ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI<br />
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN<br />
<br />
TRẦN TRỌNG HỘI<br />
<br />
NGHIÊN CỨU HOÀN THIỆN BỘ KIT PCR 16 GEN GẮN<br />
HUỲNH QUANG ỨNG DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU DÂN<br />
TỘC HỌC VÀ GIÁM ĐỊNH GEN<br />
<br />
Chuyên ngành : Di truyền học<br />
Mã số : 62420121<br />
<br />
DỰ THẢO TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC<br />
<br />
1<br />
<br />
Hà Nội - 2015<br />
<br />
Công trình được hoàn thành tại:<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN<br />
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI<br />
<br />
Người hướng dẫn khoa học:<br />
1. PGS.TS. Trịnh Đình Đạt<br />
2. PGS.TS. Nguyễn Văn Hà<br />
<br />
Phản biện: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .<br />
Phản biện: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .<br />
Phản biện: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .<br />
<br />
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Đại học Quốc gia<br />
chấm luận án tiến sĩ họp tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .<br />
. . . . . . .vào hồi<br />
<br />
giờ<br />
<br />
ngày<br />
<br />
2<br />
<br />
tháng<br />
<br />
năm 20...<br />
<br />
MỞ ĐẦU<br />
Ở mức độ di truyền, người ta đã ước tính được khoảng 99,7% hệ gen người là giống<br />
nhau, sự khác biệt giữa hai cá thể được tìm thấy trong 0,3% của toàn bộ ADN còn lại trong cơ<br />
thể của mỗi người [38]. Hệ gen người có rất nhiều các trình tự ADN lặp lại, trong đó có các<br />
trình tự ngắn lặp lại liên tiếp (STR) hay còn được gọi là trình tự lặp lại đơn giản (SSR) hoặc vi<br />
vệ tinh (microsatellite). Các STR này thường có kích thước ngắn khoảng từ 100-400 bp, mang<br />
các đơn vị lặp lại, mỗi đơn vị lặp thường có 2-7 bp và được tìm thấy ở vùng ADN không mã<br />
hóa. Chúng nằm rải rác trên tất cả 22 cặp NST thường, cũng như trên cặp NST giới tính X và<br />
Y. Các STR trên NST thường có tính đa hình cao hơn so với các STR trên NST Y (Y-STR) do<br />
thiếu sự tái tổ hợp trên NST này. Chúng có một vai trò quan trọng trong nghiên cứu di truyền<br />
quần thể và phân tích ADN nhận dạng cá thể người (giám định ADN) [67].<br />
Vào những năm 1990, các locus STR đầu tiên được sử dụng trong các PTN phân tích<br />
ADN nhận dạng cá thể người. Ngày nay, kỹ thuật phân tích STR là một công cụ không thể<br />
thiếu được trong các PTN phân tích ADN hình sự [50, 66, 123]. Hiện nay, có khoảng hơn<br />
20.000 locus STR lặp bốn nucleotide (có 4bp trong mỗi đơn vị lặp lại) được xác định có trong<br />
hệ gen người [44] và bộ CODIS 13 locus STR lõi do FBI (Mỹ) lựa chọn là bộ locus STR trên<br />
NST thường được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay [67].<br />
Mặt khác, công nghệ phân tích STR trên thế giới phát triển cũng rất đa dạng, bao gồm:<br />
Điện di gel polyacrlamide biến tính-nhuộm bạc [27, 99]; đánh dấu huỳnh quang-điện di mao<br />
quản [35, 85]; điện di mao quản vi mạch sử dụng microchip [74, 76, 101]; phân tích bằng khối<br />
phổ (mass spectrometry) [38, 39] và công nghệ pyrosequencing (giải trình tự bằng tổng hợp)<br />
[53, 56, 100]. Tuy nhiên, kỹ thuật đánh dấu huỳnh quang-điện di mao quản là công nghệ đã<br />
được nghiên cứu hoàn thiện và được sử dụng rộng rãi trong các PTN phân tích ADN hình sự<br />
trên thế giới với những ưu điểm: độ nhạy và chính xác cao; thời gian phân tích mẫu nhanh<br />
(được tính bằng phút); việc phân tích mẫu được thực hiện một cách tự động và có thể phân tích<br />
với quy mô số lượng mẫu lớn (xây dựng tàng thư ADN) [35].<br />
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật phân tích STR trong nhận dạng cá thể<br />
người cũng đã được phát triển mạnh mẽ từ những năm 2000 đến nay với những nghiên cứu về<br />
tối ưu điều kiện PCR đa mồi cho các locus STR (từ 2- 4 locus), xây dựng thang alen cho các<br />
locus STR (2-3 locus), chế tạo các bộ kit PCR (3-4 locus STR) và sử dụng kỹ thuật điện di gel<br />
polyacrylamide biến tính-nhuộm bạc để phát hiện các alen STR [1-3, 7, 9-12]. Bên cạnh đó,<br />
việc nghiên cứu khảo sát tần suất alen của các locus STR cũng được thực hiện trên dân tộc<br />
người Mường (N=107, với ba locus D5S818-D13S317-D7S820) [5] và người Kinh [8, 13]. Tuy<br />
nhiên, kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu thăm dò ban đầu, các dữ liệu<br />
tần suất alen và các chỉ số thống kê nhận dạng cá thể người chưa phản ánh đầy đủ cho các quần<br />
thể nghiên cứu. Mặt khác, công nghệ phân tách và phát hiện các alen STR được sử dụng trong<br />
các nghiên cứu này chủ yếu là dùng kỹ thuật điện di gel polyacrylamide biến tính-nhuộm bạc<br />
còn có nhiều mặt hạn chế như: Độ nhạy và chính xác chưa cao; thời gian phân tích mẫu lâu<br />
3<br />
<br />
(được tính bằng ngày); việc phân tích mẫu không thực hiện tự động được và kết quả phân tích<br />
mẫu phụ thuộc rất nhiều vào thao tác cũng như kinh nghiệm của người làm thí nghiệm.<br />
Xuất phát từ những lý do trên, việc thực hiện luận án “Nghiên cứu hoàn thiện bộ kit<br />
PCR 16 gen gắn huỳnh quang ứng dụng trong nghiên cứu dân tộc học và giám định gen” là<br />
hết sức có ý nghĩa và mang tính cấp thiết.<br />
Mục tiêu nghiên cứu<br />
1. Chế tạo bộ kit PCR 16 locus (gen) gắn huỳnh quang trên hệ thống điện di mao quản.<br />
2. Ứng dụng trong nghiên cứu dân tộc học và giám định ADN.<br />
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu<br />
Nhóm đối tượng nghiên cứu chính là các cá thể người thuộc ba dân tộc của Việt<br />
Nam là: người Kinh (N=300) sống ở khu vực Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; người<br />
Mường (N=104) sống ở tỉnh Hòa Bình và người Khmer (N=110) sống tỉnh Sóc Trăng.<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
1. Nghiên cứu chế tạo bộ kit PCR 16 locus gắn huỳnh quang trên hệ thống điện di mao<br />
quản.<br />
2. Ứng dụng bộ kit PCR 16 locus gắn huỳnh quang trong nghiên cứu di truyền quần thể ở<br />
ba dân tộc người Việt Nam (người Kinh, người Mường và người Khmer).<br />
3. Ứng dụng bộ kit PCR 16 locus gắn huỳnh quang trong phân tích ADN nhận dạng cá thể<br />
người (giám định ADN) tại Việt Nam.<br />
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án<br />
1. Bổ sung dữ liệu tần suất alen 15 locus STR trên NST thường (D3S1358, TH01, D21S11,<br />
D18S51, Penta E, D5S818, D13S317, D7S820, D16S539, CSF1PO, Penta D, vWA,<br />
D8S1179, TPOX và FGA) của người Kinh (N=300) sống ở khu vực Hà Nội và thành<br />
phố Hồ Chí Minh; người Mường (N=104) sống ở tỉnh Hòa Bình và người Khmer<br />
(N=110) sống tỉnh Sóc Trăng vào CSDL STR của người Việt Nam phục vụ cho công tác<br />
nghiên cứu di truyền quần thể và giám định ADN tại Việt Nam.<br />
2. Tạo ra được các bộ kit PCR 16 locus gắn huỳnh quang trên hệ thống điện di mao quản,<br />
giúp cho chủ động về công nghệ, đáp ứng các nhu cầu về phân tích ADN nhận dạng cá<br />
thể người, xác định huyết thống, làm thẻ ADN cá nhân, xây dựng CSDL tàng thư ADN,<br />
nghiên cứu di truyền quần thể...ở Việt Nam.<br />
Điểm mới của luận án<br />
Đây là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam về việc tối ưu điều kiện PCR đa mồi cho 16<br />
cặp mồi gắn huỳnh quang và chế tạo thành công bộ kit PCR 16 locus gắn huỳnh trên hệ<br />
thống điện di mao quản. Bộ kit mới này, đã được ứng dụng thành công ở hai lĩnh vực<br />
nghiên cứu chính. Đó là:<br />
1. Nghiên cứu di truyền quần thể ở người Kinh (N=300) sống ở khu vực Hà Nội và thành<br />
phố Hồ Chí Minh, thu được 173 alen/15 locus; người Mường (N=104) sống ở tỉnh Hòa<br />
Bình, thu được 132 alen/15 locus và người Khmer (N=110) sống tỉnh Sóc Trăng, thu<br />
được 145 alen/15 locus. Kết quả nghiên cứu này đã bổ sung vào CSDL 15 locus STR<br />
nghiên cứu ở quần thể người Việt Nam là 32 alen mới so với kết quả nghiên cứu trước<br />
4<br />
<br />
đây của tác giả Shimada và các đồng nghiệp [103]. Kết quả nghiên cứu cũng đã xây<br />
dựng được cây phả hệ di truyền theo phương pháp neighbor-joining bằng phần mềm<br />
POPTREE 2 [109] dựa trên dữ liệu tần suất alen của 13 locus thuộc bộ CODIS 13 locus<br />
STR lõi (do FBI-Mỹ lựa chọn) của 3 quần thể nghiên cứu và 14 quần thể tham khảo.<br />
Cây phả hệ này, đã phản ánh được mối quan hệ di truyền giữa 3 quần thể nghiên cứu với<br />
14 quần thể khác nhau trên thế giới. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra được người Kinh và<br />
người Mường có quan hệ gần gũi với nhau hơn so với người Khmer dựa trên giá trị<br />
khoảng cách di truyền chuẩn của Nei (DST).<br />
2. Phân tích ADN nhận dạng cá thể người (giám định ADN) tại Việt Nam bằng việc truy<br />
nguyên cá thể người từ các dấu vết sinh phẩm thu được tại hiện trường của một số vụ án<br />
(dấu vết máu và tinh trùng) với độ tin cậy cao (≥ 99,999999999999999985%); truy tìm<br />
tung tích nạn nhân từ mẫu răng cửa của tử thi nạn nhân qua mối quan hệ huyết thống<br />
mẹ-con với xác suất quan hệ là 99,999%; đã xây dựng được 9/10 hồ sơ ADN cá nhân<br />
của 10 đối tượng cần kiểm soát an ninh (KSAN) và đã làm được 1.000 thẻ ADN cá nhân<br />
thử nghiệm phục vụ công tác an ninh và dân sinh.<br />
<br />
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU<br />
1.1. Các locus STR sử dụng trong nghiên cứu di truyền quần thể và phân tích ADN hình<br />
sự<br />
Ngày nay, người ta đã phát hiện ra trong hệ gen người có chứa rất nhiều trình tự ADN lặp<br />
lại. Những trình tự lặp lại này thường nằm giữa các gen, chúng có thể khác nhau về kích thước<br />
ở các cá thể khác nhau mà không ảnh hưởng đến sức khỏe di truyền của cá thể đó [38].<br />
Các trình tự ngắn lặp lại liên tiếp (STR) cũng được tìm thấy trong hệ gen người. Các STR<br />
này đã trở thành các marker di truyền được sử dụng phổ biến hơn trong nghiên cứu di truyền<br />
quần thể và phân tích ADN hình sự vì chúng dễ dàng được nhân bội để phân tích bằng kỹ thuật<br />
PCR đa mồi [38].<br />
Các tiêu chí để lựa chọn các locus STR sử dụng trong phân tích ADN hình sự bao gồm<br />
[62, 45]:<br />
- Tính dị hợp tử được cao (≥ 70 %);<br />
- Có vị trí riêng biệt trên các NST khác nhau;<br />
- Có khả năng kết hợp với các locus khác để tạo thành các bộ phức nhiều locus<br />
(multiplex);<br />
- Có tỷ lệ stutter thấp (