intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật vè Nam bộ

Chia sẻ: Tiêu Sở Hà | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:122

18
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật vè Nam bộ được thực hiện với mục tiêu nhằm góp phần sưu tầm gìn giữ các loại hình văn hóa dân gian Nam Bộ đang có nguy cơ bị mai một trong đời sống xã hội bị chi phối quá nhiều bởi các nền văn hóa ngoại lai; thâm nhập khám phá vẻ đẹp các loại hình văn hóa dân gian Nam Bộ cụ thể là vè Nam Bộ qua cách diễn xướng; xây dựng bộ sưu tập văn học dân gian Nam Bộ về vè, làm tư liệu tham khảo về văn học dân gian Việt Nam nói chung, văn học dân gian Nam Bộ nói riêng. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật vè Nam bộ

  1. TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC TÌM HIỂU NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT VÈ NAM BỘ PHẠM VĂN KHOA Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
  2. TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC TÌM HIỂU NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT VÈ NAM BỘ Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: ThS. TĂNG TẤN LỘC PHẠM VĂN KHOA Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
  3. LỜI CẢM ƠN Đề tài khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành không chỉ là nhờ vào công sức của bản thân, mà đó còn có sự tận tình giúp đỡ của quý thầy cô Trường Đại học Võ Trường Toản và nhất là sự tận tình truyền đạt kiến thức cũng như kinh nghiệm của giáo viên hướng dẫn. Em xin chân thành gửi lời cám ơn sâu sắc đến thầy Tăng Tấn Lộc, giáo viên hướng dẫn đã dành nhiều thời gian truyền đạt kiến thức lẫn kinh nghiệm quý báu giúp em hoàn thành tốt khóa luận. Em cũng xin chân thành gửi lời cám ơn đến quý thầy cô Khoa khoa học cơ bản cùng các cán bộ của thư viện Trường Đại học Võ Trường Toản, luôn quan tâm giúp đỡ, tạo mọi điều kiện có thể để giúp em sớm hoàn thành tốt khóa luận này. Sinh viên thực hiện (Ký và ghi rõ họ tên) Phạm Văn Khoa i
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề tài nghiên cứu khoa học nào. Sinh viên thực hiện (Ký và ghi rõ họ tên) Phạm Văn Khoa ii
  5. MỤC LỤC trang MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................... 4 4. Giới hạn vấn đề.................................................................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 5 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN .......................................................................... 6 1.1. Định nghĩa vè ...................................................................................... 6 1.2. Nguồn gốc và sự phát triển của vè ...................................................... 6 1.3. Một số đặc trưng của vè ...................................................................... 8 1.3.1. Vè là thể loại tự sự dân gian bằng vần .............................................. 8 1.3.2. Vè giàu tính chất trữ tình ............................................................... 10 1.3.3. Vè nổi bật tính thời sự.................................................................... 11 1.3.4. Vè mang tính địa phương ............................................................... 13 1.4. Phân loại ............................................................................................ 13 1.4.1. Vè thế sự........................................................................................ 14 1.4.2. Vè lịch sử ...................................................................................... 16 CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÈ NAM BỘ .......................................................... 18 2.1. Vè kể về muôn vật ............................................................................. 18 2.2. Vè thế sự ............................................................................................ 26 2.3. Vè kể chuyện nước ............................................................................ 41 Tiểu kết ..................................................................................................... 52 CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT VÈ NAM BỘ .................................................... 54 3.1. Cách gieo vần..................................................................................... 54 3.2. Cách ngắt nhịp .................................................................................. 57 3.3. Thể thơ ............................................................................................... 59 3.4. Kết cấu ............................................................................................... 60 3.5. Nghệ thuật diễn xướng ...................................................................... 61 Tiểu kết ..................................................................................................... 62 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 66 PHỤ LỤC iii
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Vè là một thể loại văn chương truyền khẩu của văn học dân gian, nếu nói ca dao dùng phô diển tình tứ, tục ngữ để sửa khéo, dạy khôn, thì chắc không ai phủ nhận được rằng vè cũng có giá trị riêng biệt của nó. Chúng ta bỏ qua vè là bỏ đi một phần di sản sáng giá trong kho tàn văn học dân gian của chúng ta, những nhà nghiên cứu trước đây thường chú trọng nghiên cứu văn học dân gian Miền Bắc, còn Miền Nam thì ít được sự quan tâm của các nhà khoa học, nên đây được coi là một vùng đất hoang sơ, màu mở cần được khai phá. Học giả Nguyễn Văn Hầu có nhận xét về vấn đề này trong quyển một, “Văn học Miền Nam lục tỉnh”, “Trong các sách viết về văn học sử Việt xuất bản từ trước, như Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quản Hàm, Đại Việt văn học lịch sử của Nguyễn Sĩ Đạo, Việt Nam văn học sử trích yếu của Nghiêm Toản, cho tới sách Khởi thảo văn học sử Việt Nam của Thanh Lãng xuất bản sau mấy quyển trên, đều không thấy ai bàn xét đến vè” [3, tr.254] Vè hay một số thể loại khác như: ca dao; dân ca; hò là một loại hình nghệ thuật dân gian rất phong phú, giàu có cả về số lượng và thể loại, đã từng một thời rất phổ biến trong sinh hoạt dân gian. Nhưng hiện nay trước sự xâm nhập ồ ạt các dòng văn hóa ngoại lai, đang có nguy cơ nhấn chìm, mai một và nhiều thể loại có thể bị thất truyền, nếu như chúng ta không có ý thức lưu giữ và phát huy. Những gì còn lại trong trí nhớ của tôi về một thời thơ ấu là những câu hò những điệu hát ru của mẹ cùng tôi đi vào giấc ngủ. Không chỉ có những câu hò, điệu hát mà nó còn là những bài đồng dao hát ca, những câu vè, bài vè khi chơi đùa cùng chúng bạn, hay những buỗi chiều ngồi nghe các người lớn tuổi trong xóm kể những câu chuyện, kể vè rất thú vị. Cũng như Vũ Tố Hảo và Hà Châu có nói về sinh hoạt văn hóa trong quyển Tư tưởng tiến bộ- triết lý nhân sinh thực tiễn của nhân dân và vai trò của vè, truyện kể trong văn học dân gian. “Kể truyện, kể vè là sinh hoạt văn hóa quen thuộc, phổ biến trong gia đình và xã hội từ bao đời nay, là món ăn tinh thần cần thiết như cơm gạo”. Với tôi mỗi khi nghe đọc vè, hoặc nghe nói vè, tôi cảm thấy một vẻ đẹp hồn nhiên vui vẻ, một ý vị mộc mạc, chân thành, một lời khuyên mát dịu, vè còn biểu lộ cho tôi biết một cách trọn vẹn tâm hồn của 1
  7. người nhà quê, những tâm hồn chất phát thật dễ mến, cùng những tính tình, lề thói trong cuộc sống thường nhật của người dân Nam Bộ. 2. Lịch sử vấn đề Cùng với văn học viết, văn học dân gian là một trong hai bộ phận cấu thành nền văn học dân tộc, nhưng quan trọng hơn văn học dân gian còn là nơi đã hình thành nên những phép tắt cơ bản của nền văn hóa dân tộc mà về sau văn học viết phải tiếp thu, hoàn thiện và phát huy. Như lời cố nhà thơ Huy Cận phát biểu tại Đại hội văn nghệ dân gian Việt Nam lần III. Qua đó ta thấy tầm quan trọng của văn học dân gian trong cuộc sống cộng đồng dân cư của người Việt ta nói riêng và các dân tộc, quốc gia khác nói chung thế nhưng từ lâu nay do sự chủ quan, ý thức chưa đầy đủ về văn học dân gian của một bộ phận người nên còn nhiều nhận định sai lầm về mảng văn học này, bỏ qua một di sản sáng giá của dân tộc. Đặc biệt là Miền Nam tổ quốc thân yêu của chúng ta, trước đây, các nhà nghiên cứu về văn học dân gian thường chú trọng nghiên cứu ở các vùng, miền có lịch sử “Ngàn năm văn hiến”, còn vùng đất sinh sau đẻ muộn như Miền Nam thường ít được sự quan tâm, chú ý nhiều đến các học giả, các nhà nghiên cứu. Từ đó dẫn đến một thực trạng các đầu sách, các công trình nghiên cứu về văn học dân gian, đặc biệt là về mảng vè Nam Bộ còn rất ít, rất hạn chế so với văn học dân gian vùng, miền khác. Nhận định của Huỳnh Ngọc Trảng trong quyển Vè Nam Bộ, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 2006. “Nói chung cho đến nay, việc sưu tầm và nghiên cứu về vè Nam Bộ chưa được là bao”. Cũng như học giả Nguyễn Văn Hầu đã viết trong quyển Văn Học Miền Nam lục tỉnh, tập 1, Nxb Trẻ 2012. Cho chúng ta thấy vè có một giá trị riêng biệt của bản thân nó, và một địa vị không kém quan trọng trong văn chương dân gian, “Chúng ta bỏ qua vè là bỏ đi một phần di sản sáng giá trong kho tàng văn học dân gian của ta”. Qua những nhận xét trên của học giả Nguyễn Văn Hầu ta lại càng tin rằng văn học dân gian mà nhất là về thể loại vè cần được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu văn học, nhằm đưa vè trở về một vị trí nhất định vốn có của nó. Nguyễn Văn Hầu còn cho biết thêm “Các nhà viết văn học lớp trước ít ai chú ý đến giá trị văn học của vè. Vè bị khinh bạc như vậy là bởi người ta hiểu lầm, không chịu đặt nó vào đúng địa vị của nó… Vè đời đời vẫn là vè với một vai trò riêng” [3, tr.340] 2
  8. Quyển một, Văn học Miền Nam lục Tỉnh của Nguyễn Văn Hầu đã chú trọng phân giải những bài vè cho thấy cái nội dung, cái hay của một số bài vè để thấy được giá trị của vè trong văn học dân gian cũng giống như các thể loại khác như ca dao, tục ngữ, truyện cổ… Nhưng tác giả còn bỏ sót một điều chưa xét đến mà điều ấy làm cho vè trở nên độc đáo và riêng biệt với ca dao, hò, tục ngữ…Đó chính là cách diễn xướng của vè, nghệ thuật của vè là nằm ở chổ diễn xướng và sự diễn xướng ấy làm cho vè khác biệt các thể loại khác. Đương nhiên cách diễn xướng ở mỗi vùng miền, từng địa phương lại có cách diễn xướng khác nhau tạo nên nét độc đáo riêng biệt cho vè, như hình thức nói thơ Bạc Liêu hay nói thơ sắc bùa Phú Lễ chẳng hạn. Mà thực sự có các công trình nghiên cứu đi chăng nữa thì cũng ít các tác giả bàn luận đến vè Nam Bộ. Có bàn luận thì cũng chưa thật sự đào sâu hay nghiên cứu trên toàn vùng Nam Bộ mà chỉ giới hạn ở việc sưu tầm, điền dã ở một số tỉnh thành nhằm lưu giữ lại những văn hóa tinh thần từ thời buổi sơ khai khi văn học viết chưa xuất hiện hay điều kiện in ấn, lưu trữ còn nhiều hạn chế. Lư Nhất Vũ, Lê Giang và Nguyễn Ngọc Quang có nhận định trong quyển Nói thơ, nói vè, thơ rơi Nam Bộ, Nxb văn hóa dân tộc, 2011. “Trong loại hình văn nghệ dân gian rất được phổ biến ở Nam Bộ phải nhắc đến hình thức Nói vè. [12, tr.14] Ở đây các tác giả đã cho ta thấy được sự quan trọng của vè trong sinh hoạt dân gian Nam Bộ rất phổ biến, bên cạch đó tác giả còn cho thấy một quan hệ giữa nói vè và nói thơ, nhưng quan trọng hơn các tác giả đã nói tới lối sinh hoạt vè trong dân gian Nam Bộ có vần, có điệu, có nhịp, có phách rõ ràng và thể thì thường bốn chữ và hát như nói. Nhưng vẫn chưa thật sự đi sâu vào từng mảng của các thể loại văn học dân gian mà chỉ giới thiệu khái quát qua nói thơ, nói vè, thơ rơi Nam Bộ để cốt lỏi là giới thiệu đến công chúng, đọc giả những người quan tâm ít nhiều đến văn học dân gian mà nhất là về mảng nói thơ, nói vè, thơ rơi Nam Bộ các tác phẩm mà các tác giả đã sưu tầm, điền dã trong dân gian và biên soạn lại. Ngoài ra quyển “Tư tưởng tiến bộ- triết lý nhân sinh thực tiển của nhân dân và vai trò của vè, truyện kể trong văn học dân gian” của Vũ Tố Hảo, Hà Châu, Nxb Thời đại, 2012. Cũng có một nhận định qua vè vùng Nam Bộ. “Ở Nam Bộ các bài vè lục bát được kể được lưu truyền trong nhân dân thông qua hình thức nói thơ- 3
  9. nhất là điệu nói thơ vân tiên, một lối đọc xướng truyện thơ lục bát, đặc biệt phổ biến ở Nam Bộ” [2, tr.209] Nhưng tác giả chủ yếu chỉ nói về cách diễn xướng vè ở Nam Bộ và chỉ nói qua các vùng miền của cả nước chứ không đào sâu, nghiên cứu ở một vùng miền nào nên vẫn còn có sự hạn chế nhất định khi giới thiệu tới các bạn đọc. Ngoài ra các đầu sách khác cũng có bàn luận ít nhiều tới vè Nam Bộ, nhưng đa số trong số ấy là những tư liệu sưu tầm, điền dã các văn bản để giới thiệu chứ chưa thật sự nghiên cứu, phân tích cụ thể để thấy cái hay, cái cần để được sự quan tâm bảo tồn, lưu giữ cũng như phục hưng lại nếp sinh hoạt truyền thống đã có lúc rất thịnh hành và phổ biến trong sinh hoạt dân gian Nam Bộ. - Nguyễn Ngọc Quang, Văn học dân gian Châu Đốc, Nxb Dân trí, 2010. - Hoàng Tiến Tựu, Nguyễn Hữu Sơn, Phan thị Đào và Vũ Quang Trọng, Một vài vấn đề về văn học dân gian, (sưu tầm và giới thiệu), Nxb Dân tộc, 2012. - Chu Xuân Diên (Chủ biên), Lê Văn Chưởng, Nguyễn Ngọc Quang, Phan Thị Yến Tuyết và Phan Xuân Viện, Văn học dân gian Sóc Trăng, Nxb Văn hóa- thông tin, 2012. - Nhiều tác giả, Tthơ ca dân gian Trà Vinh (chuyên khảo), Nxb Thời đại, 2012. Thấy được những ưu điểm và những hạn chế của các công trình trên, ở đề tài “Tìm hiễu nội dung và nghệ thuật vè Nam Bộ” này, chúng tôi tiếp tục tiến hành nghiên cứu về nội dung cũng như nghệ thuật của vè Nam Bộ với hi vọng sẽ khắc phục những nhược điểm mà các công trình trên mắc phải, cho ra đời một công trình nghiên cứu hoàn chỉnh đảm bảo tính khoa học để phục vụ cho việc nghiên cứu của các công trình có nội dung liên quan sau này. 3. Mục đích nghiên cứu Khi chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn và cố gắng đạt được những mục đích yêu cầu sau: - Góp phần sưu tầm gìn giữ các loại hình văn hóa dân gian Nam Bộ đang có nguy cơ bị mai một trong đời sống xã hội bị chi phối quá nhiều bởi các nền văn hóa ngoại lai. - Thâm nhập khám phá vẻ đẹp các loại hình văn hóa dân gian Nam Bộ cụ thể là vè Nam Bộ qua cách diễn xướng. 4
  10. - Xây dựng bộ sưu tập văn học dân gian Nam Bộ về vè, làm tư liệu tham khảo về văn học dân gian Việt Nam nói chung, văn học dân gian Nam Bộ nói riêng. - Nhận ra vẻ đẹp ngôn ngữ và vẻ đẹp về đời sống tâm tư tình cảm của người dân sinh sống trên vùng địa bàn văn hóa đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. 4. Giới hạn đề tài Giới hạn đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu của luận văn là những bài vè được sưu tầm ở vùng đất Nam Bộ (chủ yếu trong quyển Vè Nam Bộ của Huỳnh Ngọc Trảng, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 2006). Giới hạn phạm vi vấn đề: trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi khảo sát những bài vè ở Nam Bộ. Những bài vè này ra đời và lưu truyền trong dân gian Nam Bộ. Trên cơ sở đó chúng tôi đi sâu vào những nội dung và nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu có ở các bài vè Nam Bộ - đó là nhiệm vụ trọng tâm của đề tài. 5. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này chúng tôi nhằm tập hợp, bổ sung, phân loại mảng Vè Nam Bộ trên cơ sở tiếp thu những ý kiến tiến bộ của những người đi trước. Khi thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như sau: - Phương pháp thống kê: tiến hành tìm kiếm tất cả các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu sau đó chọn những đề tài có tính chính xác cao để tập trung nghiên cứu. Đồng thời khảo sát, phân loại và mô hình hóa. - Phương pháp so sánh: trong quá trình tìm hiểu, phân tích vè Nam Bộ chúng tôi đối chiếu với các vè các vùng miền khác. - Phương pháp phân tích: trong quá trình nghiên cứu, phương pháp phân tích đã giúp đỡ trong việc nghiên cứu đi sâu hơn về các nguyên nhân vấn đề, để từ đó thấy rõ nội dung, cái hay của nghệ thuật trong các bài vè. - Phương pháp liên ngành: ngoài những phương pháp trên chúng tôi còn sử dụng phương pháp liên ngành để hỗ trợ trong việc nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân vấn đề, tứ đó thấy rõ nội dung của các bài vè. 5
  11. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Định nghĩa Vè Trong Một vài vấn đề về văn học dân gian của Hoàng Tiến Tựu, Nguyễn Hữu Sơn, Phan Thị Đào và Vũ Quang Trọng. Vè được định nghĩa là: “Một loại tự sự bằng vần, được biểu diễn dưới hình thức nói hoặc kể, chủ yếu nhằm phản ánh kịp thời và cụ thể những chuyện về người thực, việc thực ở từng địa phương…” [11, tr.258] Còn trong Vè Nam Bộ của Huỳnh Ngọc Trảng có giới thiệu: “Trong Đại Nam quốc âm tự vị vè được định nghĩa là “chuyện khen chê đặt có ca vần” và việc sáng tác vè là “Đặt chuyện khen chê có ca vần ấy”” [10, tr.7] Nguyễn Văn Hầu có nhắc tới bài Một lối văn bình dân của Phan Văn Thiết giảng rộng hơn về vè trong quyển một, Văn học Miền Nam lục Tỉnh. “Vì đâu mà có vè? Chẳng chi lạ hơn là gặp sự bất bình trái mắt mà nảy sinh ra thứ văn ấy. Trong làng nước có xảy ra việc gì không hạp với thuần phong mĩ tục, không đúng với công lý bác ái thì trước sau năm ba ngày cũng có một cái vè do cậu đồ, hay ông tú nào nằm nhà đã đặt ra mà truyền vào miệng dân gian. Chúng ta có thể nói rằng lối vè là một cái lợi khí tranh đấu của hạng bình dân trong thời đại quân chủ: uất ức điều gì mà không giám chán chường kích bác thì nhân dân dùng lối vè mà tìm cách đánh đổ, dầu không đánh đổ được hẳn thì cũng làm giảm bớt đi được ít nhiều, vì bất cứ ở thời đại nào, những người ra làm việc công mặc dầu oai quyền đến đâu cũng phải kiên sợ cái sức mạnh của “dư luận” cả!” [3, tr.256] Từ những định nghĩa, giải thích trên ta có thể rút ra được một định nghĩa đầy đủ hơn về vè. Vè là một thể loại tự sự dân gian bằng vần, giàu tính thời sự, phản ánh các sự kiện thực tế trong cuộc sống, đồng thời thể hiện thái độ khen chê dứt khoát của tác giả dân gian đối với sự việc ấy và vè cũng có tác dụng mua vui, để giảng dạy luân lý hoặc cũng để bàn luận. 1.2. Nguồn gốc và sự phát triển của vè Vè là một thuật ngữ văn học dân gian có liên quan tới từ trong “vần vè”, vè có nghĩa là lời nói có vần, và vè xuất hiện để kể chuyện một cách có vần có nhịp, khi tác giả dân gian thấy kể chuyện bằng văn xuôi chưa đáp ứng đầy đủ được cho việc biểu hiện nội dung của vấn đề muốn nói tới. Vè được nhân dân sử dụng như là 6
  12. một khẩu báo ghi chép, có kèm bình luận về thời sự địa phương, hoặc biến cố lịch sử, cho đến nay người ta vẫn chưa tìm ra được câu trả lời cho câu hỏi: vè có từ bao giờ? Có những thể loại văn học dân gian mà sự phát sinh của chúng còn để lại dấu vết, dựa vào đó mà ta có thể khẳng định chắc chắn sự ra đời của nó. Nhưng đối với vè thì rất khó xác định, biết rằng vè rất phát triển thời kỳ cận đại gắn với sự thức tỉnh về quyền tự do dân chủ của phong trào đấu tranh chống áp bức bóc lột của quần chúng nhân dân trong thời kỳ lịch sử này. Vè đặc biệt phát triển vào khoảng thể kỷ XVIII, XIX và đầu thế kỷ XX, khi giai cấp phong kiến Việt Nam suy tàn, từ trong làng ngoài xã đến huyện, tỉnh và cả vùng, đâu đâu cũng thấy đầy rẫy những sự xấu xa phi lý của các tầng lớp thống trị từ nhỏ đến lớn bị phơi bày. Nhất là sau khi thực dân Pháp xâm lược, cả dân tộc bước vào một cuộc chiến tranh giành độc lập, tự do, vè càng phục vụ đắc lực cho thực tế thiêng liêng và sôi động đó. Nhưng đó là một thể loại, một khía cạnh nhỏ chưa đủ để xác định được vè có từ bao giờ, vè lịch sử thường chỉ địa điểm, ngày tháng, sự kiện và tên nhân vật đó, nhưng bên cạnh những bài vè lịch sử, thế sự còn có cả một khối lượng đồ sộ các bài vè về cá, chim, hoa quả… Có phải vè xuất hiện từ khi muôn vật phong phú đa dạng. Vậy muôn vật phong phú đa dạng từ bao giờ? Không một ai xác định chính xác được, vì thế cho tới nay người ta vẫn chưa đủ căn cứ để xác định được vè có từ bao giờ. Thể loại vè với tính thời sự, tính chiến đấu mạnh mẽ nên rất dễ bắt nhịp vào cuộc sống, nhưng cũng vì thế, vì tính thời sự mà số phận của các bài vè thường ngắn ngủi, các bài vè ra đời chỉ để nói đến một việc, một sự kiện nào đó rồi người ta lại quên ngay khi một sự kiện khác, có người đặt vè cho sự kiện mới hơn, nóng hổi hơn. Ngoại trừ một số bài vè thuộc thể loại lịch sử thì còn được nhớ và lưu giữ, thêm một phần là do điều kiện hoàn cảnh nên việc ghi, chép, in ấn không có và từ năm 1945 về sau, hoàn cảnh và điều kiện đổi khác, văn truyền khẩu thiếu cơ duyên phát triển, đường giao thông thuận tiện, phương tiện tuyên truyền nhanh chóng, nếp sống của dân chúng lún vào cơ giới hóa. Ngày nay, việc hội nhập ngày càng phát triển, công nghệ mỗi ngày một tân tiến, một đổi mới, nhu cầu giải trí của nhân dân cũng được nâng lên nên, việc chúng ta bắt gặp những cảnh sinh hoạt dân gian diễn xướng vè là một điều cực kì hiếm hoi. Các em nhỏ ngày nay cũng thế, những trò chơi dân gian, những bài hát đồng 7
  13. dao vui tai, những bài vè thánh thót cũng không lấy làm hứng thú với các em khi các em có quá nhiều cách giải trí cho lựa chọn của mình. Nếu không có những biện pháp đúng đắn, kịp thời thì vè hay một số thể loại văn học dân gian khác có thể ngày càng bị mai một và mất đi trong tương lai khi xã hội ngày càng văn minh hiện đại, những gì của dân gian sẽ nhường lại cho những gì thuộc về công nghệ hiện đại. 1.3. Một số đặc điểm của vè 1.3.1. Vè là thể loại tự sự dân gian bằng vần Những bài vè có độ ngắn dài của câu chữ khác nhau, mặt nội dung thể hiện của các bài vè cũng khác nhau nhưng điều thể hiện tính truyện trong vè khá rõ, vè là một thể loại tự sự dân gian nên vè thường có cốt truyện, có những bài vè có cốt truyện đơn giản đến phức tạp, những bài vè đơn giản thì thường kể bâng quơ, đầu cuối không rõ ràng, chỉ có yếu tố hiệp vần lại như vè cá, chim, cây cối...có những bài vè có cốt truyện phức tạp, kết cấu chặt chẽ thường là những bài vè về lịch sử, nói về những người anh hùng nông dân hay anh hùng chống Pháp. Ví dụ Vè đánh Nhật Bổn; Vè huyền thoại thằng Mỹ; Vè liệt sĩ Phạm Văn Khiết; Vè anh Hoặt; Vè người chiến sĩ Tiểu La Thành. Vè còn có nhân vật tự sự, những bài vè lịch sử, xã hội, thì thường nhân vật là nhân vật người kể chuyện và có đoạn nhân vật tách khỏi vè để bình luận, khi thì lại nhập vào nhân vật để kể truyện. Tuy vè có nhân vật tự sự, nhưng về việc đi sâu miêu tả tính cách nhân vật chưa có. Nhắc qua anh Hoặt Một người tốt thật Giai cấp bần nông Anh đã hết lòng Tham gia kháng chiến (Vè anh Hoặt) Vè có tính chất truyện bởi vậy khiến cho vè thường dài, nhiều tình tiết, những sự kiện được kể một cách cụ thể, chi tiết, chính xác từ tên địa danh đến ngày giờ, hoàn cảnh xảy ra sự kiện đó. Ở đây sự việc, tên người, tên địa điểm, thời gian (thậm chí cả ngày giờ, năm tháng) đều được thuật lại chi tiết, rõ ràng đúng như 8
  14. trong thực tế. Ví dụ: Vè năm 1976, Vè năm 1949, Vè năm Kỷ Sữu, Vè 1948, Vè 25 tháng Tám. Không ai độc ác Bằng tụi thực dân Pháp Tụi thực dân Pháp ở Sóc Trăng Chúng nó cả gan sửa con đường Đại Nghĩa Trong ngày 27 tháng Mười hai dương lịch Kéo dài đến năm 1948…. (Vè 1948) Bởi tính chất bình dân của vè, lời nói dí dỏm đôi khi hài hước, nhiều tiếng dùng nôm na, còn cốt truyện thì rất gần gũi với tầm nhìn của nhân dân. Nên dễ tạo niềm tin và lay động, thuyết phục tình cảm của người nghe. Tiếng nói từ trái tim sẽ đến với trái tim, còn tiếng nói từ đầu môi chỉ có thể đến ngoài tai. Thưa các đồng chí, thưa bà con Tui xin kể một chuyện vui Hay cũng đừng khen, dỡ cũng đừng cười Có một ngày nọ bộ đội về làng Tui thấy súng tôi ham Tía tôi nói cho thằng này đi bộ đội Má tui mới đem lòng lo sợ Bắt tui cưới vợ để cầm chân Còn tui nghe nói run lên như cù lét (Vè anh lính Tây Đô) Hơn nữa, thông qua nội dung của mỗi bài là thái độ khen chê thẳng thừng của người kể chuyện cho nên vè không bao giờ kể truyện một cách khách quan. Chỉ những sự việc được nhân dân khen chê nhiệt liệt hoặc gay gắt thì mới được vè ghi lại. Nhân dân chê bai những anh say xỉn, làm biếng, những người đàn bà chửa hoang…Nhân dân căm gét bọn cường hào ác bá, nhân dân than về nạn đói, thuế má nặng nề…Nhân dân đã kích, lên án, tố cáo bọn thực dân phong kiến. Nhân dân ca ngợi những anh hùng nông dân, ca ngợi những người dũng cảm đấu tranh chống Pháp. 9
  15. Vè là “báo chí truyền miệng” xuất phát do nhu cầu phản ánh những sự kiện có tính chất thời sự. Vì thế, mà vè đáp ứng được nhu cầu biểu thị một cách kịp thời, công khai, dứt khoát, thái độ khen-chê của tác giả dân gian. Tóm lại vè là một thể loại tự sự dân gian bằng vần bởi vì vè có cốt truyện, có nhân vật tự sự, sử dụng từ ngữ nôm na, bình dân để hiệp vần lại với nhau. Thông qua đó tác giả dân gian phản ánh thái độ khen chê về một sự vật, sự việc nào đó trong đời sống. 1.3.2. Vè về tính chất trữ tình Vè là thể loại tự sự nhưng giàu yếu tố trữ tình, bởi cách diễn xướng của vè chứa chan tình cảm, cảm xúc của người xướng lên câu vè, nội dung của câu truyện vè hay đến đâu, sự việc hấp dẫn đến thế nào cũng không thể gây được những xúc động sâu xa trong lòng người nghe nếu không có được nghệ thuật trình diễn tốt. Bằng giọng nói, điệu bộ, cử chỉ và đôi khi có phụ họa thêm phần nhạc cụ trong lúc diễn xướng các bài vè, nghệ nhân dân gian đã góp phần làm sống lại những vật và con người trong vè. Ở vè hai khâu sáng tác và biểu diễn thường tách rời nhau. Có người chỉ biết sáng tác vè mà không hề biết biểu diễn. Ngược lại có nghệ nhân chỉ chuyên môn kể vè mà không hề sáng tác vè. Sáng tác hay nhưng biểu diễn tồi thì bài vè chưa tốt và ngược lại biểu diễn tốt mà sáng tác tồi thì không mang lại nội dung nhận thức cho người nghe. Vì thế, ta thấy tầm quan trọng của diễn xướng vè, hình ảnh; ngôn ngữ; kết cấu cách trình diễn phải phù hợp với nội dung tính tự sự ấy, sự thể hiện ấy qua cách diễn xướng phải bằng trái tim cảm xúc của người diễn xướng. Bài vè hay kết hợp với cách diễn xướng tốt có thể giúp ta nhận thức đầy đủ hơn về nội dung của bài vè. Những bài vè bao giờ cũng mang một bầu nhiệt huyết, thể hiện cả tâm trạng đau buồn hay yêu gét của tác giả, nên ngôn ngữ tự sự của vè không bao giờ là một thứ ngôn ngữ lạnh lùng, khách quan, người nghe vè có thể thấy ngay được thái độ của tác giả, không những chỉ qua những lời phát biểu ý kiến trực tiếp, mà còn qua cả ngôn ngữ giàu cảm xúc, lời tự sự nữa. Về mặt ngôn từ thì vè không là một thứ ngôn ngữ lạnh lùng khách quan nên nó rất gần với ca dao. Có những bài vè ngắn, giàu tính chất trữ tình, thật khó phân biệt với ca dao, cái khác ở chúng chỉ là ở phương thức diễn xướng, một bên là kể truyện còn bên kia là hát. 10
  16. Yếu tố trữ tình dễ dàng nhận thấy ở vè than thân, tuy vè than thân hay vè lịch sử xã hội đều có nhiều yếu tố trữ tình, nhưng có lẽ trong nhiều loại vè khác nhau thì vè than thân mang đậm tính chất trữ tình nhất. Những lời tự bạch, thể hiện ý thức về thân phận của người nghèo trong những câu vè than thân Nghèo tanh nghèo hôi, Nghèo lồi mắt cá. Nghèo sả xương mông, Nghèo không gạo nấu. (Vè nghèo) Ở một ngày một lộng, Lầu ba từng lại có võ môn. Nhựt nhựt thường kiểng đổ trống rung, Xe song mã sướng đà quá sướng… (Vè Đốc phủ ca I) Khi đọc bài “Vè nghèo” của tác giả dân gian ở Mộc Hóa-Long An. Chúng ta thấy được một bức tranh có đủ cái nghèo của người dân như: nghèo lồi mắt; nghèo sả xương mông; nghèo tàn nghèo mạt…Qua đó ta còn thấy rõ sự đối nghịch giữa giàu và nghèo trong xã hội đương thời, người thì không có ăn, kẻ thì lại hoang phí. Tóm lại vè mang yếu tố trữ tình bỡi lẽ vè là một thể loại tự sự dân gian bằng vần, không chỉ thể hiện thái độ khen chê mà còn thể hiện sự đáng thương, sự đồng cảm những số phận éo le trong cuộc sống, đặc biệt vè thể hiện tính chất trữ tình của mình ở phương diện diễn xướng. Khi diễn xướng vè người nghệ nhân diễn xướng phải bằng cả trái tim mình, phải đặt mình vào nhân vật kể vè để mà kể từ đó thể hiện sự đáng thương, những éo le, trắc trở cuộc sống để nhận được sự đồng cảm từ người nghe vè. 1.3.3. Vè nổi bật tính thời sự Vè kể lại những việc không bình thường, nhỏ thì thu hút sự chú ý của nhân dân ở một địa phương, một xóm, một ấp, một xã, một vùng, lớn thì có ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống của cả dân tộc. Vì vậy vè phản ánh những con người có thật, những việc có thật xảy ra trong đời sống, tuy có lúc tô vẽ cho nhân vật những nét siêu phàm, nhưng đó là dụng ý kể chuyện của tác giả dân gian muốn biểu hiện một cách sắc nét những vấn đề đang hấp dẫn sự chú ý của mọi người. 11
  17. Đề tài mà vè hướng đến là những đề tài hiện tại (đương thời), nhằm phản ánh kịp thời những sự kiện, những biến cố đang diễn ra hoặc vừa mới xảy ra mà tác giả dân gian đã ít nhiều chứng kiến, như Vè đánh tây; Tội ác giặc Pháp; Vè tố cáo giặc…Những đề tài ấy thường là những sự việc, sự kiện, thông thường trong đời sống được tác giả dân gian chộp ngay lấy, ghi nhanh lấy, với tất cả những chi tiết cụ thể, riêng biệt, rồi kịp thời truyền đi rộng rãi để bày tỏ thái độ và gây dư luận trong nhân dân chứ không đợi nó lắng xuống. Với tính chất “Người thực việc thực” thể hiện trong những bài vè lấy đề tài ở các sự kiện thông thường của đời sống, cùng với việc vè phản ánh những sự việc, hiện tượng ở hiện tại, ít chú trọng đến quá khứ. Như vậy, một trong những đặc điểm tiêu biểu của vè là tính thời sự. Vè xuất hiện do nhu cầu phản ánh những sự kiện có tính chất thời sự, nên xét kĩ vè là một thứ khẩu báo của địa phương, cho nên vè rất dễ bị lãng quên. Khi một sự việc, sự kiện mà vè đề cập đến không còn gây được sự chú ý của nhân dân, mà thay vào đó là những sự việc, sự kiện mới thu hút hơn. Những bài vè phản ánh những sự việc trong quá khứ thường là những bài vè chỉ tồn tại trong kí ức của những người đặt vè và một số người đã chứng kiến hoặc sống qua thời kì sự việc đã xảy ra trong quá khứ, cho nên những bài vè được giữ lại đến nay với số lượng rất khiêm tốn. Trên thực tế cho thấy số lượng vè từng tồn tại trong dân gian của một số địa phương như Nghệ An; An Giang; Sóc Trăng… là rất nhiều. Cũng chính vì tính thời sự, cho nên những bài vè hôm nay mới được truyền tụng, sự kiện hôm nay mới được nhắc đến, thì ngày mai bài vè ấy bị quên đi, sự kiện ấy đã bị lùi vào dĩ vãng để nhường chỗ cho bài vè khác, sự kiện khác. Ra đời trong một hoàn cảnh như vậy, vè chưa đủ thời gian để sửa sang gọt giũa hoàn chỉnh, nên nó vẫn mang nguyên vẹn tính chất thô sơ mộc mạc của thuở ban đầu. Tóm lại vè mang tính chất thời sự bởi vè phản ánh những sự vật, sự việc hằng ngày của địa phương, của đất nước một cách kịp thời để nhân dân trong làng, xã, trong một đất nước biết tới sự kiện ấy, và do đó mà số lượng những bài vè rất nhiều, nhưng cũng dễ lãng quên do người ta phải nhớ một sự kiện mới và dễ quên sự kiện cũ. 12
  18. 1.3.4. Vè mang tính địa phương Như đã nói vè mang tính thời sự phản ánh những sự kiện mang tính chất “Người thực việc thực” chỉ rõ địa điểm, thời gian xảy ra sự kiện mà vè muốn phản ánh. Nên phạm vi những người quan tâm đến sự kiện mà vè phản ánh, làn sóng dư luận mà vè gây ra, mang tính chất địa phương rất rõ. Nói chung, vè ghi lại những sự việc được sự quan tâm của nhân dân ở một xã, một huyện, một tỉnh hay một vùng, tuy rằng cũng có những bài ghi lại những sự việc có ý nghĩa toàn quốc. Không phải bài vè nào cũng được phổ biến rộng rãi, có loại chỉ phổ biến ở một địa phương nhất định (chẳng hạn loại Vè sợ vợ, Vè chửa hoang, Vè đào kênh…). Có loại tuy thuật sự việc địa phương nhưng do tính chất tiêu biểu của sự việc nên có thể phổ biến rộng rãi hơn ra các địa phương khác (chẳng hạn những bài “vè đi ở”). Và có những bài vè tuy mới đầu chỉ ghi lại một sự kiện, nói về một nhân vật ở một địa phương, một vùng nhất định nhưng vì sự kiện ấy và nhân vật ấy về sau đã có ít nhiều ảnh hưởng đến toàn quốc, trở thành sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử thì bài vè dần dần được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng khác nhau trong nước (vè nông dân khởi nghĩa, vè đấu tranh chống Pháp). Dầu sao, một đặc điểm rất tiêu biểu của vè vẫn là tính chất địa phương. Ở tính chất này thì vè thể hiện khá rõ, khi những sự vật, sự việc đi vào vè là những con người thật, những việc có thật, địa điểm, thời gian cũng được vè ghi lại một cách chính xác. Vì thế mà vè thường gắn liền với một địa phương nào đó để phán ánh những sự vật, sự việc xảy ra ngay chính địa phương ấy, một phần cũng do phương tiện lưu trữ và truyền thông ngày xưa rất thô sơ và hạn chế, vè không được ghi lại cũng như là tuyên truyền rộng rải nên nó thường bó hẹp ở một không gian nhất định của một địa phương nào đó. 1.4. Phân loại Hiện nay việc phân loại vè đang được giải quyết theo những cách khác nhau, mỗi cách dựa trên những căn cứ nhất định. Nhưng thương người ta vẫn dựa vào hai căn cứ là thể loại và đề tài để phân loại phân loại cho vè. Dựa vào thể thơ, người ta phân vè thành các loại: vè lục bát, vè song thất lục bát, vè nói lối, vè hát dặm. Dựa vào để tài, nhiều nhà nghiên cứu văn học dân gian nước ta đã phân loại vè thành hai loại chính là vè thế sự và vè lịch sử. Chúng tôi tạm lựa chọn cách phân loại theo đề tài để tiện cho việc nghiên cứu. 13
  19. 1.4.1. Vè thế sự Vè thế sự hay còn gọi là vè sinh hoạt là một bộ phận vè hướng về việc phản ánh và thông báo kịp thời, cụ thể những sự việc và biến cố xảy ra trong đời sống hằng ngày của nhân dân như: chuyện đám cưới, đám ma, bắt cầu, đào sông, mất mùa, nạn bão lụt… Nếu toàn bộ kho tàng vè dân gian chỉ được phân làm hai loại vè sinh hoạt và vè thế sự thì phạm vi đề tài của vè sinh hoạt vô cùng rộng lớn và phức tạp. Ngoài những bài vè nói về “thế sự” những sự việc và biến cố xảy ra trong đời sống hằng ngày của nhân dân, vè sinh hoạt còn bao hàm cả những bài không mang tính thời sự trực tiếp như: vè trái cây, vè chim cá, vè phong cảnh… Những bài vè kể vật kể việc không mang tính thời sự trực tiếp theo Cao Huy Đỉnh, là chúng có đặt tính chung “vừa có tính chất nghệ thuật văn học vừa không phải như vậy. Tính chất nghệ thuật văn học là ở phần tư tưởng tình cảm (nội dung) và kết cấu âm điệu, hình ảnh là ngôn ngữ cụ tượng (về mặt hình thức). Tính chất phi nghệ thuật văn học là ở chổ nó làm ra vì mục đích khoa học và triết lý, hay nói đúng hơn vì mục đích đúc kết và truyền thụ một cách trức tiếp những kinh nghiệm thực tiễn của nhân dân; do đó, mà nội dung cách trí thường thức, khoa học thực hành và triết lý thực tiễn cũng chiếm phần cơ bản ở trong bộ phận sáng tác dân gian này” [10, tr.14] Rõ ràng những bài kể vật là những bài cách trí của dân gian, nhưng qua sự kể lể, chúng đã giới thiệu những đặc sản của địa phương và do đó, ở mức độ nhất định loại vè này cũng đã hàm chứa lòng tự hào về quê hương trù phú và tình cảm của người dân đối với thiên nhiên, sản vật của vùng đất ấy. Trong khi ngfhiên cứu tìm hiểu vè Nam Bộ cho thấy rằng chức năng “truyền thụ một cách trực tiếp những tri thức, những kinh nghiệm thực tiễn của nhân dân” của Cao Huy Đỉnh không hẳn đã là chức năng cơ bản, không phải là mục đích chủ yếu cũng không chỉ là những bài “cách trí dân gian đích thực”. Loại vè này còn tồn tại trong dân gian với tư cách là những bài đồng dao, do đó ngoài những bài học cách trí nó còn là bài hát vui của thiếu niên nhi đồng. Những bài vè này mang nhận thức của con người về thế giới tự nhiên và thêm nữa nó là những bài học đơn giản và vui vẻ giúp con người mở rộng hiểu biết về thế giới đó. Ninh Viết Giao đã từng ví von kho tàng vè Việt Nam là một “Bách khoa thư”, trong kho tàng vè Việt Nam chúng ta có thể tìm thấy những bài học về địa lý, tìm hiểu những danh lam thắng cảnh của đất nước, những con đường, 14
  20. ngọn núi, dòng sông, cửa lạch, eo biển… qua những bài vè đường bộ, đường sông, đường thủy: Bãi Tròn lai láng mênh mang Ngó ra thăm thẳm là ngàn núi Dinh Qua mũi Dinh biển liền chín giải Mũi chỉ mặt trời “vác” lái ra đi (Vè nhật trình hàng hải đi vào) Ngoài ra những bài vè mang tính chất bông đùa phù hợp với tinh thần tươi trẻ, lạc quan được sáng tác chủ yếu cho thiếu nhi. Nó gần với đồng dao, vừa rèn luyện sự nhanh nhạy của tư duy, vừa giúp trẻ thực hiện được những trò chơi vui vẻ như: Tập tầm vông; Xích đu lơ; Chi chi chành chành; Vè học chữ Nho.v.v. Cửu chín Thập mười Thiên trời Địa đất Nhơn người Phụ cha Mẫu mẹ… (Vè học chữ Nho) Hay: Một con cóc Trên nóc nhà Sa xuống chết Vật cho chết Vật cho chóc Bỏ xuống ao…. (Vè mười con cóc). Còn những chuyện kể về việc làng, chuyện xóm, như đã nói vè có tính chất khẩu báo, do tác giả dân gian sáng tác và truyền tụng rất rộng rãi nhằm phản ánh kịp thời các sự kiện trong cuộc sống hằng ngày của xóm, ấp, địa phương, dân tộc. Những bài vè thường có thái độ khen chê rõ ràng, dứt khoát và mạnh mẽ đối với những đối tượng được phản ánh, nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp, theo quan niệm 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2