intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Dự thảo Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954)

Chia sẻ: Phan Phan | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:29

130
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong xây dựng lực lượng vũ trang địa phương thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), từ đó bước đầu tổng kết một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo, cung cấp thêm luận cứ khoa học cho công tác xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Dự thảo Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XàHỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THU QUYÊN ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƯƠNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG  VŨ TRANG ĐỊA PHƯƠNG TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1946­1954) Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số:  62 22 56 01 DỰ THẢO TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Hà Nội, 2014 1
  2. Công trình được hoàn thành tại:  Khoa Lịch sử ­ Trường Đại học KHXH & NV ­ ĐHQG Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Quang Hiển Giới thiệu 1: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  Giới thiệu 2: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp cơ sở chấm luận án  tiến sĩ họp tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ……. vào hồi            giờ           ngày          tháng        năm
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đất nước Việt Nam trải dài từ  Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau  hiên ngang nhìn ra Thái Bình Dương với thế đứng vững vàng hôm nay là   thành quả của mồ hôi, xương máu của bao thế hệ người Việt đã dựng   xây và chiến đấu. Trong phần lớn các cuộc chiến tranh, Việt Nam luôn  phải đối đầu với quân xâm lược có tiềm lực mạnh, thiện chiến. Bài học  thành công trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc là: “Dựa vào dân, xây   dựng lực lượng vũ trang từ nhân dân, thực hiện chiến tranh nhân dân và   nghệ thuật quân sự toàn dân, cả nước đánh giặc”.  Lực lượng vũ trang,  trong đó có lực lượng quân đội thường trực bao giờ cũng giữ vai trò nòng  cốt của sức mạnh giữ nước. Lực lượng vũ trang nhân dân địa phương,   bộ  phận của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, gồm bộ  đội địa  phương và dân quân tự vệ "là công cụ bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng   và chính quyền, góp phần giữ gìn an ninh trật tự xã hội, xây dựng địa   phương vững mạnh, làm nòng cốt  của chiến tranh nhân dân  ở  địa   phương, phối hợp chặt chẽ  với Bộ  đội chủ  lực trong hoạt động tác   chiến”. Mỗi thứ quân đều có vị trí tác dụng, đặc điểm và quy luật hoạt  động riêng.  Hải Dương­ vùng đất trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, là  “phên  dậu” phía đông của kinh thành Thăng Long xưa và thủ đô Hà Nội ngày   nay. Trải qua các thời kỳ lịch sử, Hải Dương luôn có vị  trí chiến lược   trong thế  phòng thủ và phát triển kinh tế­ xã hội chung của đất nước.   Ngay từ khi mới thành lập, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã chú trọng lãnh  đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương từ  nhỏ  đến lớn, từ  yếu   đến ngày càng vững mạnh, đáp  ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến  chống ngoại xâm. Lực lượng vũ trang địa phương cùng nhân dân tỉnh   Hải Dương đã có những đóng góp to lớn trong kháng chiến chống thực   dân Pháp, trong   xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Hiện nay,   những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình khu vực, thế  giới,  3
  4. đặc biệt là vấn đề  tranh chấp chủ quyền biển đảo ở  biển Đông đã và  đang đặt ra những yêu cầu mới, không kém phần thử thách, khó khăn đối  với công cuộc bảo vệ  Tổ quốc. Chính vì vậy, những kinh nghiệm về  xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân phải được ứng dụng và phát  triển để  xây dựng một LLVT ngày càng vững mạnh, phù hợp với yêu   cầu và nhiệm vụ của tình hình mới.  Do đó, một công trình tổng kết một cách toàn diện và hệ  thống   những chủ trương, chính sách của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong quá  trình lãnh đạo xây dựng LLVTĐP giai đoạn kháng chiến chống thực  dân Pháp (1945­1954), đánh giá những thành công, hạn chế, nghiêm túc   tìm ra nguyên nhân để rút ra bài học kinh nghiệm cho hiện tại và tương   lai là một việc làm hết sức cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.   Đối với tỉnh Hải Dương, việc nghiên cứu một cách toàn diện và hệ  thống quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo xây dựng LLVTĐP  qua các thời kì lịch sử chưa có nhiều tác giả đề cập đến.Vì những lí do  đó, tác giả xin chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo xây   dựng lực lượng vũ trang địa phương trong kháng chiến chống thực   dân Pháp (1945 – 1954)”  làm Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành  Lịch sử ĐCSVN với mong muốn được cung cấp thêm một số tư liệu,   góp phần làm đầy lên những nhận thức khoa học liên quan đến công  tác xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong chiến tranh giải   phóng và bảo vệ  Tổ  quốc, làm phong phú thêm kho tàng lịch sử  địa   phương; đồng thời, phục vụ công tác giảng dạy môn Lịch sử nói chung   và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Luận án làm sáng tỏ  sự lãnh đạo của Đảng bộ  tỉnh Hải Dương  trong xây dựng LLVTĐP thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp   (1945­1954), từ đó bước đầu tổng kết một số kinh nghiệm có giá trị 
  5. tham khảo, cung cấp thêm luận cứ  khoa học cho công tác xây dựng   lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích và làm rõ những nhân tố   ảnh hưởng, chi phối quá trình   Đảng bộ  tỉnh Hải Dương lãnh đạo xây dựng LLVTĐP trong kháng  chiến chống thực dân Pháp (1945 ­ 1954). Phân tích chủ  trương và quá trình Đảng bộ  tỉnh Hải Dương chỉ  đạo thực hiện xây dựng LLVTĐP trong kháng chiến chống thực dân  Pháp (1945 ­ 1954). Nhận xét những  ưu điểm, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm   lịch sử  từ  quá trình Đảng bộ  tỉnh Hải Dương lãnh đạo xây dựng  LLVTĐP (1945 ­ 1954). 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu ­ Toàn bộ hoạt động lãnh đạo xây dựng LLVT của Đảng bộ tỉnh  Hải Dương về chính trị tư tưởng, tổ chức biên chế, rèn luyện, huấn  luyện, phối hợp chiến đấu... Phạm vi nghiên cứu Về nội dung khoa học: Luận án tập trung nghiên cứu về:   Những yếu tố  có tác động đến việc lãnh đạo LLVTĐP tỉnh Hải  Dương.  Những chủ  trương của Đảng về  xây dựng LLVTĐP.  Quá trình  thực hiện chủ  trương của Đảng trên địa bàn tỉnh: các chính sách, biện  pháp quan trọng của Đảng bộ  tỉnh Hải Dương đề  ra nhằm xây dựng  LLVTĐP phát triển về mọi mặt.  Về  không gian:   Luậ n án nghiên c ứu trong ph ạm vi toàn bộ  địa bàn t ỉnh Hải D ươ ng bao g ồm các huyệ n thị  trong toàn tỉnh và   m ột s ố  t ỉnh lân cậ n như  Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình để  có  cái  nhìn so sánh t ừ   đó rút  ra nh ững nét riêng của   Đả ng bộ  t ỉnh  Hải Dươ ng trong lãnh đạ o xây dựng LLVTĐP.  5
  6. Về  thời gian:  Luận án nghiên cứu quá trình Đảng bộ  tỉnh Hải  Dương lãnh đạo xây dựng LLVTĐP trong khoảng thời gian từ khi bắt   đầu có chính quyền cách mạng (9/1945) đến khi cuộc kháng chiến   chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (7/1954). Tuy nhiên, trong quá  trình nghiên cứu thực hiện luận án, tác giả  có sử  dụng một số  tài   liệu, tư liệu liên quan trước năm 1945 và sau năm 1954. 4. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận án nghiên cứu dựa trên cơ  sở  lý luận của chủ  nghĩa Mác­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm lớn của Đảng cũng như  các chủ trương, chính sách về  xây dựng LLVT nói chung và LLVTĐP   nói riêng. Nguồn tài liệu Tài   liệu   thành   văn:   Các   văn   kiện   của   Đảng,   các   nghị   quyết,  quyết định, chỉ  thị, báo cáo của Đảng bộ  tỉnh Hải Dương...là những  tài liệu gốc của luận án. Các sách chuyên khảo, luận án, đề tài nghiên  cứu khoa học, kỷ  yếu hội thảo khoa học, tham luận, các công trình  khoa học đã xuất bản…về LLVT, LLVTĐP.  Tài   liệu  không  thành  văn  qua  buổi   phỏng  vấn  trực   tiếp  nhân  chứng lịch sử. Đây  là nguồn tư  liệu đối chứng,  làm phong phú, sâu  sắc thêm các nội dung của luận án trong bối cảnh công tác lưu trữ tư  liệu địa phương thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp còn nhiều  hạn chế. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên cơ sở lý luận chung của chủ nghĩa Mác­Lênin, tác giả sử  dụng các phương pháp phổ quát của khoa học lịch sử như  phương pháp   lịch sử, phương pháp logic  và kết hợp chặt chẽ  hai phương pháp đó,   đồng thời còn sử  dụng một số  phương pháp khác như:  phương pháp  
  7. phân tích, tổng hợp, đối chiếu, thống kê, phỏng vấn nhân chứng lịch   sử… 5. Đóng góp khoa học của luận án Trên cơ sở xác định rõ mục tiêu nghiên cứu, đặt ra và giải quyết   các nhiệm vụ nghiên cứu, luận án có những đóng góp mới sau: Về  tư  liệu:Góp phần sưu tầm, hệ  thống hóa sử  liệu thuộc lĩnh  vực xây dựng LLVT của Đảng trong kháng chiến chống Pháp 1945­ 1954, trong đó, có những sử liệu mới được khai thác tại các trung tâm   lưu trữ, bổ sung thêm tư liệu lịch sử Đảng thời kỳ này.  Về nội dung:  Thứ  nhất, luận án phân tích, làm rõ các nhân tố   ảnh hưởng, chi   phối   sự   lãnh   đạo   của   Đảng   bộ   tỉnh   Hải   Dương   về   xây   dựng   LLVTĐP  trong   cuộc   kháng   chiến   chống   thực   dân   Pháp   xâm   lược   (9/1945­10/1954) Thứ  hai,  khái quát và hệ  thống hóa các quan điểm, chủ  trương  của Đảng về  xây dựng, phát triển LLVTĐP trong cuộc kháng chiến   chống thực dân Pháp xâm lược (9/1945­10/1954) Thứ  ba, phục dựng lại quá trình Đảng bộ  tỉnh Hải Dương thực   hiện   những   chủ   trương   của   Đảng,   lãnh   đạo,   chỉ   đạo   xây   dựng   LLVTĐP phát triển về  mọi mặt: chính trị  ­ tư  tưởng, tổ  chức, biên  chế, huấn luyện tác chiến, phối hợp chiến đấu…trong cuộc kháng  chiến  chống   thực   dân  Pháp  xâm   lược   (9/1945­10/1954)   với   cả   ưu   điểm, hạn chế, từ đó rút ra những kinh nghiệm lịch sử. Thứ  tư,  luận án có thể  làm tài liệu phục vụ  công tác giáo dục  truyền thống của LLVTND tỉnh Hải Dương, làm tài liệu tham khảo   cho công tác nghiên cứu giảng dạy trong các nhà trường Quân đội,  công tác giáo dục quốc phòng cho các đối tượng trên địa bàn tỉnh Hải  Dương. 6. Cấu trúc của luận án 7
  8. Ngoài phần mở đầu, danh mục công trình khoa học của tác giả  liên quan đến luận án, tài liệu tham khảo và phụ  lục, luận án được  cấu trúc thành 4 chương 8 tiết:  Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 1:  Chủ  trương và sự  chỉ  đạo xây dựng lực lượng vũ   trang địa phương của Đảng bộ tỉnh Hải Dương giai đoạn đầu kháng   chiến (9/1945­12/1949) Chương 2:  Sự  lãnh đạo của Đảng bộ  tỉnh Hải Dương đối với   xây dựng lực lượng vũ trang địa phương giai đoạn đẩy mạnh kháng  chiến đến thắng lợi (1/1950­10/1954) Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm lịch sử CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Các nhóm công trình nghiên cứu 1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về lực lượng vũ trang Tác phẩm Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tập   II  (1945­1954),  do  Bộ  Quốc Phòng ­  Viện  Lịch sử   Quân  sự  Việt   Nam chủ trì nghiên cứu biên soạn, Nxb QĐND ấn hành năm 1994 đã  trình   bày   quá   trình   diễn   biến,   các   quy   luật,   những   kinh   nghiệm  phong phú và quý báu của cuộc kháng chiến, sự  lãnh đạo đúng của   Đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ  tịch Hồ  Chí Minh.  Bên  cạnh đó, một số  công trình chuyên sâu về  xây dựng LLVT trên từng   mặt công tác như: Song Hào,  Xây dựng  Đảng trong  lực lượng vũ   trang nhân dân, Nxb QĐND, Hà Nội, 1968 đã khẳng định: Đảng cộng  sản Việt Nam là người sáng lập, tổ  chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn  luyện  lực   lượng   vũ   trang.   Sự   lãnh   đạo   của   Đảng   quyết   định   sự  trưởng thành và thắng lợi của lực lượng vũ trang.  Tướng Navarre, Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương  (1953­1954) xuất bản 2 tác phẩm: Đông Dương hấp hối và Thời điểm   của những sự  thật.  (Nxb Plong, Pari, 1956). Tác giả  đã cung cấp cho 
  9. người đọc nhiều tư liệu, cách đánh giá tình hình, những khó khăn và sự  bất đồng trong chính giới Pháp về vấn đề Đông Dương. Một số học giả  nước ngoài không phải là người Pháp cũng có các công trình viết về  cuộc chiến tranh Đông Dương (1945­1954). Có thể  kể  tới cuốn  Cuộc   chiến dài ngày của nước Mỹ và Việt Nam(1950­1975)  của C.G.Herring,  cuốn Tại sao Việt Nam ? của L.A.Patti, Điện Biên Phủ ­ cuộc đối đầu   mà nước Mỹ muốn quên đi của R.Simpson, Điện Biên Phủ một góc địa   ngục của B.Fall, cuốn Nước Mĩ và Đông Dương từ Roosevelt đến Nixon   của P.A.Poole… Vũ Quang Hiển (2000), Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở   Đồng bằng Bắc Bộ trong kháng chiến chống Pháp, Luận án tiến sĩ Lịch  sử Đảng Cộng sản Việt Nam, lưu tại thư viện Quốc gia, Hà Nội. Đây là   một công trình nghiên cứu có tính chất chuyên khảo về căn cứ du kích ở  đồng bằng Bắc Bộ dưới góc độ  lịch sử. Nguyễn Hoàng Nhiên (2006),  Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng Quân đội Nhân dân Việt   Nam về  chính trị  trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm   lược(1945­1954),  luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam đã  nghiên cứu sâu sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng QĐND vững mạnh  về chính trị trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đánh giá kết quả và  những kinh nghiệm. Khi hòa bình lập lại, rất nhiều nhà khoa học lịch sử  đã công bố  những bài nghiên cứu sâu về LLVT trên các tạp chí uy tín như: Nguyễn  Hữu An (1994), “Xây dựng LLVTND theo tư  tưởng quân sự  Hồ  Chí   Minh”, Tạp chí lịch sử Đảng (6, tr.3­7); Vũ Quang Hiển (2000), “Phong  trào chiến tranh du kích  ở Đồng bằng Bắc Bộ phối hợp với chiến dịch   Hòa Bình trong Đông – Xuân 1951 – 1952”, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử (6,   tr. 18 – 22); Vũ Quang Hiển (2000), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng   lực lượng DQDK và chiến tranh du kích”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử (3,  tr. 3­10). 1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu có liên quan đến 9
  10. LLVTĐP Nguyễn Quyết, Mấy kinh nghiệm công tác quân sự địa phương ở   Quân khu ba, Nxb QĐND, Hà Nội, 1978. Tác giả  đã tổng kết một số  kinh nghiệm chính về công tác quân sự địa phương ở quân khu qua các   thời kì lịch sử. Từ năm 1991 đến năm 2008, Bộ tư lệnh Quân khu ba đã  cho ra 4 tập sách về  Những trận đánh điển hình của lực lượng vũ   trang Quân khu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ   (Nxb QĐND ấn hành vào các năm 1991, 1994, 1997, 2008). Tác phẩm là  nguồn tài liệu sinh động, thiết thực để  học tập và kế  thừa trong xây   dựng và phát triển nền lý luận, nghệ thuật quân sự Việt Nam cũng như  trong công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ  tổ  quốc xã hội chủ  nghĩa ở Việt Nam. Đảng ủy Bộ Tư lệnh Quân khu 3,  Lịch sử Đảng bộ Quân khu 3,   Tập 1,Thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp (1945­5.1955),  Nxb  QĐND, Hà Nội, 2008 là một công trình lịch sử có giá trị đã phân tích  và làm rõ vai trò, sự  lãnh đạo của Liên khu  ủy và những đóng góp   xứng đáng của Đảng bộ, quân và dân các dân tộc trong địa bàn Liên  khu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.  1.1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong xây dựng lực lượng vũ trang địa phương Lịch  sử   cuộc kháng  chiến chống  Pháp  trên địa bàn  Hải   Hưng   (1945­1954), Bộ CHQS Hải Hưng xuất bản năm 1988 là một công trình  khoa học lịch sử quân sự của cả hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên (khi   chưa tách). Tác phẩm đã dựng lại một cách tương đối và có hệ  thống  lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên một vùng đồng bằng  đông dân, nhiều của, có vị trí chiến lược về nhiều mặt, nằm sâu trong   vùng địch chiếm đóng. Hải Dương, Lịch sử kháng chiến chống thực dân   Pháp và đế quốc Mỹ (1945­1975), Đảng ủy, Bộ CHQS tỉnh Hải Dương 
  11. biên soạn, Nxb QĐND ấn hành năm 2001 là một công trình khoa học lịch   sử của địa phương, đã dựng lại cuộc đấu tranh oanh liệt của Đảng bộ,   nhân dân, LLVT tỉnh Hải Dương qua hai cuộc kháng chiến chống thực   dân Pháp và đế quốc Mỹ.  1.2. Đánh giá kết quả nghiên cứu và những vấn đề luận án cần tiếp tục làm sáng tỏ 1.2.1. Những kết quả đạt được Thứ  nhất,  những tác phẩm trên đã cung cấp một cái nhìn khái  quát về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc   Việt Nam nói chung và của nhân dân Hải Dương nói riêng.  Thứ  hai,  ở  những mức độ  khác nhau, các tác phẩm đã cung cấp  những vấn đề  lý luận và thực tiễn bức tranh chung về  sự  lãnh đạo   của Đảng và Chủ  tịch Hồ  Chí Minh, sự  trưởng thành của LLVTND   Việt Nam trong chiến đấu và chiến thắng.  Thứ ba, các công trình lịch sử thuộc nhóm 2 và nhóm 3 ít nhiều đã  đề  cập đến chủ  trương của Đảng bộ  tỉnh Hải Dương trong việc xây  dựng LLVTĐP.  Thứ tư, các tác phẩm đã phần nào đánh giá được tầm quan trọng  của   sự   lãnh   đạo   xây   dựng   LLVTND   nói   chung   và   LLVTĐP   của  Đảng, trên cơ sở đó khẳng định vai trò quan trọng của LLVTĐP. Thứ năm, các tác phẩm đã đề cập đến nhiều khía cạnh có giá trị to   lớn về lý luận và thực tiễn, đồng thời khái quát và nêu lên những kinh   nghiệm lớn của Đảng và Hồ Chủ tịch về đấu tranh vũ trang và xây dựng   LLVT cách mạng trong thời kì tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, trong hai   cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp và đế  quốc Mĩ xâm  lược.  1.2.2. Những nội dung chưa làm sáng tỏ Những nhân tố   ảnh hưởng, chi phối đến quá trình Đảng bộ  tỉnh   Hải Dương lãnh đạo xây dựng LLVTĐP trong cuộc kháng chiến chống   thực dân Pháp xâm lược (1945­ 1954). 11
  12. Chủ   trươ ng   và   quá   trình  Đảng   bộ   tỉnh  Hải   Dương   chỉ   đạo   thực hiện xây dựng LLVTĐP về  mọi mặt trong cu ộc kháng chiến   chống thực dân Pháp xâm lượ c (1945­ 1954).   Đanh gia nh ́ ́ ững  ưu  điểm, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm lịch sử từ quá trình Đảng  bộ  tỉnh Hải Dương lãnh đạo xây dựng LLVT địa trong cuộc kháng  chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945­ 1954). CHƯƠNG 2: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LỰC  LƯỢNG VŨ TRANG ĐỊA PHƯƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI  DƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU KHÁNG CHIẾN (9/1945­ 12/1949) 2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong xây dựng lực lượng vũ trang địa phương 2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế ­ xã hội Điều kiện tự  nhiên:  Hải Dương là tỉnh có điều kiện tự  nhiên  thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và củng cố quốc  phòng, an ninh. Với vị  trí là  “trấn thứ  nhất trong 4 kinh trấn, đứng   đầu  phên dậu  phía Đông“  của  kinh  thành  Thăng Long,   là  địa  bàn  chiến lược án ngữ  các đường thủy bộ  chủ  yếu để  tiến vào Thăng  Long   cũng   như   rút   chạy   của   những   đội   quân   xâm   lược   nên   Hải  Dương luôn giữ vai trò trọng yếu trong các cuộc chiến tranh bảo vệ  nền độc lập tự chủ của dân tộc. Điều kiện kinh tế ­ xã hội:Với thế  mạnh cơ  bản và truyền thống kinh tế  là cây lúa nước trồng hai vụ,   hàng năm không những tự túc đủ lương thực mà còn xuất khẩu hàng   vạn tấn, Hải Dương có đủ  điều kiện xây dựng nền kinh tế  tự cung   tự cấp trong kháng chiến, vừa đảm bảo đời sống tối thiểu của nhân  dân, vừa đảm bảo hậu cần cho các LLVT đánh lâu dài, càng đánh   càng   mạnh   trong   vòng   vây   bốn   phía   của   thực   dân   Pháp.  Truyền   thống dựng nước và giữ  nước: Cũng như nhân dân cả  nước, trong 
  13. quá trình dựng nước và giữ  nước, đồng bào Hải Dương có một sức  mạnh vô địch được hun đúc từ  mấy ngàn năm trước. Sức mạnh của   truyền thống đó đã lập nên biết bao chiến công hiển hách trong quá   trình   chống   thiên   tai   (lũ   lụt,   hạn   hán),   chống   nạn   ngoại   xâm   từ  phương Bắc và phương Tây. 2.1.2.   Khái   quát   về   xây   dựng   lực   lượng   vũ   trang   tỉnh   Hải   Dương trước năm 1945 Đảng bộ tỉnh Hải Dương được thành lập vào ngày 10/6/1940 tại nhà  cụ Lê Thị Thạnh ở Tạ Xá (xã Hợp Tiến, huyện Nam Sách). Từ khi mới ra  đời, Đảng bộ tỉnh đã coi việc xây dựng LLVTĐP là nhiệm vụ trọng tâm.  Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, tháng 7/1940, đội tự vệ Tạ Xá (Nam  Sách) gồm 53 người (cả nam và nữ) được thành lập. Ngoài đội tự vệ ở  Tạ Xá (Nam Sách), hầu hết những nơi có cơ sở cách mạng đều lựa chọn  người khoẻ mạnh, hăng hái đưa vào tự vệ. Do vậy, lực lượng tự vệ trong  tỉnh phát triển rất nhanh. Chỉ trong một thời gian ngắn, số lượng hội viên   tự vệ đã lên trên 100 người. Cuối tháng 4/1945, Hội nghị cán bộ Việt Minh   toàn tỉnh được triệu tập tại Hội Xuyên (Gia Lộc), quyết định thành lập   Ban cán sự Việt Minh tỉnh. Tại Bắc Mã, hai tiểu đội tự vệ tập trung được  thành lập. Đây là đơn vị tự vệ thoát ly đầu tiên của tỉnh. Ngày 9/6/1945,   đội vũ trang tuyên truyền của chiến khu được đổi tên là du kích cách  mạng quân (sau đổi là du kích Đông Triều). Đầu tháng 8/1945, khí thế  cách mạng ở Hải Dương đã lên cao và sục sôi hơn bao giờ hết. Dưới sự  lãnh đạo của Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc và  quần chúng nhân dân đã vùng dậy khởi nghĩa, đưa HD trở thành một trong  bốn tỉnh lị giành chính quyền sớm nhất cả nước.  2.1.3. Chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang địa phương của   Đảng LLVT ở các địa phương sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ đã  được tăng cường đáng kể  về số lượng. Thực hiện đường lối toàn dân  đánh giặc, tháng 2/1947, Bộ Quốc phòng ra thông tư quy định mọi công  13
  14. dân Việt Nam từ 18 đến 45 tuổi vào dân quân, đồng thời quy định nhiệm   vụ của DQTV cùng các đội du kích ở địa phương. Trong thời gian này,  cùng với sự thành lập Phòng DQ  ở  Bộ  Quốc phòng, Ban DQ khu, các  tỉnh đội, huyện đội, đại đội và tiểu đội được thành lập. Từ ngày 3 đến  6/4/1947, BTVTW Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ TW lần thứ hai. Thực  hiện chủ trương của Đảng, đến giữa năm 1947, lực lượng DQ tự vệ đã   phát triển tới gần 3 triệu người. Để thúc đẩy phong trào đấu tranh của   lực lượng DQDK, tháng 4/1948, theo chỉ  thị  của BTVTW Đảng, Hội   nghị DQ toàn quốc lần thứ hai được triệu tập. Đảng cũng chỉ rõ: trước  mắt cũng như sau này, bất kể trong tình huống nào cũng phải xây dựng   LLVTĐP, đặc biệt là DQTV thật vững mạnh, xứng đáng là lực lượng   nòng cốt của phong trào toàn dân đánh giặc, toàn dân làm quốc phòng ở  địa phương.  2.2. Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương 2.2.1. Xây dựng LLVTĐP trong giai đoạn củng cố bảo vệ chính quyền, chuẩn bị thực lực kháng chiến (9/1945- 12/1946) Củng cố kiện toàn cơ quan chỉ huy quân sự các cấp: Để tăng cường và thống nhất lãnh đạo, chỉ huy LLVT và xây dựng tiềm lực quốc phòng trên các địa bàn, ngày 2/3/1946, phiên họp thứ nhất Quốc hội khoá đầu tiên quyết định thành lập "Toàn quốc kháng chiến uỷ viên Hội" gọi tắt là "Quân sự uỷ viên Hội" do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch (Cuối năm 1946 đổi là Uỷ ban kháng chiến toàn quốc). Đây là cơ quan chỉ đạo, chỉ huy LLVT toàn quốc. Thực hiện quyết định của Quốc hội, cơ quan chỉ đạo, chỉ huy LLVT và xây dựng tiềm lực quân sự, quốc phòng ở tỉnh Hải Dương được nhanh chóng xây dựng, củng cố, kiện toàn.
  15. Xây dựng LLVT và bán vũ trang: Cuối tháng 8/1945, sau khi tham gia giành chính quyền ở các huyện phía Bắc và Đông Bắc tỉnh, đội du kích Đệ tứ chiến khu Đông Triều được đổi tên là Quân giải phóng theo quyết định của cấp trên. Đây là bước phát triển mới của LLVT cách mạng tỉnh Hải Dương. Thực hiện sắc lệnh ngày 2/9/1945 của chính phủ, tổ chức và lực lượng công an được thành lập, chính quyền cách mạng có thêm một công cụ chuyên chính để trấn áp thù trong, cùng bộ đội, tự vệ và toàn dân sẵn sàng chống giặc ngoài. Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Chiến khu 3 đã cải tổ, đổi tên các chi đội Vệ quốc đoàn thành ba trung đoàn Vệ quốc đoàn, Trung đoàn 44 Vệ quốc đoàn đóng tại Hải Dương, Hưng Yên. Từ cuối tháng 5 đến tháng 10/1946, thực hiện các chỉ thị của Đảng và của Khu uỷ 3, tỉnh Hải Dương triển khai nhiều biện pháp xây dựng LLVT về chính trị - tư tưởng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong các LLVTĐP: Thực hiện chủ trương của xứ ủy Bắc Kỳ, đầu tháng 10/1945, Tỉnh ủy Hải Dương đã họp hội nghị mở rộng tại thị xã Hải Dương gồm các đảng viên giữ cương vị lãnh đạo chốt ở các huyện, trưởng các ban ngành đoàn thể. Công tác xây dựng Đảng được các cấp từ tỉnh tới xã đặc biệt coi trọng nhất là việc phát triển Đảng ở các xã còn nhiều khó khăn, phát triển đảng viên trong LLVT, vùng đồng bào công giáo. 2.2.2. Xây dựng lực lượng vũ trang địa phương những năm đầu kháng chiến (12/1946-12/1949) Thành lập cơ quan chỉ huy Quân sự tỉnh – Liên chi bộ Tỉnh đội: Tháng 3/1947, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quyết định đổi tên Bộ Tổng Chỉ huy quân đội quốc gia thành Bộ Tổng Chỉ huy quân đội quốc gia và DQTV, thành lập các ban chỉ huy tỉnh 15
  16. đội, huyện đội, xã đội DQ thuộc uỷ ban kháng chiến các cấp. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ Hải Dương, ngày 27/3/1947, tại thôn Phù Tải, xã Thanh Giang, huyện Thanh Miện đã diễn ra Hội nghị thành lập Tỉnh đội và Liên chi bộ Tỉnh đội Hải Dương. Đồng thời với việc thành lập Tỉnh đội Hải Dương, Tỉnh uỷ Hải Dương quyết định thành lập Liên chi bộ Tỉnh đội gồm 7 Chi bộ: 5 Chi bộ Đại đội là C1, C2, C3, C4, C5; 1 Chi bộ nữ Mê Linh và 1 Chi bộ Tỉnh đội bộ. Chủ trương xây dựng LLVTĐP của Đảng bộ tỉnh: Chủ trương  xây dựng LLVTĐP được thể hiện rõ trong Nghị quyết Đại hội đại biểu  lần thứ II (Tháng 4/1947) của Đảng bộ tỉnh Hải Dương: “Vừa đánh vừa   bảo toàn lực lượng và phát triển lực lượng. Phải xây dựng Tiểu đoàn   bộ  đội tỉnh, mỗi huyện thành lập một đại đội, xã phải phát triển dân   quân du kích và lập đơn vị du kích tập trung...Phải đẩy mạnh lối đánh du   kích tiêu diệt, tiêu hao lực lượng địch...không cho chúng lấn chiếm ra   vùng tự do của ta, tiến lên đánh vận động; đẩy mạnh công tác phá hoại   đường giao thông, công sở ở thị xã, thị trấn ven đường giao thông...” [5,  tr. 40].Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II, Liên chi   bộ Tỉnh đội lãnh đạo, chỉ đạo các chi bộ quân sự và các đơn vị LLVTND   tỉnh phối hợp với cấp uỷ, chính quyền cơ  sở  vừa củng cố, xây dựng   LLVT. Giữa tháng 2/1948, trước tình hình âm mưu mới của địch, Đảng  bộ  Hải Dương triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ  III tại đình thôn  Xuyên Hử, xã Đông Xuyên, huyện Ninh Giang. Đại hội chỉ  rõ: “đẩy   mạnh xây dựng LLVTĐP mạnh cả về số lượng và chất lượng”. Chỉ đạo xây dựng lực lượng Dân quân du kích Về  tổ  chức – biên chế:  Từ  tháng 1/1947, theo chỉ  thị  của Bộ  Quốc phòng, DQ phải được tổ  chức thành một hệ  thống. Đến hội  nghị DQ toàn quốc (tháng 4/1948), tổ chức DQ đã thực sự được kiện   toàn và thống nhất trong từng khu, từng tỉnh.  Cán bộ DQ có tinh thần  trách nhiệm cao, không ngại hy sinh, chịu đựng gian khổ, thiếu thốn,  
  17. cố gắng hết sức gây cơ sở nội thành, biến hậu phương địch thành nơi  hoạt động của ta, đặc biệt là cán bộ ở ven đường số 5.  Về biên chế,  DQ trong tỉnh được chia ra làm 3 hàng: DQ du kích thoát ly sinh sản gọi  là du kích tập trung, DQ du kích không thoát ly sinh sản “ tức du kích địa  phương” và DQTV.Nhiệm vụ của DQDK:Từ 18 đến 45 tuổi, DQ bắt  buộc phải canh gác ngày đêm, đề  phòng tàu bay hay phòng địch tiến   đến,   giúp  vào   đội   trật   tự.   Ngoài   các  DQ   này,   có   một   đội   trật   tự  chuyên trách việc canh gác hoa màu dưới quyền điều khiển của một  đội trưởng. Trang bị và cấp dưỡng:Du kích tập trung tỉnh, huyện do  chính phủ cấp sinh hoạt phí. Vũ khí một phần được trang bị sẵn, một   phần do chính quyền và các đoàn thể địa phương cung cấp, một phần  lấy được của địch (ở các huyện tiền tuyến). DQDK và tự vệ xã trang  bị  cấp dưỡng đều tự  túc. Đặc biệt, Hải Dương có xưởng quân khí.   Đến năm 1949 xưởng đã sản xuất được 36800 quả  lựu đạn, 19600   quả  mìn. Vấn đề  tự  cấp tự  túc cho DQDK  ở  Hải Dương còn nhiều  hạn chế.  Công tác chính trị  ­ tư  tưởng:  Ban chính trị  của tỉnh Hải  Dương gồm 4 tiểu ban: tiểu ban tuyên truyền (nghiên cứu, biên tập,  tòa soạn,  ấn loạt, ca kịch kiêm triển lãm lưu động),   tiểu ban huấn   luyện, tiểu ban địch vận, tiểu ban văn thư.  Đặc biệt trong thời kì  luyện quân lập công, ban chính trị  kèm thêm ban thi đua và ban tăng  gia sản xuất. Công tác rèn luyện, huấn luyện tác chiến: Trong các  kỳ   luyện  quân  lập  công,   công  tác  huấn  luyện  được   đặc   biệt   chú   trọng, đặt thành một vấn đề  chính trong việc gây dựng và trưởng  thành của phong trào DQ. Số lớp huấn luyện của tỉnh ngày một tăng.   Mức độ trung bình mỗi tháng mở 50 lớp. Trong hình thức tác chiến,  DQDK Hải Dương có hai cách đánh phổ  biến là địa lôi và địa thổ.   Cùng với bước tiến của cuộc kháng chiến, hai cách đánh này đã có sự  biến đổi rõ rệt và trở  thành một cách đánh mẫu để  DQDK tỉnh bạn   sang học tập.  Xây dựng làng xã chiến đấu:Xuất phát từ  đường lối  chiến tranh nhân dân của Đảng, từ truyền thống đánh giặc của tổ tiên   17
  18. ta trong các cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ  Tổ  quốc, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã xác định làng xã chiến đấu có vị trí  chiến lược hết sức trọng yếu. Cuối năm 1949, Hải Dương đã xây dựng  được 146 làng chiến đấu, trong đó có nhiều làng chiến đấu kiểu mẫu. Chỉ đạo xây dựng bộ đội địa phương Về tổ chức­biên chế: Tỉnh đội Hải Dương đã tổ chức thống nhất  các đơn vị “chủ lực tỉnh”, “chủ lực huyện”, “du kích tập trung” thành các   đơn vị BĐĐP tỉnh và huyện, bao gồm các đại đội: Bạch Đằng, 126, 29,  Quốc Tuấn và một trung đội. Mỗi huyện có từ một trung đội đến một  đại đội du kích thoát ly huyện. Tháng 12/1949: Hải Dương có1306 bộ  đội, đứng thứ 5 trong 11 tỉnh của Liên khu III về thành tích phát triển số  lượng BĐĐP. Về  trang bị vũ khí: vũ khí cho BĐĐP chưa đáp  ứng đủ  nhu cầu nên công binh xưởng được lập nên ở phía Nam có khả năng sản   xuất tới 7 vạn mìn, lựu đạn, địa lôi, thủy lôi…Về cấp dưỡng: mức sinh  hoạt của BĐĐP hết sức thiếu thốn với mức phụ cấp 180đ/tháng, ăn luân  phiên bữa cháo, bữa cơm. Đến tháng 9/1949 BĐĐP tỉnh được ăn gạo   khao quân theo chỉ thị của Hồ Chủ Tịch. Quần áo mỗi bộ đội được lĩnh  1 năm 2 bộ, đa số không có chăn và áo trấn thủ. BĐĐP đau ốm nặng đều  do quân y viện điều dưỡng. Việc tự cấp tự túc: tỉnh đã tự túc được hơn  4000 bộ đội, do dân đóng góp và bộ đội tự lo liệu. Công tác chính trị­tư   tưởng:  đến năm 1949 tỉ  lệ  Đảng viên trong BĐĐP chiếm 15% trong   tổng quân số, thường xuyên mở lớp bổ túc văn hóa cho cán bộ chiến sĩ.   Công tác rèn luyện, huấn luyện tác chiến và phối hợp chiến đấu:   tỉnh đội chỉ đạo thực hiện tốt cuộc vận động “rèn cán chỉnh quân” của   TW Quân ủy. Trường quân chính tỉnh thường xuyên mở lớp huấn luyện  cho BĐĐP.  Công tác thương binh­bệnh binh:  được coi trọng. Tỉnh  thường xuyên tổ chức “Tuần lễ thương binh”, xây dựng 2 trại chăm sóc   thương binh, thành lập “Hội giúp binh sĩ bị nạn”. Tiểu kết chương 2
  19. Những vấn đề  nghiên cứu  ở  chươ ng 2 đã nêu rõ quan điểm   của Đảng về  công tác xây dựng LLVT ba th ứ  quân, khái quát quá   trình Đảng bộ  tỉnh Hải D ương lãnh đạo xây dựng LLVTĐP trong  thời   kỳ   đấu  tranh   giành   chính   quyền.   Trọng   tâm   của   chươ ng   là   nghiên cứu, làm rõ chủ  trươ ng của Đảng và sự  chỉ  đạ o thực hiện   của   Đảng   bộ   tỉnh   Hải   Dươ ng   trong   xây   dựng   LLVTĐP   từ   sau   Cách mạng tháng Tám/1945 đến tháng 12/1949. Đó cũng là cơ  sở,   tiền đề cho nội dung nghiên cứu của chươ ng 3. CHƯƠNG 3: ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƯƠNG LÃNH ĐẠO  XÂY DỰNGLỰC LƯỢNG VŨ TRANG ĐỊA PHƯƠNG TRONG  GIAI ĐOẠN TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC, ĐƯA KHÁNG CHIẾN  TỚITHẮNG LỢI HOÀN TOÀN(1/1950 ĐẾN 10/1954) 3.1. Đặc điểm tình hình và chủ trương của Đảng bộ 3.1.1. Đặc điểm tình hình, yêu cầu mới trong xây dựng lực lượng vũ trang địa phương Đặc điểm tình hình và yêu cầu mới trong xây dựng lực lượng vũ  trang địa phương: Từ tháng 12/1949, Đảng bộ tỉnh Hải Dương bước vào  một giai đoạn vô cùng khó khăn. Các cuộc càn quét và hành động khủng   bố tàn bạo kết hợp với dụ dỗ, mua chuộc của địch đã khiến phong trào  kháng chiến  ở Hải Dương gặp muôn vàn khó khăn. Cơ sở kháng chiến   trong nhân dân bị đổ vỡ phần lớn. Một bộ phận LLVT cùng một số lớn   cán bộ, đảng viên bị bật đất, chạy dài sang các địa phương khác. Một bộ  phận không nhỏ cán bộ, nhân dân hoang mang, dao động, mất lòng tin vào  thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Có thể nói, Đảng bộ và quân  dân Hải Dương đứng trước tình hình cực kỳ khó khăn, đòi hỏi phải tìm ra   biện pháp giải quyết những vấn đề  cấp bách chưa hề  được chuẩn bị,   chưa có tiền lệ kể từ đầu kháng chiến.  19
  20. Chủ trương của Đảng:Trước những thay đổi bất ngờ trong chiến  lược của địch, ngay từ đầu năm 1950, Đảng đã triệu tập Hội nghị Toàn   quốc lần thứ ba. Trong báo cáo tại hội nghị, Đảng nhấn mạnh:  “Nhiệm   vụ  quân sự  cụ  thể  và cần kíp của ta nói chung là: một phương diện   chiến đấu để tiêu diệt sinh lực của địch, một phương diện gấp rút bồi   dưỡng và xây dựng lực lượng”.  Riêng về  xây dựng lực lượng, Đảng  chỉ  rõ: “chú ý vừa xây dựng bộ  đội chủ  lực, vừa xây dựng bộ  đội địa   phương, dân quân… dựa vào điều kiện cấp dưỡng, trang bị và cán bộ   cần thiết”. 3.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hải Dương Quán triệt nội dung Hội nghị TW Đảng lần thứ 3 và Hội nghị cán  bộ   toàn   Liên   khu,   căn   cứ   tình   hình   cụ   thể   của   địa   phương,   ngày  1/5/1950, Tỉnh uỷ  Hải Dương triệu tập Hội nghị cán bộ  toàn tỉnh tại  Đèo Voi (Đông Triều, Quảng Yên). Hội nghị quyết định: lấy 5 xã khu  Hà Đông huyện Thanh Hà làm căn cứ chỉ đạo kháng chiến, các đơn vị,   các cơ quan, các địa phương, các cán bộ  phải trở về nội địa lãnh đạo   phong trào. Từ ngày 1/8 đến ngày 10/8/1950, Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị  mở rộng tại Dồi Thần (đền Từ Hạ, xã Thanh Bính, huyện Thanh Hà)  tiếp tục giải quyết nhiều vấn  đề  về  lãnh đạo, chỉ  đạo phong trào   kháng chiến nhưng chú trọng hơn về công tác quân sự, nhất là công tác  xây dựng căn cứ  du kích, xây dựng các đơn vị  BĐĐP. Hội nghị  Dồi   Thần đã đánh dấu sự trưởng thành của Tỉnh uỷ  Hải Dương trong sự  chuyển hướng chỉ đạo đúng đắn đối với cuộc kháng chiến của quân và   dân trong tỉnh.Từ  đây, Đảng bộ  tỉnh đã có những chỉ  đạo quyết liệt  trong việc phục hồi và xây dựng LLVTĐP. 3.2. Chỉ đạo thực hiện 3.2.1. Kiện toàn tổ chức, biên chế Đối với DQDK:  Bước sang giai  đoạn mới, vấn  đề  xây dựng  DQDK được Đảng bộ  tỉnh hết sức chú trọng.  Tổ  chức DQDK một  cách   rộng   rãi,  chú   trọng   tổ   chức   bí   mật,   không   được   thoát   ly   địa 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2