intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

VÌ SAO KHÔNG THỂ DÙNG TRỰC TIẾP NITƠ LÀM PHÂN BÓN ?

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

93
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Do tác dụng của phản ứng quang học, thực vật đã từ cacbon dioxyt và hơi nước hấp thụ được trong không khí mà các nguyên tốhydro, oxy và cacbon đã tổng hợp được tinh bột, chất sợi, mỡ v.v... Nhưng để làm cơ sở tạo nên sự sống là tạo nên chất protein thì ngoài các nguyên tốcacbon, hydro và oxy còn cần có nitơ (chứa đến 16,5% nitơ). Có thể nói không có chất protein thì không có sự sống, mà không có nitơ thì không có protein. Cho dù là lượng nitơ trong không khí là rất...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: VÌ SAO KHÔNG THỂ DÙNG TRỰC TIẾP NITƠ LÀM PHÂN BÓN ?

  1. VÌ SAO KHÔNG THỂ DÙNG TRỰC TIẾP NITƠ LÀM PHÂN BÓN ? Do tác dụng của phản ứng quang học, thực vật đã từ cacbon dioxyt và hơi nước hấp thụ được trong không khí mà các nguyên tốhydro, oxy và cacbon đã tổng hợp được tinh bột, chất sợi, mỡ v.v... Nhưng để làm cơ sở tạo nên sự sống là tạo nên chất protein thì ngoài các nguyên tốcacbon, hydro và oxy còn cần có nitơ (chứa đến 16,5% nitơ). Có thể nói không có chất protein thì không có sự sống, mà không có nitơ thì không có protein. Cho dù là lượng nitơ trong không khí là rất lớn, nhưng lại tồn tại ở dạng khí nitơ là hình thức tồn tại mà thực vật không thể trực tiếp hấp thụ được. Vì các phân tử nitơ trong không khí là do hai nguyên tử nitơ kết hợp với nhau do một liên kết hóa học rất bền tạo nên. Ởnhiệt độ và áp suất thường, phân tử nitơ rất bền và có tính trơ. Cho nên dù thực vật được bao trùm trong bầu khí nitơ, nhưng với đasốthực vật thì thường hay gặp “tình trạng thiếu đạm”. Trong số các thực vật chỉ có thực vật họ đậu, thông qua các nốt sầnở rễ cây mà có thể trực tiếp biến nitơ từ không khí thành các hợp chất mà cây có thể hấp thụ được. Từ đầu thế kỷ 20, nhiều nhà hóa học đã nghiên cứu để biến nitơ trong không khí thành các hợp chất chứa nitơ. Trải qua vô sốtổn thất và thất bại cuối cùng người ta đã tìm ra biện pháp: dưới điều kiện nhiệt độ cao (» 500°C) và áp suất cao (khoảng 200 atm) với sự xúc tác của hợp chất sắt sẽ sản xuất được amoniac. Từ amoniac người ta có thể sản xuất các
  2. loại phân bón chứa nitơ khác nhau: amon sunfat, amon nitrat, amon cacbonat, amon photphat v.v... Theo tính toán, cứ trên khoảng không của l0000m2 mặt đất có đến khoảng 10 triệu tấn nitơ. Nếu đem toàn bộ lượng nitơ này sản xuất thành phân bón rồi đem bón ruộng thì người ta có thể tăng sản lượng lương thực đến 4 triệu tấn. Nhiều nước trên thế giới đã xây dựng được các nhà máy sản xuất ở quy mô lớn. Thế nhưng việc sản xuất phân đạm theo đường lối tổng hợp cần tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng và gây ô nhiễm môi trường hết sức nặng nề. Trong những năm gần đây các nhà khoa học đang bỏ công sức nghiên cứu kỹ thuật “cốđịnh đạm theo con đường sinh vật”. Kết quả nghiên cứu chứng minh con đường sản xuất amoniac bằng kỹ thuật “cố định đạm sinh vật” có thể được tiến hành ở áp suất thường, nhiệt độ thường, không tốn năng lượng, không gây ô nhiễm mà lại đạt được hiệu suất chuyến hóa rất cao. Có thể tin rằng trong tương lai không xa kỹ thuật “cố định đạm sinh vật” giúp cho loài người sản xuất được nhiều lương thực và các nông sản khác.
  3. VÌ SAO ĐỔNG LẠI CÓ NHIỂU MÀU ? Cho dù đồng không được sử dụng rộng rãi như sắt, thép, nhưng đồng có những ưu điểm mà sắt, thép không thể có được. Đồng tinh khiết có màu tím. Đồng tinh khiết dẫn điện, dẫn nhiệt rất tốt. Trong các kim loại thì trừ bạc ra, đồng có độ dẫn điện lốn nhất. Trong công nghiệp sản xuất đồ điện như dây điện, máy đóng ngắt điện, quạt điện, chuông điện, điện thoại v.v... đều cần một lượng lớn đồng. Đồng màu tím hết sức tinh khiết, đồng tinh khiết thường được chế tạo bằng phương pháp điện phân. Đồng rất mềm. Thông thường từ 1 giọt đồng người ta có thể kéo thành sợi mảnh dài đến 2000m, dát thành các lá đồng rất mỏng, mỏng đến mức có thể nhìn xuyên qua, có thể bị gió thổi bay. Có nhiều loại nhạc khí được chế tạo bằng đồng, nói cho chính xác thì là chế tạo bằng đồng thau. Đồng thau là hợp kim của đồng và kẽm. Đồng được chế tạo rất sớm ngay từ thời nhà Hán ở Trung Quốc, người ta đã luyện được đồng thau. Đồng thau còn có tên gọi là hoàng đồng (đồng màu vàng) là từ màu sắc mà đặt tên cho đồng thau. Tùy thuộc hàm lượng kẽm trong hợp kim mà hợp kim đồng chế tạo được sẽ có màu khác nhau. Ví dụ với hàm lượng kẽm từ 18% - 20%, hợp kim có màu vàng đỏ. Hàm lượng kẽm 20 - 30% hợp kim sẽ có màu vàng, từ 30-42% hợp kim có màu vàng nhạt, từ 42%- 50% sẽ có màu vàng tươi (của vàng kim loại), với hàm lượng kẽm 50% - 60% hợp kim chế tạo
  4. được sẽ cómàu trắng. Trong công nghiệp người ta hay dùng hợp kim có màu vàng với hàm lượng kẽm dưới 45%. Tại các công trình kiến trúc, thường người ta hay đặt các bức tượng đồng đen được chế tạo bằng hợp kim của đồng với thiếc, đôi khi là hợp kim của đồng - thiếc có thêm kẽm. Rất nhiều kim loại khi bị lạnh thì co lại, nhưng với đồng đen thì trái lại khi bị lạnh lại nở ra. Vì vậy khi dùng đồng đúc tượng thì nét mày rõ ràng, chi tiết sắc sảo. Đồng đen cũng có tính chất chịu mài mòn rất tốt. Dùng đồng đen để chế tạo ổ trục sẽ được các ổ trục chịu được mài mòn nổi tiếng trong công nghiệp. Các loại dụng cụ chế tạo bằng đồng bạch sáng lấp lánh, rất đẹp, không bị gỉ xanh. Đồng bạch chính là hợp kim của đồng vối niken. Đồng bạch được chế tạo rất sớm từ thế kỷ thứ nhất ở Trung Quốc. Đến thế kỷ 18 đồng bạch mới được truyền từ Trung Quốc đến châu Âu. Bấy giờ người Đức bắt đầu học tập phương pháp của Trung Quốc và tiến hành chế tạo trên quy mô lớn. Trưốc đây có ngưòi gọi đồng bạch là bạc của Đức chỉ là nhìn từ ngọn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2