợng giảng viên ..............................................................................................8 2. Sinh viên.......................................................................................................................... 11 2.1. Một số đặc điểm của sinh viên.............................................................................. 11 2.2. Số lượng sinh viên .................................................................................................. 12 2.3. Chất lư ợng sinh viên .............................................................................................. 13 III. Giảng viên và sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập ................ 15 1. Giảng viên ....................................................................................................................... 15 1.1. Số lượng giảng viên................................................................................................ 15 Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên ii Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . 1.2. Chất lư ợng giảng viên ............................................................................................ 17 2. Sinh viên.......................................................................................................................... 19 2.1 Số lượng sinh viên ................................................................................................... 19 2.2. Chất lư ợng sinh viên .............................................................................................. 21 Chương III: Giải pháp và kiến nghị ..................................................................................... 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................... 27 Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên iii Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . Chương I: Giới thiệu đề tài Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đầu tư nhiều hơn vào giáo dục, tương đương một phần trăm trong tổng sản phẩm quốc nội. Tuy nhiên, Giáo dục Việt Nam nói chung và đại học nói riêng đang được xem là “thời đại khủng hoảng giáo dục” chính là do việc quản lý yếu kém chứ không phải do thiếu đầu tư. Hầu hết chúng ta đang có sự bất mãn đối với thực trạng giáo dục Việt Nam hiện nay, trong đó kể cả người có điều kiện kinh tế và chính trị cao hơn lẫn những người bình dân đại chúng. Nhiều trường đại học chỉ quan tâm đến chuyện làm sao để tuyển dụng được nhiều sinh viên nhất chứ không hề quan tâm đến rồi đây các cử nhân, kỹ sư sẽ đi về đâu? Họ có thể tìm được công ăn việc làm không sau khi ra trường không? Nguyên nhân này đã dẫn đến tình trạng lao động trong nước “cằn cỗi” ảnh hưởng đến sự phát triển của nước nhà. Đứng trước tình trạng trì trệ và lạc hậu của giáo dục làm cản trở sự tăng trưởng của nền kinh tế nước nhà, nhóm 3 lớp Nghiệp vụ sư phạm giảng viên khoá 19 quyết định chọn đề tại: “Vấn đề Giảng viên, Sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam nói chung và hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập nói riêng”. Trong đề tài này, nhóm đi sâu tìm hiểu, phân tích và đưa ra giải pháp về tình trạng giáo dục đại học hiện nay tại Việt Nam. Trong đó, nhóm chú trọng phân tích về khía cạnh giảng viên và sinh viên trong các trường đại học ngoài công lập. Thông qua tiểu luận này, nhóm mong rằng sẽ đóng góp một phần ý tưởng về phát triển giáo dục đại học về mặt giảng viên và sinh viên hiện nay ở các trường trường đại học Việt Nam nói chung và đại học ngoài công lập nói riêng. Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 1 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . Chương II: Vấn đề Giảng viên, Sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam nói chung và hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập nói riêng I. Tình hình chung về giáo dục Đại học ở Việt Nam 1. Khái niệm giáo dục Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và người học theo hướng tích cực. Nghĩa là hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội đương đại. 2. Tình hình chung giáo dục Đại học ở Việt Nam 2.1. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất 1950 Tháng 7/1950 bản đề án cải cách giáo dục đã được Hội đồng chính phủ thông qua. Bản đề án mới đã nêu rõ: Nền giáo dục mới phải là nền giáo dục của dân, do dân và vì dân, được thiết kế trên nguyên tắc “ Dân tộc, khoa học và đại chúng”. Mục tiêu của giáo dục là giáo dục thế hệ trẻ thành những công dân trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, có phẩm chất, nghị lực phục vụ kháng chiến, phục vụ đất nước. Cơ cấu nhà trường cải cách gồm hệ thống phổ thông 9 năm và hệ thống giáo dục bình dân, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục cao đẳng và đại học. 2.2. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 2 1956 Sau ngày giải phóng 1954, Miền Bắc có hai hệ thống giáo dục phổ thông cùng tồn tại: hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm do ta xây dựng và hệ thống giáo dục 12 năm ở vùng mới giải phóng do Pháp để lại. Vì vậy tháng 3/1956, Chính phủ đã thông qua đề án cải cách giáo dục lần thứ 2. Mục tiêu của lần này là: đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người phát triển về mọi mặt, những công dân tốt, cán bộ tốt trung thành với nhà nước. Về hệ thống giáo dục, hình thành hệ thống giáo dục 10 năm gồm 3 cấp và giáo dục – đào tạo chuyên nghiệp. 2.3. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3 1979 Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 2 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . Trong điều kiện đất nước đã thống nhất, cùng đi lên xã hội chủ nghĩa, với nhận thức giáo dục là “nền tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc, là cơ sở ban đầu rất trọng yếu trong sự phát triển con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa,” ngày 11/01/1979, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 14/NQ- TW về cải cách giáo dục lần thứ ba, trong đó tập trung cải cách cả cơ cấu hệ thống giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục. Cuộc cải cách này nhằm mục đích thống nhất hai hệ thống giáo dục tồn tại ở hai miền Bắc - Nam (hệ thống giáo dục 10 năm của miền Bắc và hệ 12 năm của miền Nam) trong thời kỳ 1954-1975 và từng bước phổ cập giáo dục trong toàn dân (thông qua chương trình giáo dục liên tục cho trẻ em và bổ túc văn hóa cho người lớn). Để thực hiện cuộc cải cách này, trước hết đòi hỏi nỗ lực xây dựng trường sở, giáo trình, phương tiện sư phạm cần thiết để kéo dài cấp tiểu học thêm 1 năm và cấp THCS thêm 1 năm đối với hàng triệu học sinh miền Bắc. Trong điều kiện thiếu thốn chung của nền kinh tế đất nước, việc đầu tư thực hiện cuộc cải cách hệ thống giáo dục đã khiến chất lượng giáo dục giảm sút trong suốt thập niên 80 của thế kỷ XX, những dấu hiệu khủng hoảng giáo dục xuất hiện với tình trạng bỏ học gia tăng, vị thế xã hội và kinh tế của người giáo viên sa sút… 2.4. Nền giáo dục nước nhà sau cải cách kinh tế - xã hội 1986: có những tay đổi đáng kể Thay đổi trong cách nhìn nhận vai trò của giáo dục - đào tạo. Quan niệm “giáo dục như một bộ phận của cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa” đã được thay thế bởi cách hiểu “đầu tư cho giáo dục là nguồn đầu tư cho phát triển”. Trong Nghị quyết về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo” (Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tháng 01/1993), Đảng và Nhà nước đã khẳng định quan điểm: “Giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được xem là quốc sách hàng đầu. Coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển”. Chính sách xã hội hóa giáo dục Khi nền kinh tế nhiều thành phần ra đời và chế độ “bao cấp” dần bị xóa bỏ, thì vai trò độc quyền của nhà nước trong cung cấp các dịch vụ y tế và giáo dục dần dần giảm bớt, đồng thời các dịch vụ này không còn miễn Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 3 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . phí. Thông qua Nghị quyết số 90/CP ngày 21/08/1997 về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, Nhà nước khuyến khích mở rộng nhiều hình thức giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các loại trường, lớp bán công, dân lập, tư thục tại thành phố, thị xã, thị trấn và những vùng có kinh tế thuận lợi. Chính sách đã thành công, thể hiện ở việc ra đời ngày càng nhiều trường tư thục, dân lập, từ mầm non đến đại học, làm giảm sức ép cho giáo dục công lập trong khi ngân sách nhà nước còn rất eo hẹp. Hệ thống giáo dục quốc dân Nghị định số 90/CP ngày 24/11/1993 của Chính phủ là văn bản đầu tiên thể chế hóa các quy định về hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống bằng cấp và chứng chỉ cho giáo dục - đào tạo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đặc biệt, Luật Giáo dục đã được Quốc hội thông qua ngày 11/12/1998, trở thành bộ luật đầu tiên quy định cụ thể về hoạt động giáo dục của Việt Nam, tạo ra khung khổ pháp lý cho hoạt động giáo dục của Việt Nam. Từ những năm 2000 trở lại đây quy mô giáo dục Đ H và sau ĐH đã tăng đáng kể. Năm học 2003-2004 có hơn 1.032.000 sinh viên, gần 33.000 học viên cao học và nghiên cứu sinh. Hàng năm, số sinh viên từ khu vực nông thôn, miền núi đều chiếm khoảng 70% tổng số tuyển mới. 2.5 Tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay Giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng là nhân tố làm thúc đẩy nền kinh tế, văn hoá, khoa học và xã hội phát triển. Hiện nay, Việt Nam cũng đang chú trọng phát triển Giáo dục đại học, các trường đại học đã được lập ra ngày càng nhiều ở các vùng miền của đất nước nhằm đáp ứng nhu cầu của sinh viên. Tuy nhiên, sự quản lý yếu kém của bộ máy quản lý nhà nước trong giáo dục đã dẫn đến tình trạng “bạo phát bạo tàn”, số lượng trường tăng lên nhưng chất lượng giáo dục lại giảm xuống. Chúng ta có thể hình dung giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục Đại học nói riêng hiện nay được xem là “lạm phát giáo dục”. Khi nền kinh tế Việt Nam lún sâu vào trạng thái đình lạm (hoạt động sản xuât- kinh doanh đình đốn trong bối cảnh lạm phát vẫn tăng cao), ngành giáo dục đại học cũng đã đi xuống. Chúng ta khó có thể xác định được phong trào đóng cửa ngành học đã bắt đầu từ đâu, nhưng điều chắc chắn là phong trào Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 4 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . này đang lan rộng ở cả ba miền Trung, Nam, Bắc. Chẳng hạn, tại miền Trung là trường hợp của Đại học Đà Nẵng (đóng ngành kinh tế chính trị và thống kê tin học). Đại học Phạm Văn Đồng (đóng ngành tài chính ngân hàng). Tại Tp.H CM , với số lượng hơn nửa triệu sinh viên và thuộc loại cao nhất nước về sức cầu học tập cũng có một số trường đóng cửa ngành học như Đại học Văn Hiến, Đại học Hùng Vương. Ngay cả một trường công lập có bề dày truyền thống như Đại học N ông lâm cũng đã tuyên bố có thể phải đóng cửa nhóm ngành cơ khí, nông nghiệp. Ở khu vực phía Bắc, Đại học Chu Văn An tại Hưng Yên cũng không phải là ngoại lệ. Hiện tượng đóng cửa ngành học nói lên điều gì? Những trường hợp nêu trên chỉ mang tính minh họa, trong khi còn khá nhiều trường đại học cũng lâm vào tình trạng như thế. Qua đó cho thấy, trường Đại học tăng lên trong khi lượng thí sinh tăng không đáng kể, hoặc chủ trương đại học hóa các trường cao đẳng đã dẫn đến tình trạng mạng lưới bị thừa và lẫn lộn…Cung tăng trong khi cầu không thỏa mãn được cung, một quy luật tự nhiên mà giáo dục đại học không được xem là ngoại lệ. Thậm chí trong những năm tới tình hình tuyển sinh của khối đại học ngoài công lập còn bi đát hơn hiện thời. Cùng với hiện tượng đóng cửa ngành học của nhiều trường đại học, vào tháng 10/2011, Nam Định đã trở thành tỉnh đầu tiên khi chính quyền của địa phương này công khai thông báo không tuyển dụng công chức là những người tốt nghiệp đại học dân lập, tư thục hay tại chức. Xin lưu ý, tính chất dân lập hay tư thục là như nhau ở Việt Nam, được nhìn nhận chung là trường ngoài công lập. Đây cũng là lần đầu tiên văn bằng của khối trường ngoài công lập bị xúc phạm đến như vậy. Sự xúc phạm này ngay lập tức đã làm dấy lên một làn sóng phản đối từ phía hội đồng quản trị và ban giám hiệu của nhiều trường đại học dân lập. Hiểu theo nghĩa thông thường, hành động của chính quyền tỉnh Nam Định không khác gì một sự phân biệt đối xử trên phương diện xã hội học. Nhưng ở một góc cạnh khác, người ta lại nhận ra rằng đã đến lúc gióng lên tiếng “chuông gọi hồn ai” về thực trạng đào tạo tại nhiều trường đại học ngoài công lập. Khởi đầu của “đường dây giáo dục phí” dẫn đến Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng là logic cho sự tiếp nối về cách làm ăn ẩu tả của nhiều trường đại học ngoài công lập. Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 5 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . Hoàn toàn không khác với trường ngoài công lập, ngay các trường cao đẳng công lập được “nâng cấp” thành đại học và trường trung cấp phát triển thành cao đẳng, cũng rơi vào tình trạng bình mới rượu cũ. Hiển nhiên, giáo dục là một trong những lĩnh vực được chú trọng về lượng hơn là chất ở Việt Nam trong vài chục năm qua, dẫn đến hậu quả là từ năm 2000 đến năm 2011, trong khi số lượng trường đại học từ 69 trường tăng đến trên 160 trường, thì lượng giáo viên được chuẩn đào tạo công nhận vẫn chỉ gần như một hằng số. Còn về chất, có thể lấy sự so sánh giữa hoạt động giáo dục đại học ở Việt Nam với Thái Lan trong giai đoạn 2007-2008 như một bằng chứng. Vào thời gian đó, số trường đại học ở Việt Nam đã vào khoảng 150 trường, so với chỉ 112 trường ở Thái Lan. Tuy nhiên, người Thái lại có đến 14.000 tiến sĩ, 35.000 thạc sĩ, trong khi người Việt chỉ có 5.600 tiến sĩ và 15.000 thạc sĩ. Thế nhưng tiêu chí so sánh thực chất nhất chính là số bài báo khoa học trên tập san quốc tế giữa hai quốc gia: ngành giáo dục Việt Nam chỉ có 959 bài, trong khi các nhà khoa học Thái có đến 4.527 bài, tức gấp gần 5 lần. Như vậy, chỉ cần so sánh với một trường hợp phát triển trung bình như Thái Lan, đã có thể thấy thực chất ngành giáo dục Việt Nam ra sao khi số lượng trường đại học nhiều hơn hẳn, nhưng chất lượng đào tạo lại kém hơn hẳn. II. Giảng viên và sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học việt nam 1. Giảng viên M ột trong những yếu tố hàng đầu tạo nên chất lượng đào tạo của một trường đại học là số lượng và chất lượng hàng ngũ giảng viên. Ở đây, số lượng rất quan trọng, nhưng chất lượng (hay cơ cấu thành phần - phần trăm tiến sĩ, giáo sư …) còn quan trọng hơn. 1.1. Số lượng giảng viên Theo số liệu thống kê của Bộ GD &ĐT thì số lượng giảng viên tăng lên rất nhiều trong những năm gần đây. Vào năm 1987 số lượng giảng viên cả nước là 20.212 người. Vào tháng 8/2008, cả nước có khoảng 52.000 giảng viên. Đến tháng 6/2012 số Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 6 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . lượng giảng viên cả nước tăng lên đến 77.500 giảng viên. Lượng giảng viên tăng lên này góp phần không nhỏ vào công tác giáo dục đào tạo của nước ta hiện nay. Số lượng giảng viên tăng lên rất nhiều trong vài năm trở lại đây là bởi vì số lượng các trường đại học, cao đẳng thành lập một cách ồ ạt. Và để đáp ứng nhu cầu về đội ngũ giảng dạy vì vậy họ phải tuyển một lượng lớn giảng viên. Theo thống kê của ngành giáo dục, trong hai năm 2006-2007 có 39 trường được thành lập, bình quân mỗi năm gần 20 trường. Trong 4 năm, từ 2008 đến 2011, có 45 trường được thành lập, bình quân mỗi năm là 11. Còn trong 5 năm, từ năm 2006 đến 2011, có 84 trường mới thành lập, nâng cấp 51 trường (chiếm 61%), thành lập mới 33 trường (39%). Hiện nay, Việt Nam có 440 trường đại học, cao đẳng, trong đó, có 77 trường ngoài công lập. Bên cạnh đó, các trường đại học, cao đẳng muốn có lực lượng kế thừa để thay thế lượng giảng viên về hưu, cũng như là đáp ứng việc mở ngành mới, tăng số lượng tuyển sinh. Họ đã và đang thực hiện áp dụng chính sách giữ lại các sinh viên tốt nghiệp loại khá giỏi làm giảng viên. Mặt khác, một số trường đại học, cao đẳng có các chính sách ưu đãi để thu hút nhân tài từ nguồn sinh viên du học nước ngoài. Tuy nhiên, so với tốc độ phát triển của các trường đại học và cao đẳng như hiện nay thì lượng giảng viên đang thiếu hụt một cách trầm trọng. Theo quy định mới của Bộ Giáo dục & Đào tạo (GD&ĐT), các trường đại học phải dựa vào tiêu chí: Đội ngũ giảng viên cơ hữu (chính thức) của trường phải đạt từ 25 sinh viên/giảng viên. Nếu xét đúng như tiêu chí trên thì sẽ có rất nhiều trường phải tạm ngưng tuyển sinh vì hiện nay đa số các trường đại học đều có tỷ lệ giảng viên/sinh viên khá thấp. ĐH DL Ngoại ngữ tin học TP HCM : 47,3 SV/GV, ĐH Tây Đô: 44,2 SV/GV, ĐH M ở TP HCM : 41,2 SV/GV, ĐH Hồng Bàng: 40,2 SV/GV…; Như vậy, số sinh viên trên một giảng viên SV/GV trung bình là 28. Với nhiều trường ngoài công lập, con số này chắc chắn còn cao hơn nhiều, đó là chưa kể sự sai lệch bởi những con số ảo trong những báo cáo hoặc thuyết minh xin thành lập trường mới, ngành mới... Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 7 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . M ột mặt số trường, lớp, ngành nghề đào tạo và nhu cầu lực lượng giảng viên tăng lên vùn vụt. Mặt khác số lượng giảng viên nói chung hoặc giảng viên có trình độ cao (cử nhân khá giỏi, tiến sĩ và giáo sư) lại tăng lên chậm chạp. Theo Nghị quyết 14- 2005/NQ -CP, ngoài một số trường phải đạt đẳng cấp quốc tế với tỉ lệ SV/GV không quá 20, đến năm 2010 có ít nhất 40% giảng viên đạt trình độ thạc sĩ và 25% đạt trình độ tiến sĩ. Và đến năm 2020, chỉ tiêu này cao hơn với ít nhất 60% giảng viên đạt trình độ thạc sĩ và 35% đạt trình độ tiến sĩ. 1.2. Chất lượng giảng viên Chất lượng đội ngũ giảng viên đại học được thể hiện chủ yếu qua chất lượng hoạt động giảng dạy và chất lượng nghiên cứu khoa học của giảng viên. Liên quan đến hoạt động giảng dạy, thực trạng hiện nay cho thấy có tình trạng quá tải giờ dạy của đội ngũ đội ngũ giảng viên do việc thành lập ồ ạt các cơ sở giáo dục đại học cùng với sự gia tăng nhanh chóng về quy mô đào tạo trong khi số lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy không tăng kịp theo tốc độ tăng quy mô. Thực tế này diễn ra phổ biến, đặc biệt là đối với giảng viên những môn chung như triết học, ngoại ngữ, kinh tế chính trị… và giảng viên nhóm ngành hấp dẫn như công nghệ thông tin, ngân hàng, tài chính kế toán... Có những giảng viên dạy 1.000 tiết/năm trong khi quy định là 260 tiết/năm. Do thiếu giảng viên, nhiều trường buộc phải sử dụng giáo viên thỉnh giảng từ các trường ĐH, CĐ khác nên việc giảng viên “chạy sô” là chuyện không còn hiếm. Trong khi đó, công tác nghiên cứu khoa học chưa được chú trọng; nội dung công tác nghiên cứu khoa học không có chất lượng, hiệu quả, không có tính thực tiễn và khả năng ứng dụng mà chỉ nhằm đối phó hoặc để chấm điểm bình xét thi đua, xét phong danh hiệu. Công bố công trình khoa học trên tạp chí quốc tế ngày càng được quan tâm và chấp nhận như một tiêu chí đánh giá khách quan chất lượng nghiên cứu khoa học. Công bố quốc tế của Việt Nam được chia thành hai loại tùy theo tác giả đầu mối (coresponding author) trong nước hay nước ngoài. Loại thứ nhất, gọi là công bố quốc Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 8 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . tế do nội lực, được trích dẫn ít hơn hẳn so với loại thứ hai. Bài báo do nội lực liên quan trực tiếp đến đầu vào và đầu ra trong nghiên cứu khoa học, do đó có thể dùng làm cơ sở để đánh giá hiệu quả nghiên cứu khoa học và giúp hình dung cấu trúc các ngành khoa học nước nhà hiện nay. Để biết khoa học và đại học Việt Nam đang ở đâu, dưới đây sẽ so sánh công bố quốc tế của một số trường đại học hàng đầu ở Việt Nam với Thái Lan. Năng suất nghiên cứu khoa học tính bằng số bài báo quốc tế trên một triệu dân được dùng để so sánh các nước về mặt số lượng. Về chất lượng có thể dựa trên số lần trích dẫn trung bình các bài báo công bố năm 2004. Dựa vào bảng 1 ta thấy, năng suất nghiên cứu khoa học công bố quốc tế của các nước tăng đều hằng năm theo cấp số nhân. Việt Nam, Thái Lan và Malaysia tăng trưởng khá nhanh, 16% hàng năm. Tuy nhiên, số công trình Việt Nam vẫn luôn kém Thái Lan 6,5 lần, Malaysia 9,5 lần. Bảng 1. Tổng số bài báo quốc tế và tốc độ tăng trưởng của 11 nước và vùng lãnh thổ Đông Á trong hai năm 2002 và 2007. Nguồn: ISIKOWLEDG E (http://db.vista.gov.vn/) cập nhật ngày 30/10/2008. Tăng trưởng, 2002 2007 %/năm Trung Quốc 31721 81006 20 Nhật Bản 59253 62044 1,3 Hàn Quốc 14948 24917 11 Đài Loan 10610 17689 11 Singapore 3863 5903 10 Hong Kong 2862 4007 7 Thái Lan 1547 3353 16 Malaysia 901 2051 16 Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 9 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . Việt Nam 324 691 16 Indonesia 400 584 8 Philippines 398 500 3,5 Về cơ cấu, tỉ lệ giảng viên có trình độ thạc sĩ trở lên chiếm chưa tới 50% tổng số giảng viên đại học, trong đó trình độ tiến sĩ chiếm 10,16% (giảm so với thời điểm năm 1997) và chỉ có 3,74% giảng viên có chức danh Phó Giáo sư, Giáo sư. Con số này còn quá thấp so với mục tiêu của Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra là đến năm 2020 phải đạt ít nhất 35% giảng viên có trình độ tiến sĩ. Đội ngũ giảng viên đại học có trình độ cao, đặc biệt là các Phó Giáo sư, Giáo sư có độ tuổi trung bình khá cao, phân bố tập trung chủ yếu ở một số trường đại học lớn tại các khu vực trung tâm. Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, tổng số giảng viên đại học, cao đẳng ở nước ta đến nay là 77.500 người, trong đó giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư chiếm tỷ lệ 3,5%; giảng viên có trình độ tiến sĩ chiếm tỷ lệ khoảng 10% và giảng viên có trình độ thạc sĩ chiếm tỷ lệ khoảng 40%. Như vậy còn khoảng 50% giảng viên ở các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH ) chưa có bằng Tiến sĩ, Thạc sĩ. Vì vậy nếu qui định cứng trong Luật GDĐ H là giảng viên ĐH phải có trình độ Thạc sĩ trở lên thì khi Luật có hiệu lực sẽ có khoảng 50% số cán bộ giảng dạy hiện nay không được dạy, đồng nghĩa với việc giảm 50% qui mô đào tạo. Từ năm 1976 đến hết năm 2013, sau 37 năm, tổng số GS, PG S đã được công nhận ở nước ta là 10.453, trong đó có 1.569 GS và 8.884 PGS, nhiều người đã mất và về hưu. Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, đến năm 2012, tính tỉ lệ bình quân cả nước chỉ có xấp xỉ 1 GS hoặc PGS trên 2 vạn dân, không quá 5% giảng viên ĐH là GS hoặc PGS và 560 (nếu kể cả GV thỉnh giảng nữa thì khoảng 300) sinh viên trên 1 GS hoặc PGS. GS.TS Ngô Văn Lệ cho biết: “Muốn có được chất lượng tốt trong đào tạo thì phải xây dựng được một đội ngũ giảng viên đảm bảo cả về chất lượng, số lượng và cơ sở vật chất phục vụ đào tạo cũng phải đáp ứng đúng nhu cầu. Tuy nhiên, hiện nay số Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 10 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . người có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ lại chiếm tỷ lệ rất thấp nên buộc các trường phải sử dụng giảng viên có trình độ đại học để dạy đại học”. 2. Sinh viên 2.1. Một số đặc điểm của sinh viên Sinh viên là một nhóm xã hội đặc biệt, đang tiếp thu những kiến thức, kỹ năng chuyên môn ở các trường cao đẳng, đại học để chuẩn bị cho hoạt động nghề nghiệp sau khi ra trường. M ỗi một lứa tuổi khác nhau đều có những đặc điểm tâm lý nổi bật, chịu sự chi phối của hoạt động chủ đạo. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi thanh niên - sinh viên là sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có những hiểu biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển bản thân theo hướng phù hợp với xu thế xã hội. Chẳng hạn sinh viên đang học ở các trường cao đẳng, đại học sư phạm, họ nhận thức rõ ràng về những năng lực, phẩm chất của mình, mức độ phù hợp của những đặc điểm đó với yêu cầu của nghề nghiệp, qua đó họ sẽ xác định rõ ràng mục tiêu học tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành động học tập hàng ngày trong giờ lên lớp, thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ khả năng tự đánh giá phát triển mà sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét năng lực học tập của mình, kết quả học tập cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ, vào phương pháp học tập của họ. Ở sinh viên đã bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đề cuộc sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày. Sinh viên là những trí thức tương lai, ở các em sớm nảy sinh nhu cầu, khát vọng thành đạt. Học tập ở đại học là cơ hội tốt để sinh viên được trải nghiệm bản thân, vì thế, sinh viên rất thích khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời, họ thích bộc lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn sống, hiểu biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình. M ột đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn định của sinh viên, trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp - một động lực giúp họ học tập một cách chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu thích và đam mê với nghề lựa chọn. Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 11 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp người giàu nghị lực, giàu ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không đồng đều về mặt tâm lý, do những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách thức giáo dục khác nhau, không phải bất cứ sinh viên nào cũng được phát triển tối ưu, độ chín muồi trong suy nghĩ và hành động còn hạn chế. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực hoạt động của bản thân mỗi sinh viên. Bên cạnh đó, sự quan tâm đúng mực của gia đình, phương pháp giáo dục phù hợp từ nhà trường sẽ góp phần phát huy ưu điểm và khắc phục những hạn chế về mặt tâm lý của sinh viên. Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, mặc dù là những người có trình độ nhất định, sinh viên không tránh khỏi những hạn chế chung của lứa tuổi thanh niên. Đó là sự thiếu chín chắn trong suy nghĩ, hành động, đặc biệt, trong việc tiếp thu, học hỏi những cái mới. Ngày nay, trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế, trong điều kiện phát triển công nghệ thông tin, nền văn hoá của chúng ta có nhiều điều kiện giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hoá trên thế giới, kể cả văn hoá phương Đông và phương Tây. Việc học tập, tiếp thu những tinh hoa, văn hoá của các nền văn hoá khác là cần thiết. Tuy nhiên, do đặc điểm nhạy cảm, ham thích những điều mới lạ kết hợp với sự bồng bột, thiếu kinh nghiệm của thanh niên, do đó, sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét văn hoá không phù hợp với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và không có lợi cho bản thân họ. Lứa tuổi sinh viên có những nét tâm lý điển hình, đây là thế mạnh của họ so với các lứa tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm nghề nghiệp, có năng lực và tình cảm trí tuệ phát triển (khao khát đi tìm cái mới, thích tìm tòi, khám phá), có nhu cầu, khát vọng thành đạt, nhiều mơ ước và thích trải nghiệm, dám đối mặt với thử thách. Song, do hạn chế của kinh nghiệm sống, sinh viên cũng có hạn chế trong việc chọn lọc, tiếp thu cái mới. Những yếu tố tâm lý này có tác động chi phối hoạt động học tập, rèn luyện và phấn đấu của sinh viên 2.2. Số lượng sinh viên Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, năm học 2011-2012, cả nước có 2.204.313 sinh viên, tăng 2% so với năm học trước và giảm 3,5 lần so với mức tăng quy mô đào tạo Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 12 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . trước khi có Nghị quyết của Quốc hội. Số lượng sinh viên hệ chính quy của năm học 2011-2012 là 1.741.999 người, chiếm 79% tổng quy mô đào tạo, tăng 16% so với năm học 2007-2008. Tỉ lệ sinh viên hệ vừa học vừa làm giảm nhanh từ 487.491 sinh viên, chiếm 36,4% vào năm học 2009-2010 xuống còn 457.795 sinh viên, chiếm 32,4% tổng quy mô đào tạo năm học 2010-2011 và chỉ còn 28,23% (401.192 sinh viên) vào năm học 2011-2012. Số lượng sinh viên tăng lên hằng năm và rất nhiều trong những năm gần đây là do tốc độ phát triển của các trường đại học, cao đẳng một cách ồ ạt và rầm rộ trong vài năm trở lại đây. Bên cạnh đó, các trường đại học, cao đẳng trong cả nước đua nhau mở thêm ngành mới và tăng chỉ tiêu tuyển sinh. Chỉ tiêu được giao hằng năm về tăng quy mô đào tạo đối với giáo dục đại học từ năm 2010 tới nay chỉ dừng ở mức khoảng 6-6,5%, giảm 5-6% so với năm 2009 trở về trước (giai đoạn từ năm 2009 trở về trước, tỉ lệ tăng quy mô giáo dục đại học được giao luôn ở mức 12-13%/năm). Tỉ lệ sinh viên hệ chính quy, tập trung tăng lên trong khi số lượng sinh viên hệ phi chính quy giảm dần. 2.3. Chất lượng sinh viên Chất lượng của sinh viên Việt Nam đang ngày một đi xuống và trong tình trạng đáng báo động. Theo điều tra của Bộ Giáo Dục năm 2011, cả nước có đến 63 % sinh viên thất nghiệp vì thiếu kỹ năng. Tại diễn đàn giáo dục Đại học Việt Nam-Thụy Sỹ đã đề cập đến nghiên cứu mới đây của Viện Quản lý kinh tế Trung ương Việt Nam thì phần lớn sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng và cả các trường dạy nghề chưa đáp ứng được yêu cầu kỹ năng ngày càng cao của doanh nghiệp. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, 44% các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải thực hiện đào tạo tại chỗ cho các lao động mới tuyển. Và 25% các học viên từ các trường đào tạo nghề không đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức chuyên môn cũng như tay nghề trong các doanh nghiệp. Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 13 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . Theo khảo sát của trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn có khoảng 26,2% cử nhân đại học ra trường nhưng không có việc làm. Bên cạnh đó, 70,8% cử nhân ra trường lại làm những công việc trái ngành nghề được đào tạo, chỉ có khoảng 19% cử nhân làm đúng ngành nghề được đào tạo. Tình trạng chất lượng sinh viên ngày càng đi xuống có nhiều nguyên nhân. M ột số nguyên nhân tiêu biểu như: Cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy của nhiều trường đại học, cao đẳng không đáp ứng tốt cho việc giảng dạy. Nhiều trường đại học, cao đẳng phải thuê cơ sở vật chất để giảng dạy. Thư viện trường chỉ được đầu tư qua loa, chủ yếu là để đối phó. Các đầu sách trong thư viện thiếu cả về số lượng và chất lượng. Quy chế giảng dạy vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế: nhiều sinh viên cho rằng: “chán học, bỏ học, ít học” cũng một phần bắt nguồn từ quy chế giảng dạy ở các trường đại học. Các chương trình học ở các trường đại học vẫn còn quá nặng lí thuyết, nhiều giờ học vẫn theo hình thức “thầy giảng trò chép”, ít thực tế. Hơn nữa, nhiều trường đại học vẫn theo quy chế chỉ xét điểm tổng kết của sinh viên trong kì thi cuối kì (thi học phần), những điểm trong kì (thi học trình) chỉ là điều kiện để đánh giá sinh viên có được tham gia kì thi cuối kì không mà thôi. Quy chế đó đã dẫn đến tư tưởng xấu ở không ít các bạn sinh viên là: trong năm chỉ cần thi sao cho “vừa khung” (đạt điểm 5 ở mỗi học trình. Tư tưởng đó dẫn đến tình trạng sinh viên không tự giác học, lười học, lười chuẩn bị bài trước khi đến lớp, bài thi học trình thì làm qua loa, miễn là đủ điều kiện. Tính tự giác của sinh viên ngày càng thấp: Theo thầy Đan Tâm, Nguyên hiệu trưởng trường Đại học Công Đoàn nhận xét: “Trong thực tế và theo thống kê xác suất, chỉ có khoảng 20%, tức là 1/5 số sinh viên có bản lĩnh và ý thức tự giác học tập, còn nữa thì không chăm học và lười học. Trong thực tế, sinh viên nước ta hiện nay còn quá nhiều thời gian nhàn rỗi, không đầu tư tối đa cho học tập và nghiên cứu khoa học thì làm sao Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 14 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . trở thành sinh viên giỏi, thành người lao động có tài năng sau khi ra trường”. Sử dụng Internet quá nhiều: theo một cuộc khảo sát về thời gian biểu của 100 bạn sinh viên ở các trường đại học khác nhau tại Hà Nội. Kết quả đã cho thấy, ngoài thời gian học chính trên trường, thì việc tự học của các bạn chỉ chiếm 9% lượng thời gian trong một ngày. Trong khi đó, việc sử dụng Internet lại “ngốn” của các bạn tới hơn 21%, tương đương với việc thời gian trung bình cho việc truy cập mạng là 5 giờ một ngày. Đối với nhiều bạn sinh viên, lên mạng đọc tin tức hay hỗ trợ cho việc học là không nhiều, mà thay vào đó là tán gẫu với bạn bè, nghe nhạc, chơi games,… III. Giảng viên và sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập 1. Giảng viên 1.1. Số lượng giảng viên Trong xu hướng chung của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập đang lâm vào tình trạng thiếu nguồn nhân lực giảng dạy một cách trầm trọng. Rất nhiều trường đại học, cao đẳng có lượng giảng cơ hữu rất ít. Đa số, đội ngũ giảng viên của họ là giảng viên thỉnh giảng từ các trường đại học, cao đẳng lớn trong cả nước hoặc từ các doanh nghiệp. Với số lượng giảng viên cơ hữu ít và giảng viên thỉnh giảng cũng không ổn định, do vậy việc đào tạo tại trường cũng rất khó khăn và thiếu tính liên tục do không có sự thống nhất về mặt chuyên môn của chương trình đào tạo. Những giảng viên cơ hữu kiêm luôn việc tham gia quản lý các công việc của trường, do vậy họ không đủ thời gian để nghiên cứu và trao dồi chuyên môn. Tuy vậy, giảng viên của một số trường ngoài công lập được trả lương cao hơn so với các trường công lập, họ được trả lương tương xứng với công sức đã bỏ ra. Do vậy, một số trường công lập, giảng viên chỉ đến giảng dạy cho đủ số tiết quy định, còn phần lớn họ dành thời gian nhiều để tham gia giảng dạy tại các trường tư. Theo dự thảo quy chế trường đại học tư thục đưa ra quy định: các trường phải có tối thiểu 20% giảng viên cơ hữu. Lập tức, nhiều trường đại học, cao đẳng đã có nhiều ý kiến phản đối với lý do không khả thi. Tại nhiều trường, giảng viên cơ hữu Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 15 Nhóm 03
- Môn: Giáo Dục Đại Họ c Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS S Phạm Lan Hương .T . chỉ chiếm một phần nhỏ trong đội ngũ giảng viên của trường. Trường ĐH DL Cửu Long (Vĩnh Long) có 72 giảng viên cơ hữu, 333 giáo viên thỉnh giảng. Con số này ở trường ĐHD L Đông Đô là 70 và 356. Tuy nhiên, không ít trường, tỷ lệ này đã đạt tới mức 50/50. Trường ĐHDL Lương Thế Vinh (Nam Định) đã có 20 giảng viên cơ hữu, 20 giảng viên thỉnh giảng. Trường ĐH DL Ngoại ngữ - Tin học TP.HCM có 105 giảng viên cơ hữu, 193 giảng viên thỉnh giảng. Tại trường ĐH DL Quản lý Kinh doanh Hà Nội, tỷ lệ giảng viên cơ hữu chiếm tới hơn 52%. Trong số hơn 300 giảng viên, trường ĐH DL Hải Phòng, cũng có tới 140 giảng viên cơ hữu. Từ đầu năm 2012, Bộ GD&ĐT đã tiến hành thanh tra các trường ĐH , CĐ trên cả nước và phát hiện nhiều trường còn khó khăn về cơ sở vật chất và thiếu thốn về đội ngũ giảng dạy. Trong đó, bảy trường có dưới 50 giảng viên cơ hữu và không hợp đồng dài hạn, 42 ngành đào tạo đại học chưa có tiến sĩ đúng ngành, 25 ngành cao đẳng chưa có thạc sĩ đúng ngành. Qua thanh tra, nhiều trường ĐH, CĐ và nhiều ngành học đang bị thiếu giảng viên. Đơn cử như trường đại học Văn Hiến (TP Hồ Chí Minh) có 4.947 sinh viên nhưng chỉ có 57 giảng viên cơ hữu, tỷ lệ sinh viên/giảng viên là gần 87/1; trường cao đẳng Công nghệ thông tin TP Hồ Chí Minh có 6.420 sinh viên nhưng chỉ có 76 giảng viên, tỷ lệ sinh viên/giảng viên là 84,5/1. Tại nhiều cơ sở đào tạo, nhất là các cơ sở mới được thành lập và cơ sở tư thục, số lượng giảng viên thỉnh giảng cao hơn nhiều lần so với đội ngũ cán bộ cơ hữu làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng đào tạo của nhà trường. Một số trường có số lượng giảng viên thỉnh giảng gấp 2 lần số giảng viên cơ hữu; cá biệt có trường chỉ có 53 giảng viên cơ hữu, trong khi số giảng viên thỉnh giảng là 375. Không ít trường hợp danh sách giảng viên thỉnh giảng của một số trường trùng nhau, tập trung vào một số Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ. Việc sử dụng quá đông giảng viên thỉnh giảng một mặt làm cho cơ sở đào tạo khó chủ động thực hiện kế hoạch đề ra và chất lượng đào tạo không cao do giảng viên thỉnh giảng ít có điều kiện tham gia sinh hoạt chuyên môn tại Đề tài: Giản g viên v à Sinh viên 16 Nhóm 03
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát triển năng lực dạy trẻ làm quen biểu tượng toán học cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non
116 p | 260 | 47
-
Tiểu luận chuyên đề Trách nhiệm xã hội: Một số kinh nghiệm áp dụng Bộ tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội về lao động SA 8000 tại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xây lắp An Giang
20 p | 158 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động lấy ý kiến phản hồi của sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên theo hướng đảm bảo chất lượng tại Học viện An ninh nhân dân
142 p | 51 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học theo định hướng giáo dục STEM cho giáo viên trung học cơ sở huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang
138 p | 71 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp ở các trường mầm non huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang
114 p | 47 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Phát triển đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng Kỹ thuật và Công nghệ tỉnh Hà Giang theo chuẩn nghề nghiệp
120 p | 55 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Phát triển đội ngũ giảng viên tại Học viện Cảnh sát nhân dân đáp ứng yêu cầu trường trọng điểm trong ngành Công an
108 p | 68 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý bồi dưỡng năng lực đánh giá kết quả học tập của học sinh cho giáo viên ở các trường tiểu học huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
125 p | 43 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp cho giáo viên dạy môn khoa học tự nhiên ở các trường Trung học cơ sở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
134 p | 41 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên ở Trường Chính trị tỉnh Bắc Kạn
122 p | 55 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên ở các trường trung học phổ thông huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang theo chương trình giáo dục phổ thông mới
128 p | 42 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Thực hiện pháp luật về giảng viên - Từ thực tiễn trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương
108 p | 23 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý hoạt động đánh giá chất lượng giảng dạy của giảng viên tại trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên
132 p | 25 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý bồi dưỡng năng lực tư vấn, hỗ trợ sinh viên cho giảng viên ở trường Cao đẳng Y tế Hưng Yên
127 p | 34 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp cho giáo viên môn Hóa học ở trường trung học cơ sở huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương
123 p | 22 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý hoạt động đào tạo thực hành nghề cho học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang
131 p | 23 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Định hướng ứng dụng: Chất lượng giảng viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
90 p | 34 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn