Trường THPT Hồng Ngự 1<br />
Nguyễn Thị Ngọc Thanh<br />
Số điện thoại: 0919232117<br />
ĐỀ KIỂM TRA HỌC KỲ I<br />
NĂM HỌC: 2016 - 2017<br />
MÔN: NGỮ VĂN<br />
I. PHẦN ĐỌC HIỂU<br />
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:<br />
LỜI CHA DẶN<br />
Cha viết cho con từ chính cuộc đời cha<br />
Những bài học một đời cay đắng<br />
Cha gửi cho con chút nắng<br />
Hãy giữ giữa lòng con<br />
Để khi con cất bước vào cuộc hành trình đầy gai và cạm bẫy<br />
Con sẽ bớt thấy đau và đỡ phải tủi hờn<br />
Đừng hơn thua làm gì với cuộc đời, con ạ<br />
Hãy để chị, để anh giành lấy phần họ muốn<br />
Con hãy chậm bước dù là người đến muộn<br />
Dù phần con chẳng ai nhớ để dành!<br />
Hãy vui lên trước điều nhân nghĩa<br />
Hãy buồn với chuyện bất nhân<br />
Và hãy tin vào điều có thật:<br />
Con người sống để yêu thương.<br />
(Theo Đất Việt)<br />
1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là gì?<br />
2. Nêu nội dung chính và ý nghĩa của văn bản.<br />
3. Cách nói “chút nắng” trong câu “Cha gửi cho con chút nắng” có nghĩa gì?<br />
4. Hãy chỉ ra biện pháp tư từ và tác dụng của biện pháp đó ở bốn câu thơ sau:<br />
<br />
Hãy vui lên trước điều nhân nghĩa<br />
Hãy buồn với chuyện bất nhân<br />
Và hãy tin vào điều có thật:<br />
Con người sống để yêu thương.<br />
II. PHẦN LÀM VĂN<br />
Câu1 (2đ) Hãy viết một đoạn văn khoảng 200 từ bàn về hiện tượng “Đủ like sẽ làm” của giới<br />
trẻ ngày hôm nay.<br />
Câu 2 (5đ) “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá<br />
bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách<br />
đá thành chẹt lòng SôngĐà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên<br />
kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này qua bờ kia. Ngồi trong khoang đò<br />
qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà<br />
ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.<br />
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô<br />
gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò<br />
Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng<br />
thuyền ra.<br />
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước<br />
giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu<br />
như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ<br />
đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh<br />
để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số nhấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường<br />
mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu,<br />
những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh<br />
ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút<br />
xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông<br />
đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới […].<br />
… Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to<br />
mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu<br />
khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang<br />
lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét<br />
với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã<br />
trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình<br />
như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc<br />
nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá<br />
nào trông cũng ngỗ ngược,hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này.<br />
Mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thủy điện nơi đáy hầm đập”.<br />
<br />
(Trích Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục,<br />
2014, tr. 186-188)<br />
Cảm nhận của anh/chị về con Sông Đà hung bạo ở miền Tây Bắc của Tổ quốc trong<br />
đoạn trích trên. Từ đó, bình luận về cách nhìn, cách miêu tả thiên nhiên của nhà văn Nguyễn<br />
Tuân qua việc “tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên” Tây Bắc.<br />
———————-HẾT———————-<br />
<br />
HƯỚNG DẪN CHẤM – ĐÁP ÁN – THANG ĐIỂM<br />
ĐỀ KIỂM TRA HỌC KỲ I<br />
NĂM HỌC: 2016 - 2017<br />
MÔN: NGỮ VĂN LỚP 12<br />
I. PHẦN ĐỌC HIỂU<br />
1. Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm (0,5)<br />
2.<br />
- Nội dung chính của văn bản: Đoạn thơ là những lời khuyên răn, dạy dỗ của người cha<br />
dành cho con khi con sắp bước vào đời. Ông dặn con mình phải sống nhân nghĩa dù có bị thiệt<br />
thòi về vật chất (0,5).<br />
- Lời dặn dò ấy có ý nghĩa tích cực trong việc định hướng nhân cách và hành vi của con<br />
cái. Đó cũng là mong ước của bậc làm cha mẹ, muốn con giàu nhân nghĩa hơn tiền bạc (0, 5)<br />
3. Cách nói “chút nắng” trong câu “Cha gửi cho con chút nắng” có nghĩa là bản lĩnh, niềm tin<br />
để sống (0,5)<br />
4.<br />
<br />
- Biện pháp điệp từ “hãy” (0,5)<br />
<br />
- Nhấn mạnh điều mong muốn của người cha và cũng là nghĩa vụ con phải thực hành để<br />
làm người (0,5)<br />
II. PHẦN LÀM VĂN<br />
Câu 1:<br />
Yêu cầu chung:<br />
<br />
Học sinh biết cách viết một đoạn văn nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống<br />
Yêu cầu cụ thể:<br />
Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách tuy nhiên trong đoạn văn triển khai cần đáp ứng<br />
những ý chính sau:<br />
- Thực trạng nói là làm của giới trẻ đã và đang phổ biến rộng khắp (0,5)<br />
- Nguyên nhân là do giới trẻ muốn tự khẳng định mình, muốn chứng tỏ và muốn nổi tiếng,…<br />
(0,5)<br />
- Hậu quả nghiêm trọng khi giới trẻ không biết phân biệt đúng sai. Nhiều trường hợp có thể dẫn<br />
đến mất mạng nếu không kịp thời cứu. Ngoài ra nếu không ngăn chặn thì hiện tượng này sẽ<br />
ngày càng phổ biến dẫn một thế hệ suy đồi về nhân cách (0,5)<br />
- Cần phải có những biện pháp mạnh đối với những hành động khẳng định mình bằng những<br />
hành động nông cạn (0,5)<br />
Câu 2:<br />
Yêu cầu chung:<br />
– Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học của học sinh, đòi hỏi học sinh phải huy<br />
động kiến thức về tác phẩm văn học, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng cảm thụ văn chương<br />
của mình để làm bài.<br />
– Học sinh có thể phân tích và cảm nhận theo những cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ, có<br />
căn cứ xác đáng, không được thoát li văn bản tác phẩm.<br />
Yêu cầu cụ thể:<br />
1/ Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút Người lái đò Sông Đà, hình ảnh con<br />
Sông Đà hung bạo ở miền Tây Bắc của Tổ quốc. Từ đó, thấy được cách nhìn, cách miêu tả<br />
thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Tuân qua việc “tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên” Tây Bắc.<br />
0,5đ<br />
2/ Phân tích 3,5đ<br />
Nội dung:<br />
– Cảnh đá hai bên bờ sông:<br />
+ Độ cao của cảnh đá hai bên bờ sông; sự lạnh lẽo, âm u của những khúc sông có đá dựng vách<br />
thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.<br />
<br />
+ Sự nhỏ hẹp của dòng chảy vách đá chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Ở những chỗ này,<br />
lưu tốc của dòng chảy rất lớn, nhất là vào mùa nước lũ,…<br />
– Ghềnh sông:<br />
+ Nhân hóa con sông như một kẻ chuyên đi đòi nợ dữ dằn cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt<br />
năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào…<br />
+ Mặt ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dội nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn<br />
cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà<br />
nào tóm được qua đấy. Quãng sông này tạo nên mối đe dọa thật sự đối với bất cứ người lái đò<br />
nào đi qua chỗ đấy,…<br />
– Hút nước:<br />
+ Những cái hút nước Sông Đà giống như những cái giếng bê tông thả xuống sông chuẩn bị<br />
làm móng cầu.<br />
+ Cường lực ghê gớm của những cái hút nước thể hiện qua các từ và cụm từ: thở, kêu, sặc, ặc<br />
ặc lên, rót dầu sôi vào,…<br />
– Thác nước: Nhà văn đã nhân hóa con sông, biến nó thành một sinh thể dữ dằn, gào thét trong<br />
những âm thanh ghê sợ: lúc nghe như là oán trách, lúc lại như là van xin, khi thì khiêu khích,<br />
giọng gằn mà chế nhạo, có lúc nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn<br />
giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa,…<br />
– Đá: Mỗi hòn đá là một tên lính thủy hung tợn, tên nào trông cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, sẵn<br />
sàng giao chiến,…<br />
Nghệ thuật:<br />
– Liên tưởng độc đáo, so sánh thú vị, nhân hóa con sông có những nét tính cách giống con<br />
người.<br />
– Thủ pháp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc kết hợp với các thanh trắc liên tiếp đã tạo nên âm<br />
hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió…<br />
– Tả và kể một cách hiện thực và giàu hình ảnh, liên tưởng và tưởng tượng bất ngờ, sử dụng<br />
hàng loạt so sánh, nhà văn đã tô đậm mức độ khủng khiếp của những hút nước,…<br />
3/ Đánh giá chung: 0,5đ<br />
Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Tuân, sự hùng vĩ và hung bạo của Đà giang<br />
đã hiện ra ở nhiều dạng vẻ khác nhau. Tất cả đã toát ra một sự hoang dại, một thiên nhiên kì vĩ.<br />
<br />