intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ âm tiếng Ta Ôi (trên tư liệu tiếng Ta Ôi ở xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:172

41
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài có mục đích chỉ ra các đặc điểm của hệ thống ngữ âm tiếng Ta Ôi trên bình diện đồng đại (cụ thể là mô tả đặc điểm của từ âm vị học, hệ thống phụ âm đầu, hệ thống nguyên âm và hệ thống phụ âm cuối tiếng Ta Ôi ở xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế). Từ đó góp phần cung cấp một số hiểu biết về thứ tiếng này; đồng thời phục vụ cho việc dạy – học và sử dụng tiếng Ta Ôi trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong đời sống.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ âm tiếng Ta Ôi (trên tư liệu tiếng Ta Ôi ở xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế)

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRƯƠNG THỊ HỒNG GÁI NGỮ ÂM TIẾNG TA ÔI (TRÊN TƯ LIỆU TIẾNG TA ÔI Ở XÃ A ROÀNG, HUYỆN A LƯỚI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI, 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRƯƠNG THỊ HỒNG GÁI NGỮ ÂM TIẾNG TA ÔI (TRÊN TƯ LIỆU TIẾNG TA ÔI Ở XÃ A ROÀNG, HUYỆN A LƯỚI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ) Ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 8229020 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN LƯƠNG HÙNG HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan nghiên cứu này là của riêng tôi. Tôi không sao chép ở bất cứ công trình nào khác, mọi trích dẫn số liệu đầy đủ. Tác giả Trương Thị Hồng Gái
  4. LỜI CẢM ƠN Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Thầy Phan Lương Hùng – người đã trực tiếp hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong Khoa Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam đã giảng dạy cho tác giả luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến quỹ tài trợ Faro AS của Na Uy. Đặc biệt, xin cảm ơn vợ chồng Per và Guri, những người rất tốt bụng và tử tế đã thành lập ra quỹ học bổng và tài trợ cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn này. Xin cảm ơn Ban lãnh đạo Viện Ngôn ngữ học, PGS.TS Nguyễn Hữu Hoành chủ nhiệm đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu xác định thành phần ngôn ngữ các dân tộc thiểu số trong mối quan hệ với vấn đề xác định thành phần dân tộc”, tập thể phòng Nghiên cứu Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã hỗ trợ cho tôi học tập và thực hiện luận văn. Nhân đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn tới cán bộ và nhân dân xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, đặc biệt là các cộng tác viên người Tà Ôi đã giúp tôi sưu tập tư liệu cho luận văn này. Do hạn chế về thời gian và vốn kiến thức nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của các thầy cô và đồng nghiệp, để luận văn hoàn thiện hơn. Người thực hiện Trương Thị Hồng Gái
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TẾ ................................................................................ 8 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về tiếng Ta Ôi .................................... 8 1.2. Cơ sở lí thuyết và thực tế của đề tài ..................................................... 10 Chương 2.TỪ ÂM VỊ HỌC VÀ ÂM TIẾT TRONG TIẾNG TA ÔI....... 30 2.1. Đặc điểm chung về cấu trúc từ âm vị học tiếng Ta Ôi ........................ 30 2.2. Các loại âm tiết trong tiếng Ta Ôi ........................................................ 36 Chương 3. HỆ THỐNG ÂM VỊ TIẾNG TÀ ÔI ......................................... 45 3.1. Hệ thống âm đầu tiếng Tà Ôi ............................................................... 45 3.2. Hệ thống nguyên âm trong tiếng Tà Ôi ............................................... 53 3.3. Hệ thống phụ âm cuối trong tiếng Tà Ôi ............................................. 59 3.4. Khả năng kết hợp giữa các âm vị trong tiếng Tà Ôi ............................ 61 KẾT LUẬN .................................................................................................... 66 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 69 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 73
  6. DANH MỤC BẢNG, HÌNH Bảng 1.1:Bảng thống kê về số thôn và số hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn xã ......................................................................................................................... 12 Bảng 1.2: Bảng thống kê về số thôn và thành phần các dân tộc thiểu số trên địa bàn xã ........................................................................................................ 12 Bảng 2.3: So sánh giá trị trường độ hai dạng từ âm vị học ............................ 35 3.1. Bảng danh sách các phụ âm đầu tiếng Tà Ôi ........................................... 52 3.3: Bảng nguyên âm với phụ âm đầu đơn ..................................................... 62 3.4:Bảng kết hợp nguyên âm với tổ hợp phụ âm đầu ..................................... 62 3.5: Bảng kết hợp nguyên âm với phụ âm cuối và tổ hợp phụ âm cuối ......... 63 Hình 2.1: Sóng âm, phổ đồ của từ âm vị học dạng1 trong từ [hit] (gió) ........ 34 Hình 2.2: Sóng âm, phổ và cường độ từ âm vị học dạng 2 trong từ ............... 35 [bɤrɯɤŋ] (hang) .............................................................................................. 35
  7. QUY ƯỚC TRONG VIỆC TRÌNH BÀY 1. Luận văn sử dụng cách phiên âm quốc tế IPA (The International Phonetic Alphabet) để ghi tiếng Ta Ôi 2. Kí hiệu “ngoặc vuông” [ ] chỉ nội dung bên trong ngoặc có giá trị ngữ âm học 3. Kí hiệu “gạch chéo” / / chỉ nội dung bên trong gạch có giá trị âm vị học 4. Kí hiệu “hai chấm” (: ) chỉ sau dấu này là nghĩa tương ứng trong tiếng Việt
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là quốc gia đa ngôn ngữ đa dân tộc với dân tộc Kinh chiếm đa số và 53 dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc (ethnic) có thể bao gồm nhiều nhóm tộc người (nhóm địa phương) khác nhau với các đặc điểm về văn hóa vật thể, cũng như văn hóa phi vật thể (phong tục tập quán, văn hóa dân gian...) khác nhau. Ngôn ngữ là phương tiện của hoạt động tư duy, giao tiếp, là thành tố quan trọng của văn hóa và cũng là một tiêu chí cơ bản để xác định thành phần dân tộc. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Ta Ôi có dân số 43.886 người, sinh sống tại 39 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Người Ta Ôi cư trú tập trung tại các tỉnh Thừa Thiên Huế, đặc biệt là huyện A Lưới (29.558 người, chiếm 67,35%), Quảng Trị (13.961 người, chiếm 31,81%)... Theo các tài liệu dân tộc học, người Tà Ôi có ba nhóm địa phương là Ta Ôi, Pa Cô và Pa Hy. Tuy nhiên theo tình hình thực tế ghi nhận được thì ba cộng đồng người này tự nhận mình là những nhóm tộc người khác nhau. Người Ta Ôi hiện đang cư trú chủ yếu ở Thừa Thiên Huế, huyện A Lưới với 866 hộ và 3576 khẩu. Tỉ lệ số hộ và khẩu của người Ta Ôi ở A Ngo chiếm số lượng đông nhất với 703 hộ và 3062 khẩu. Theo các nhà nghiên cứu, tiếng Ta Ôi thuộc nhánh Cơ tu - Bru (Katuic), chi Mon - Khmer của ngữ hệ Nam Á, có quan hệ rất gần với tiếng nói của các dân tộc Bru- Vân Kiều và Cơ tu [1]. Về mặt loại hình, tiếng Ta Ôi là một ngôn ngữ đơn lập. Tiếng Ta Ôi là tiếng mẹ đẻ, là ngôn ngữ thứ nhất của người Ta Ôi. Đối với mỗi người Ta Ôi thì đây là công cụ giao tiếp và là công cụ tư duy quan trọng nhất. Không những thế, tiếng Ta Ôi cùng với nền văn hóa truyền thống giàu bản sắc dân tộc của dân tộc này đã góp phần làm phong phú và đa dạng hơn nữa cho vườn hoa nhiều màu sắc trong nền văn 1
  9. hóa chung của đất nước. Làm thế nào để bảo tồn và phát triển ngôn ngữ này, trong xu hướng mai một ngôn ngữ của nhiều dân tộc thiểu số hiện nay ở Việt Nam? Vấn đề dân tộc và ngôn ngữ các dân tộc thiểu số luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm từ rất sớm, bởi vì nó liên quan đến việc hoạch định các chính sách về chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt là vấn đề bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc nhằm phát triển bền vững đất nước trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập với thế giới. Tuy nhiên, để có thể đưa ra những chính sách hợp lý, hiệu quả thì việc nghiên cứu văn hóa, ngôn ngữ là một việc làm tất yếu và phải đi trước một bước. Tuy nhiên, tùy từng ngôn ngữ mà phải có những hướng tiếp cận và mục tiêu nghiên cứu khác nhau. Điều này có thể nói rằng: Việc nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc …có tầm quan trọng riêng về mặt khoa học cũng như về mặt chính trị, văn hóa và xã hội. Hiện nay đang có một số nhu cầu nảy sinh trong thực tế, chủ yếu thuộc các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, truyền thông. Đó là: nhu cầu của người dân thuộc các cộng đồng nói tiếng Ta Ôi trong việc học tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt, đặc biệt là học sinh các cộng đồng này khi học tiếng Việt và học bằng tiếng Việt; nhu cầu của cán bộ chiến sĩ công tác ở vùng các cộng đồng nói tiếng Ta Ôi trong việc tra cứu để nắm được và sử dụng được tiếng của đồng bào trong thực tế công tác (theo tinh thần Chỉ thị 38/2004/CT-TTg); nhu cầu sử dụng tiếng Ta Ôi trong thông tin tuyên truyền, văn nghệ; nhu cầu bảo tồn tiếng nói chữ viết của cộng đồng Ta Ôi, cùng việc sưu tầm, biên dịch các áng văn nghệ dân gian (truyện cổ, dân ca, sử thi, thành ngữ tục ngữ, luật tục...) bằng tiếng nói và chữ viết Tà Ôi như bảo tồn những nét bản sắc trong văn hóa truyền thống của dân tộc này, trước sự tiếp biến văn hóa ồ ạt và xu 2
  10. hướng toàn cầu hóa hiện nay. Các nhu cầu trên có thể được đáp ứng một phần nhờ những nghiên cứu nhiều mặt, trong đó có ngữ âm Ta Ôi. Trong số các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tiếng Ta Ôi được quan tâm từ lâu, song xung quanh nó vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tiếng Ta Ôi gắn liền với những tên tuổi: Richard Watson và Cubuat (1969) Nguyễn Văn Lợi (1985), Đoàn Văn Phúc (2002)..., nhưng cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu riêng biệt và sâu sắc về ngữ âm tiếng Ta Ôi ở địa bàn xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. Do đó đây có thể coi là một đề tài mới, có ý nghĩa về mặt lí luận nghiên cứu khoa học cũng như mặt thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu lien quan đến đề tài Số lượng các công trình nghiên cứu về tiếng Ta Ôi được các nhà nghiên cứu ngoài nước tiến hành còn rất hạn chế. Các nhà nghiên cứu nước ngoài đến với tiếng Ta Ôi chủ yếu là của Viện Ngôn ngữ học Mùa hè Mỹ (The Summer Institute of Linguistics (SIL). Chữ của những người Pa Cô - Ta Ôi đã được tổ chức SIL (The Summer Institute of Linguistics - Viện Ngữ học mùa hè) chế tác ra vào khoảng những năm 60 của thế kỉ XX. Bên cạnh đó, cũng đã có một số công trình nghiên cứu về tiếng Pa Cô - Ta Ôi ở bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Mối quan tâm của các nhà nghiên cứu ngoài nước chủ yếu dành cho tiếng Pa Cô. Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam mới nghiên cứu tiếng Ta Ôi trong mấy chục năm gần đây (đặc biệt sau năm 1975). Ngoài ra, còn có một số công trình, về tiếng Bru - Vân Kiều, Cơ tu..., các ngôn ngữ có liên quan và rất gần với tiếng Ta Ôi, của các tác giả Vương Hữu Lễ, Tạ Văn Thông, Hoàng Văn Ma, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Hữu Hoành... Nhìn lại các công trình nghiên cứu về tiếng Pa Cô - Ta Ôi hoặc có liên quan đến tiếng Tà Ôi, ta có thể đưa ra một số nhận xét như sau: 3
  11. - Các nhà khoa học nước ngoài tập trung chú ý chủ yếu vào tiếng Pa Cô (Pakóh). Tiếng Ta Ôi ít được nghiên cứu. Mặt phương ngữ hầu như chưa ai nói đến. Các nhà khoa học Việt Nam thường sử dụng tên gọi chung của dân tộc Ta Ôi (Ta-ôih) để gọi cả tiếng Pa Cô và Ta Ôi. - Các tác giả đi trước đã có một số nghiên cứu cơ bản về tiếng Pa Cô - Ta Ôi. Có một số nghiên cứu mang tính ứng dụng: sách hướng dẫn giảng dạy, sách học tiếng, từ điển đối dịch. Mặt từ vựng – ngữ nghĩa đã được chú ý và có nhiều kết quả. Tuy nhiên, những công trình thuộc loại nghiên cứu cơ bản về tiếng Pa Cô - Ta Ôi không nhiều lắm và chưa mang đến được một cái nhìn toàn diện về mặt ngữ âm của tiếng nói các cộng đồng này. Tuy nhiên, cho đến nay trên thế giới chưa có công trình nghiên cứu nào mô tả về hệ thống ngữ âm tiếng Ta Ôi ở xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài có mục đích chỉ ra các đặc điểm của hệ thống ngữ âm tiếng Ta Ôi trên bình diện đồng đại (cụ thể là mô tả đặc điểm của từ âm vị học, hệ thống phụ âm đầu, hệ thống nguyên âm và hệ thống phụ âm cuối tiếng Ta Ôi ở xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế). Từ đó góp phần cung cấp một số hiểu biết về thứ tiếng này; đồng thời phục vụ cho việc dạy – học và sử dụng tiếng Ta Ôi trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong đời sống. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.2.1. Xây dựng cơ sở lí thuyết của luận văn 3.2.2. Miêu tả đặc điểm từ âm vị học và âm tiết tiếng Ta Ôi (trên tư liệu tiếng Ta Ôi ở xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế). 3.2.3. Miêu tả đặc điểm hệ thống phụ âm tiếng Tà Ôi (trên tư liệu tiếng Ta Ôi ở xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế). 4
  12. 3.2.4. Miêu tả đặc điểm hệ thống nguyên âm tiếng Ta Ôi (trên tư liệu tiếng Ta Ôi ở xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế). 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống ngữ âm tiếng Ta Ôi dựa trên tư liệu tiếng Ta Ôi ở thôn A Ka, xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế trên bình diện đồng đại. 4.2. Phạm vi nghiên cứu và tư liệu nghiên cứu Khi nghiên cứu về một ngôn ngữ nào đó ta có thể tiếp cận nó từ nhiều phương diện khác nhau: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, ngữ dụng hay vị thế, chức năng, thái độ của người bản ngữ đối với ngôn ngữ đó trên phạm vi hẹp ở một thôn hay phạm vi rộng trên địa bàn một hay nhiều tỉnh, quốc gia.Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian nên luận văn chỉ tiến hành tìm hiểu ngữ âm tiếng Ta Ôi tại xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế trên bình diện đồng đại. Tư liệu nghiên cứu của luận văn này bao gồm 2000 từ cơ bản tiếng Ta Ôi được phiên âm quốc tế và ghi âm kĩ thuật số dưới dạng file.wav. Cộng tác viên cung cấp tư liệu là anh Viên Xuân Danh, sinh năm 1979, trình độ đại học, là phó chủ tịch ủy ban nhân dân xã A Roàng, hiện trú tại thôn A Ka, xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế và chị Blúp Thị Non, sinh năm 1979, trình độ văn hóa 12/12, hiện trú tại thôn A Ka. Bên cạnh đó, luận văn cũng kế thừa những tư liệu và kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học là tổng thể những thủ pháp nghiên cứu ngôn ngữ được thống nhất bởi một diện nghiên cứu nhất định. Mỗi phương pháp nghiên cứu thường dựa trên một phương pháp luận nhất 5
  13. định. Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp, thủ pháp nghiên cứu chính sau: 5.1. Phương pháp điền dã ngôn ngữ học Chúng tôi đã đến địa bàn, tiếp cận trực tiếp với người bản ngữ để thu thập tư liệu. Vốn từ thu thập được lấy từ bảng từ chuyên dụng để nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số (khoảng 2000 từ) do GS.TS Nguyễn Văn Lợi và GS. M. Ferlus biên soạn. Bảng từ này bao gồm các vốn từ cơ bản thuộc các chủ đề khác nhau trong cuộc sống. Dựa vào đó, chúng tôi thu thập những từ tương đương trong tiếng Ta Ôi, rồi trực tiếp phiên âm lại theo bảng phiên âm quốc tế IPA. Sau đó, nhờ người bản ngữ đọc lại để ghi âm theo hình thức người điều tra đọc 1 lần từ tiếng Việt và tư liệu viên (người Ta Ôi) đọc lại 2 lần bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Về tư liệu viên chúng tôi lựa chọn 2 người bản ngữ, 1 nam và 1 nữ ở độ tuổi 40, thông thạo tiếng mẹ đẻ là tiếng Ta Ôi và tiếng Kinh, không có khiếm khuyết về bộ máy phát âm. 5.2. Phương pháp miêu tả Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được dùng trong luận văn này là phương pháp miêu tả đồng đại. Các thủ pháp nghiên cứu được áp dụng bao gồm: thủ pháp phân loại, hệ thống hóa tư liệu (thành các nhóm khác nhau trên cơ sở các phương thức cũng như loại "nguyên liệu" tham gia cấu tạo), thủ pháp đối lập, thủ pháp so sánh nhằm chỉ ra các đặc điểm của hệ thống ngữ âm; đồng thời xác lập hệ thống âm vị tiếng Ta Ôi. Các đặc tính ngữ âm của tiếng Ta Ôi chủ yếu được xác định bằng cảm nhận thính giác (khi nghe cộng tác viên phát âm) và cảm giác cơ thịt của các khí quan (khi tái tạo lại các âm) kết hợp với việc quan sát những cử động của bộ máy phát âm của cộng tác viên khi cấu âm. Sau đó, hệ thống âm vị được xác lập thông qua các thủ pháp thống kê, đối lập, hệ thống hóa. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sử dụng tham 6
  14. khảo một số phần mềm phân tích tiếng nói như Praat, Speech Analyzer để phân tích, minh họa một số hiện tượng ngữ âm tiếng Ta Ôi. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lí luận Về mặt lí luận, những kết quả nghiên cứu về ngữ âm tiếng Ta Ôi dựa trên tư liệu tiếng Ta Ôi tại xã A Roàng, huyện A Lưới, tình Thừa Thiên Huế sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn nữa diện mạo đồng đại của các ngôn ngữ thuộc tiểu chi Katuic, chi Môn- Khmer, ngữ hệ Nam Á. Bên cạnh đó việc mô tả các thổ ngữ Ta Ôi cũng góp phần cung cấp thêm tư liệu để làm rõ thêm những luận điểm về sự phát triển của ngôn ngữ, tiếp xúc ngôn ngữ, biến đổi ngôn ngữ. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Về ý nghĩa thực tiễn, những miêu tả về ngữ âm tiếng Ta Ôi dựa trên tư liệu tiếng Ta Ôi tại xã A Roàng trên bình diện đồng đại sẽ góp phần cung cấp và phổ biến những hiểu biết về ngôn ngữ này. Đồng thời, việc nghiên cứu ngữ âm tiếng Ta Ôi còn góp phần vào việc bảo tồn và phát huy tiếng nói chữ viết của người Ta Ôi. Ngoài ra, nó còn giúp cho người Ta Ôi và người các dân tộc khác thêm hiểu và sử dụng tốt hơn tiếng Ta Ôi trong đời sống xã hội ở vùng đồng bào Ta Ôi. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và Thư mục tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lí thuyết và thực tế. Chương 2: Từ âm vị học và âm tiết trong tiếng Ta Ôi. Chương 3: Hệ thống âm vị tiếng Ta Ôi. 7
  15. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TẾ 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về tiếng Ta Ôi 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Chữ viết Pa Cô - Ta Ôi đã do tổ chức SIL (The Summer Institute of Linguistics - Viện Ngữ học mùa hè) chế tác ra, vào khoảng những năm 60 của thế kỉ XX. Số lượng các công trình nghiên cứu về tiếng Ta Ôi được các nhà nghiên cứu ngoài nước tiến hành còn rất hạn chế. Các nhà nghiên cứu nước ngoài đến với tiếng Ta Ôi chủ yếu là của Viện Ngôn ngữ học Mùa hè Mỹ (The Summer Institute of Linguistics (SIL). Năm 1966, nhà nghiên cứu Saundra K. Watson có bài "Verbal affixation in Pacoh" (Phụ tố hóa động từ trong tiếng Pa Cô) [21]. Đến năm 1979, tác giả này cùng với các tác giả Richard Watson và Cubuat đã cho xuất bản cuốn "Pacoh Dictionary, Pacoh- Vietnamese- English" (Từ điển tiếng Pa cô, Pa cô - Việt - Anh) [21]. Gần đây, công trình "A grammar of Pacoh: a Mon-Khmer language of the central highland of Vietnam" (Ngữ pháp tiếng Pa cô: một ngôn ngữ thuộc Mon - Khmer ở cao nguyên miền Trung của Việt Nam) của Mark J.Alves được xuất bản ở Australia, trong đó có phần trình bày sơ lược về đặc điểm hình thái học tiếng Pa cô [21]... Đã có một số công trình nghiên cứu về tiếng Pa Cô - Tà Ôi ở bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Mối quan tâm của các nhà nghiên cứu ngoài nước chủ yếu dành cho tiếng Pa Cô. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam mới nghiên cứu tiếng Ta Ôi trong mấy chục năm gần đây (đặc biệt sau năm 1975). Có thể kể đến cuốn “Sách học 8
  16. tiếng Pakôh-Taôih” (1986); các bài báo “Về những đặc điểm của một ngôn ngữ đơn tiết trong tiếng Pakôh-Ta-ôih” (1986), “Về vị trí tiếng Ta-ôih trong nhóm ngôn ngữ Katu” (1986), của các tác giả Nguyễn Văn Lợi, Đoàn Văn Phúc, Phan Xuân Thành... Năm 2002 - 2003, các tác giả Nguyễn Văn Lợi, Tạ Văn Thông đã biên soạn các tài liệu “Hướng dẫn dạy kết hợp tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số” lớp 1 và lớp 2 ở vùng đồng bào Tà Ôi và Cơ tu Thừa Thiên Huế. Năm 2003, trong luận văn thạc sĩ “Đặc điểm cấu tạo từ tiếng Ta Ôi”, tác giả Nguyễn Thị Sửu đã bước đầu tìm hiểu về cấu tạo từ Tà Ôi, trên cơ sở cứ liệu ngôn ngữ của cộng đồng này ở thôn Parnghi, xã A Ngo. Sau đó, tác giả đã hoàn thành luận án tiến sĩ “Cấu tạo từ tiếng Tà Ôi (trong sự so sánh với tiếng Việt)”, bảo vệ thành công năm 2008. “Biên soạn Từ điển Việt – Pa Cô – Ta Ôi; Pa Cô – Ta Ôi - Việt” là một đề tài cấp Tỉnh được thực hiện trong sự hợp tác nghiên cứu khoa học giữa Sở Khoa học và Công nghệ (Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế) và Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam). Trên cơ sở tổng hợp những kết quả nghiên cứu đã có trong và ngoài nước về tiếng Pa Cô và Ta Ôi, kết hợp với những điều tra thu thập tư liệu tại chỗ, biên soạn một cuốn từ điển đối dịch đa ngữ có tên là: Từ điển Việt - Pa Cô - Ta Ôi, Pa Cô - Ta Ôi - Việt (khoảng 7. 000 mục từ; hoàn chỉnh để xuất bản). Đề tài đã hoàn thành và nghiệm thu năm 2016. Ngoài ra, còn có một số công trình, về tiếng Bru - Vân Kiều, Cơ tu..., các ngôn ngữ có liên quan và rất gần với tiếng Pa Cô - Ta Ôi, của các tác giả Vương Hữu Lễ, Tạ Văn Thông, Hoàng Văn Ma, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Hữu Hoành... Nhìn lại các công trình nghiên cứu về tiếng Pa Cô - Ta Ôi hoặc có liên quan đến tiếng Ta Ôi, có thể nhận xét: 9
  17. - Các nhà khoa học nước ngoài tập trung chú ý chủ yếu vào tiếng Pa Cô (Pakóh). Tiếng Ta Ôi ít được nghiên cứu. Mặt phương ngữ hầu như chưa ai nói đến. Các nhà khoa học Việt Nam thường sử dụng tên gọi chung của dân tộc Ta Ôi (Ta-ôih) để gọi cả tiếng Pa Cô và Ta Ôi. - Các tác giả đi trước đã có một số nghiên cứu cơ bản về tiếng Pa Cô - Ta Ôi. Có một số nghiên cứu mang tính ứng dụng: sách hướng dẫn giảng dạy, sách học tiếng, từ điển đối dịch. Mặt từ vựng – ngữ nghĩa đã được chú ý và có nhiều kết quả. Tuy nhiên, những công trình thuộc loại nghiên cứu cơ bản về tiếng Pa Cô - Ta Ôi không nhiều lắm và chưa mang đến được một cái nhìn toàn diện về mặt ngữ âm của tiếng nói các cộng đồng này. Tuy nhiên, cho đến nay trên thế giới chưa có công trình nghiên cứu nào mô tả về hệ thống ngữ âm tiếng Ta Ôi ở xã A Roàng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. 1.2. Cơ sở lí thuyết và thực tế của đề tài 1.2.1. Khái quát chung về người Ta Ôi và tiếng Ta Ôi 1.2.1.1.Khái quát chung về người Ta Ôi - Về địa bàn cư trú và các nhóm người Ta Ôi Người Ta Ôi có dân số: 43.886 người (2009), cư trú ở các tỉnh: Thừa Thiên Huế (huyện A Lưới), Quảng Trị (huyện Hướng Hoá, Đakrông). Dân tộc Ta Ôi còn gồm các nhóm địa phương: Ta Ôi, Pa Cô và Pa Hy. Sự phân biệt các nhóm trên gắn liền với một số điểm khác biệt về văn hoá, trong đó có ngôn ngữ. Tuy nhiên, khi xác định thành phần tộc người của dân tộc này, tên một nhóm trong số đó đã được lấy để làm tên chung là Ta Ôi. Tên gọi Ta Ôi có thể được hiểu để chỉ vùng cư trú trước đây là cao nguyên Ta Ôi của Lào; Pa Cô (còn được ghi là Pakoh, Pa-Cô...) có nghĩa là “phía núi, vùng núi”; Pa Hy (hay Ba Hi) có nghĩa là “phía dưới, vùng thấp”. 10
  18. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Ta Ôi ở Việt Nam có dân số khoảng 43.886 người, có mặt tại 39 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Ta Ôi cư trú tập trung tại các tỉnh Thừa Thiên Huế, đặc biệt là huyện A Lưới (29.558 người, chiếm 67,35%), Quảng Trị (13.961 người, chiếm 31,81%)... Tại Lào, người Tà Ôi sinh sống ở tỉnh Savannakhet. Người Ta Ôi có ba nhóm địa phương Ta Ôi, Pa Cô và Pa Hy. Theo danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam công bố năm 1979, Người Pa Cô, Pa Hy và Ta Ôi là các nhóm địa phương thuộc dân tộc Ta Ôi. Tuy nhiên, theo tình hình thực tế chúng tôi điều tra được thì họ tự nhận mình là những nhóm tộc người khác nhau. Hiện nay, ở vùng người Ta Ôi sinh sống còn có các dân tộc: Kinh, Bru - Vân Kiều, Cơ Tu... Trước đây người Ta Ôi sống quây quần thành từng làng (vil) riêng biệt, hiện nay ở nhiều làng họ đã sống xen kẽ với người các dân tộc khác, trong đó chủ yếu với người Kinh. Họ cũng thường xuyên đi lại sang Lào, vì có bà con họ hàng và quan hệ trao đổi buôn bán với nhiều người bên kia biên giới, trong đó chủ yếu với người các dân tộc thiểu số Lào. Người Ta Ôi chủ yếu sống tại các xã A Ngo, A Đớt, Nhâm, A Roàng huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. A Lưới là một thị trấn thuộc huyện A Lưới - huyện miền núi biên giới phía Tây của tỉnh Thừa Thiên Huế. Địa bàn này là căn cứ địa cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Thị trấn có diện tích 13,55 km2với số dân 5019 người, mật độ dân số đạt 370 người/km2.. Theo số liệu của phòng thống kê huyện A Lưới năm 2018, A Roàng là một trong những xã có số lượng người Ta Ôi khá đông. Tổng dân số: 678 hộ/2.840 khẩu, trong đó: Nam: 1.414 người; Toàn xã có 7 hộ người Kinh với 29 khẩu; Cơ tu: 54 hộ/246 khẩu, Dân tộc Mường: 03 hộ/10 khẩu; Dân tộc BaNa: 01 hộ/03 khẩu; Dân tộc Tày: 05 khẩu; Tà ôi: 611 hộ/2.523 khẩu, Dân 11
  19. tộc Pa Cô với 24 khẩu; Toàn xã có 1.798 lao động.Tình hình đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện đáng kể, đói nghèo giảm dần, gia đình làm ăn khá giỏi ngày càng được phát triển, các chính sách xã hội được chú ý quan tâm. Dựa vào bảng thống kê sau chúng ta có thể thấy rõ điều đó. Dân số Hộ nghèo Hộ cận chung STT Tên thôn Lao Dân tộc DTTS DTTS Hộ Khẩu Nam kinh động Hộ Khẩu Hộ Khẩu Hộ Khẩu 1 2 3 4 5 6 7 8 1 A Chi - Hương Sơn 102 423 13 283 16 57 18 75 2 A Ka 128 530 289 34 39 156 29 117 3 Ka Lô 72 311 160 208 11 42 17 83 4 A Roàng 1 104 425 220 187 35 137 27 114 A Roàng 2 74 308 150 187 9 34 1 94 6 Ka Rôông - A Ho 101 452 212 269 41 168 16 74 7 A Min - C9 101 411 215 260 18 65 37 167 Tổng cộng 682 2860 1459 1739 169 659 165 724 Bảng 1.1:Bảng thống kê về số thôn và số hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn xã Thành phần Dân tộc thiểu số Dân tộc DT DT DT Tày kinh Mường BANA Pa Cô Tà Ôi Cơ Tu Hộ Khẩu Hộ Khẩu Hộ Khẩu Hộ Khẩu Hộ Khẩu Hộ Khẩu Hộ Khẩu Hộ Khẩu 11 12 13 14 15 16 17 1 23 24 25 26 27 28 29 30 102 423 0 5 47 202 55 214 trừ 2 127 526 0 4 127 514 0 8 1 4 72 311 0 2 71 303 0 3 1 3 104 425 0 5 102 11 0 2 1 4 1 3 72 302 0 3 72 291 0 8 2 6 98 439 0 3 97 427 0 3 3 13 1 3 0 3 100 405 0 2 101 397 0 1 6 675 2831 0 24 617 2545 55 244 7 29 3 10 0 5 1 3 Bảng 1.2: Bảng thống kê về số thôn và thành phần các dân tộc thiểu số trên địa bàn xã 12
  20. - Về vấn đề tên gọi của người Ta Ôi Tà Ôi là tên chính thức của một dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Người Ta Ôi có tên tự gọi là Ta Ôih [ta oih], với các biến thể Ta Uôs [taɂuəs] Ta ôs [taɂos]. Trong các tài liệu khác nhau và trong giao tiếp xã hội, tên dân tộc này còn được đọc và ghi: Ta Ôi, Ta-ôi, Ta-ôih, Tà Ôih, Taos, Ta- uôih, Ta-uôt, Taôih, Pa Cô-Tà Ôi… Trong ngôn ngữ Ta Ôi, từ Ta Ôih [ta ɂoih] hay Ta ôs [taɂos] (tiếng Ta Ôi) có nghĩa “đeo khuyên tai, làm căng tai”. Đây là tên của dân tộc này dùng để phân biệt với người Kinh và người các dân tộc thiểu số khác. - Một số đặc điểm văn hóa của người Ta Ôi Làng người Tà Ôi theo truyền thống thường có một ngôi nhà công cộng kiểu nhà rông dựng giữa làng: có vùng lại chỉ có ngôi "nhà ma" dựng ngoài rìa khu gia cư để hội tụ dân làng khi có lễ hội và sinh hoạt chung. Về hôn nhân thanh niên nam nữ Ta Ôi tự do tìm hiểu nhau qua tục đi "sim" tình tự nơi chòi rẫy. Họ trao vật làm tin cho nhau, rồi nhà trai nhờ người mai mối. Sau lễ cưới, cô dâu trở thành người nhà chồng. Việc kết hôn giữa con trai cô với con gái cậu được khuyến khích, nhưng nếu trai họ A đã lấy vợ ở họ B, thì trai họ B không được làm rể họ A mà phải tìm vợ ở họ C Người Ta Ôi có tục người chết được vài năm, dòng họ sẽ tổ chức cải táng, lúc này mới làm nhà mồ đẹp, trang trí công phu và dựng tượng quanh bờ rào mồ. Nhà ở của người Ta Ôi là nhà sàn dài. Nhìn bề ngoài, nhà Ta Ôi kể cả nhà sàn và nhà đất đều có mô hình mai rùa và đều có "sừng" trang trí hình hai đầu chim cu tượng trưng cho tình yêu quê hương và tâm tính hiền hòa của dân tộc. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2