intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

65
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử; Thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ tỉnh Thanh Hóa; Giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ tỉnh Thanh Hóa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRƯƠNG THỊ QUỲNH BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG HÀ NỘI, năm 2021 1
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN .......................11 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và nội dung của nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân..............................................................................11 1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ......................................................................19 1.3. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân theo pháp luật của một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .............32 Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ TỈNH THANH HÓA .................................................32 2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân..............................................................................32 2.2. Thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử các loại án của Tòa án nhân dân từ tỉnh Thanh Hóa ..........................................................................................................45 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ TỈNH THANH HÓA ...............................................................................................63 3.1. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Tòa án nhân dân .....63 3.2.Các giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân……………………………………………………………………………70 KẾT LUẬN ..............................................................................................................86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 2
  3. DANH MỤC TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự BLDS: Bộ luật dân sự BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự BLTTHC: Bộ luật tố tụng hành chính. TAND: Tòa án nhân dân VKSND: Viện kiểm sát nhân dân HĐXX: Hội đồng xét xử HTND: Hội thẩm nhân dân KSV: Kiểm sát viên CMCN4.0: Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 CNTT: Công nghệ thông tin 3
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tranh tụng đã được thừa nhận trên phạm vi toàn cầu và được ghi nhận tại Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên Hợp quốc. Theo đó, “Mọi người đều có quyền hoàn toàn ngang nhau được phát biểu bình đẳng và công khai trước Tòa án độc lập và không thiên vị, nơi quyết định các quyền và nghĩa vụ của mình hoặc về việc buộc tội mình có cơ sở trước Tòa Tranh tụng tại phiên toà xét xử là nội dung có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng của Tòa án, là yêu cầu cấp bách bảo đảm tính khách quan, công bằng, dân chủ, là căn cứ để xác định sự thật vụ án và là cơ sở để Hội đồng xét xử ra bản án khách quan, công bằng, đúng lẽ phải và đúng pháp luật. Ở Việt Nam, nhằm hướng đến xây dựng một nền tư pháp dân chủ, tiến bộ, thì bảo đảm tranh tụng trong xét xử là một trong những mục tiêu quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp mà Bộ chính trị đã đề ra. Xác định tầm quan trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, tranh tụng được ghi nhận là một nguyên tắc và phải được bảo đảm trong xét xử. Tuy nhiên, do mô hình tố tụng ở nước ta về cơ bản là mô hình tố tụng xét hỏi nên việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân chưa thực sự được coi trọng đúng mức trên cả phương diện lý luận, xây dựng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Về mặt lý luận, hiện còn nhiều quan điểm khác nhau về tranh tụng, có quan điểm cho rằng đối với mô hình tố tụng ở Việt Nam hiện nay, tranh tụng là một nguyên tắc, cũng có quan điểm cho rằng tranh tụng là một mô hình tố tụng hay một thủ tục trong tố tụng. Chính vì về mặt lý luận còn chưa thống nhất đó đã ảnh hưởng ít nhiều đến việc bảo đảm tranh tụng. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu những biện pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân được áp dụng có hiệu quả cao nhất cũng góp phần bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước ta. Với những lý do trên, thì việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” là yêu cầu có tính khách quan, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 1
  5. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là một vấn đề còn khá mới mẻ đối với lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam. Trước đây, có quan điểm cho rằng tranh tụng là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng hình sự tư sản nên vấn đề này không được áp dụng trong tổ chức và hoạt động tư pháp ở nước ta. Theo đó mà trước năm 2013, các công trình nghiên cứu về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng còn hạn chế, chủ yếu là các công trình nghiên cứu về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự như: - Nguyễn Mạnh Kháng “Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng” - Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2013: tác giả đã phân tích bản chất của tranh tụng và những ưu điểm, hạn chế của nó. Đồng thời, phân tích các điều kiện để đảm bảo tranh tụng và khả năng vận dụng tranh tụng trong tình hình nước ta cũng như hệ quả của việc vận dụng này. - Trần Văn Độ (2004), “Bản chất tranh tụng tại phiên toà”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 4: tác giả cho rằng phiên tòa là giai đoạn trung tâm thể hiện đầy đủ nhất bản chất quá trình tố tụng nói chung và xét xử nói riêng, do đó, việc nghiên cứu xây dựng một hệ thống tố tụng tranh tụng hay hệ thống tố tụng khác có các yếu tố tranh tụng phải được xuất phát trước tiên từ vấn đề tranh tụng tại phiên tòa. Từ đó, tác giả phân tích nội dung tranh tụng tại phiên tòa trong các hệ thống tố tụng khác nhau và đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo cho nguyên tắc tranh tụng được thực hiện đầy đủ trong tố tụng. - Nguyễn Thái Phúc (2018), “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8: bài viết nêu quan điểm về khái niệm “tranh tụng” dưới các góc độ khác nhau. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp tăng cường tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta theo yêu cầu của cải cách tư pháp. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Đại học Luật Hà Nội “Tranh tụng trong tố tụng dân sự ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà năm 2011. Nội dung đề tài tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về tranh tụng trong TTDS như khái niệm, đặc điểm, bản chất, chủ thể tham gia tranh tụng, phạm vi tranh tụng trong TTDS và đánh giá các quy định của pháp luật 2
  6. TTDS về tranh tụng. Qua thực tiễn xét xử của Tòa án tác giả đã đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng. Mặc dù tác giả đã có quan điểm coi tranh tụng là nguyên tắc của TTDS nhưng đề tài được thực hiện dựa trên các quy định của BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011. - Bài viết “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” của tác giả Bùi Thị Huyền trên tạp chí Luật học, số 4/2016. Bài viết đã phân tích các quy định của BLTTDS theo hướng bảo đảm tranh tụng, cụ thể: các quy định về thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự; quy định về việc thông báo chứng cứ của vụ việc cho nhau giữa các đương sự; quy định về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và quy định về phiên tòa sơ thẩm theo hướng bảo đảm tranh tụng, đề cao vai trò của các bên đương sự trong quá trình tranh tụng tại Tòa án. Mục đích bài viết của tác giả Bùi Thị Huyền đưa ra các đề xuất nhằm hướng dẫn các quy định của BLTTDS năm 2015 về bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Tuy nhiên, bài viết thực hiện năm 2016 khi mà BLTTDS năm 2015 chưa có hiệu lực thi hành, chưa được áp dụng trên thực tế nên tác giả chưa thể nêu ra những vướng mắc, khó khăn nhất định khi áp dụng BLTTDS năm 2015. - Luận văn thạc sỹ luật học với đề tài “Tranh tụng trong tố tụng hành chính ở Việt Nam- lý luận và thực tiễn”, tác giả Nguyễn Việt Nam bảo vệ năm 2013 tại trường đại học luật Hà Nội. Tác giả đã phân tích và đưa ra những nhận định về tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính, đưa ra được khái niệm, đặc điểm, phạm vi tranh tụng trong tố tụng hành chính và đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng và các lý do để tranh tụng trở thành nguyên tắc của luật tố tụng hành chính. - Bài viết “Hiểu đúng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính” của thạc sỹ Phạm Công Minh, Viện kiểm sát cấp cao 3, đăng trên website Kiemsat.vn ngày 10 tháng 8 năm 2016, đã chỉ ra được chủ thể, phạm vi, nội dung, phương pháp và biểu hiện của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính để cho các cán bộ kiểm sát hiểu rõ và áp dụng thực hiện trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính tại Toà án. Ngoài ra, các nghiên cứu về lý luận và thực tiễn tranh tụng với cách nhìn ở các góc độ khác nhau, thể hiện trên các bài báo, tạp chí, có thể kể như bài:“Một số vấn đề về mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức năng xét xử 3
  7. của Toà án trong bối cảnh cải cách tư pháp”, Nguyễn Trương Tín, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2018. Hiến pháp 2013 ghi nhận “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”, đã có nhiều các bài viết về nguyên tắc tranh tụng như:“Vấn đề áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Nguyễn Thanh Bình, Tạp chí Nghề Luật, số 10/2015; “Thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử bảo đảm tinh thần Hiến pháp 2013”, Phạm Văn Tuyên, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1/2016; “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự”, Mai Bộ, Tòa án nhân dân tối cao năm 2014. Với các công trình trên, khi nghiên cứu đề tài “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hoá”, tác giả có thuận lợi được tham khảo khá nhiều nguồn tài liệu. Tuy nhiên, tình hình nghiên cứu cho thấy, các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu về hoạt động “tranh tụng” và nội hàm “nguyên tắc tranh tụng”. Do đó, việc nghiên cứu các biện pháp bảo đảm cho nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vẫn rất cần thiết, góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và đề ra những giải pháp đảm bảo nguyên tắc này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân và phân tích thực trạng thực hiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, đề tài đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu là: - Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân; - Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn bảo đảm nguyên tắc tranh tụng từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa; - Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. 4
  8. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu vấn đề bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử trên phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn tranh tụng trong giai đoạn xét xử từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Tranh tụng trong hoạt động xét xử là vấn đề có phạm vi nghiên cứu rất rộng. Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài, tác giả chỉ nghiên cứu vấn đề bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử từ góc độ Tòa án nhân dân, góc độ tiếp cận nghiên cứu có tính khái quát các lĩnh vực pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân sự và hành chính của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2016 - 2020. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về nhà nước pháp quyền, cải cách pháp luật, cải cách bộ máy nhà nước nói chung, cải cách tư pháp và thủ tục tư pháp nói riêng. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa, phương pháp tổng hợp để tổng hợp những vấn đề nghiên cứu nhằm đưa ra những nhận định và kết luận chung. Phương pháp thống kê được sử dụng để thống kê số liệu trong thực tiễn xét xử liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa làm cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, kết luận và đề xuất các biện pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử từ góc độ Tòa án nhân dân. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Với mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận văn góp phần bổ sung lý luận về cải cách tư pháp mà trọng tâm là nâng cao chất lượng xét xử, bổ sung hoàn thiện lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử từ góc độ Tòa án nhân dân. Về mặt thực tiễn, luận văn đóng góp vào việc tìm ra những hạn chế trong thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật, qua đó, đưa ra 5
  9. những giải pháp có tính khả thi giúp nâng cao chất lượng bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử từ góc độ Tòa án nhân dân. 7. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử; Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ tỉnh Thanh Hóa; Chương 3: Giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ tỉnh Thanh Hóa 6
  10. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và nội dung của nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân 1.1.1. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân Hoạt động xét xử của TAND với tư cách là khâu trung tâm của hoạt động tư pháp (theo nghĩa rộng) nhằm giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, hành chính. Tuy là khâu trung tâm, có ý nghĩa quyết định trong quá trình giải quyết một vụ án, nhưng để TAND có thể xét xử được thì cần phải có hàng loạt những hoạt động tố tụng trước đó. Các giai đoạn tố tụng có mối liên hệ gắn bó hữu cơ thống nhất với nhau và đều dẫn đến kết quả tạo cơ sở cho khâu cuối cùng là việc Tòa án đưa ra phán quyết một cách khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Vì vậy, tồn tại những tư tưởng có tính định hướng, chỉ đạo chung cho toàn bộ quá trình hoạt động tố tụng, cho việc tổ chức và hoạt động của TAND. Đó cũng chính là các nguyên tắc pháp lý, mà tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là một trong những nguyên tắc như vậy. Mặc dù được sử dụng và nhắc đến rất phổ biến trong thời gian gần đây nhưng hiện nay, chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể định nghĩa về “tranh tụng”. Thuật ngữ tranh tụng lại được nhắc tới trong nhiều văn bản của Đảng, các tài liệu Hội thảo và được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau trong cả thực tiễn và khoa học pháp lý. Về mặt ngôn ngữ, theo từ điển tiếng Việt, tranh tụng có nghĩa là kiện tụng hay là sự kiện cáo lẫn nhau giữa hai bên, bên nguyên đơn và bên bị đơn có lập trường tương phản được đưa ra để yêu cầu Toà án phân xử. Theo Hán Việt từ điển giải thích “tranh tụng có nghĩa là cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy phải”1 thuật ngữ “tranh tụng” được ghép từ hai từ “tranh luận” và “tố tụng”, như vậy, có thể hiểu tranh tụng là tranh luận trong tố tụng hay được hiểu 1 Nguyễn Lân, Từ điển Từ và Ngữ Hán - Việt, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2002 tr.621. 7
  11. thông thường là việc từng bên đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại, bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm của phía bên kia. Các quan điểm này mặc dù đã thể hiện được một số đặc trưng cơ bản của hoạt động tranh tụng nhưng chỉ thể hiện được tranh tụng là hoạt động riêng lẻ mà chưa thể hiện được sự thống nhất, gắn bó hữu cơ giữa nguyên tắc tranh tụng được quy định trong hiến pháp và các bộ luật quy định cho từng lĩnh vực cụ thể. Tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động của Tòa án, xét xử là hoạt động phân xử vụ kiện giữa các bên có quyền và lợi ích khác nhau. Tòa án tiến hành xác định sự thật khách quan của vụ án tại phiên toà bằng cách điều tra công khai, chính thức về vụ việc, nghe các bên tranh luận bảo vệ quan điểm của mình, xem xét vụ án từ góc độ nội dung đến pháp luật áp dụng để ra phán quyết. Tuỳ theo từng loại vụ án mà quyền tranh tụng, địa vị pháp lý của các bên cũng khác nhau như: tranh tụng trong tố tụng hình sự, tranh tụng trong tố tụng dân sự, tranh tụng trong tố tụng hành chính,... Tuy nhiên, Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ chính trị đã phân biệt hai thuật ngữ “tranh tụng” và “tranh luận”. Tranh tụng là một quá trình còn tranh luận chỉ là một thủ tục độc lập của phiên toà xét xử - phần thể hiện điển hình nhất của quá trình tranh tụng mà Tòa án là trung tâm, đóng vai trò là trọng tài điều khiển và đưa ra phán quyết về kết quả đấu tranh pháp lý giữa các bên. Tranh tụng là con đường đi đến chân lý, sự thật khách quan của vụ án một cách công bằng, dân chủ và hợp pháp, tránh được lối dùng quyền lực hay sức mạnh của nhà nước áp đặt một cách chủ quan, duy ý chí, bất công và do vậy không bảo đảm được công lý. Từ việc phân tích các quan điểm trên có thể nêu khái niệm chung: tranh tụng là việc hai bên đưa ra các quan điểm, lập luận riêng của mình và tranh luận, bác bỏ một phần hoặc toàn bộ quan điểm của bên kia nhằm bảo vệ quan điểm của mình dưới sự giám sát của Tòa án và Tòa án đưa ra phán quyết dựa trên kết quả của quá trình tranh tụng đó. Như vậy, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được hiểu là tư tưởng chủ đạo, định hướng cho việc xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật về việc trình bày quan điểm, tranh luận pháp lý giữa các bên trong hoạt động tố tụng nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án một cách dân chủ, công bằng, bảo đảm công lý. 8
  12. 1.1.2. Đặc điểm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là một trong những nguyên tắc hiến định về tổ chức và hoạt động của TAND: Tòa án đóng vai trò như một vị trọng tài độc lập giữa các bên, xem xét khách quan các tài liệu, chứng cứ, căn cứ vào hoạt động tranh tụng và đặc biệt là kết quả của hoạt động này, xem như cốt lõi, để ra bản án, quyết định việc có tội hay không có tội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Do có vai trò quan trọng như vậy, hoạt động tranh tụng cần được bảo đảm thực hiện không chỉ ở bất kì lĩnh vực pháp luật tố tụng cụ thể, mà cần phải có sự thống nhất hữu cơ giữa các lĩnh vực khác nhau, đóng vai trò là tư tưởng chủ đạo, định hướng toàn bộ vấn đề tổ chức và hoạt động xét xử tại TAND. Tư tưởng trên được xem là một trong những điểm mới tích cực của Hiến pháp năm 2013, cụ thể hóa qua các điều luật trong từng lĩnh vực pháp luật cụ thể: Điều 18 Luật tố tụng hành chính; Điều 24 Bộ luật tố tụng Dân sự và Điều 26 Bộ luật tố tụng Hình sự. Đặc điểm này quyết định một trong những vai trò quan trọng của nguyên tắc (sẽ được phân tích ở phần sau). Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm có mối liên hệ hữu cơ gắn bó trong hệ thống các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân: Nguyên tắc độc lập của tòa án: Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Đây là nguyên tắc được đánh giá là quan trọng bậc nhất. Nguồn gốc của nó được bắt nguồn học thuyết “Phân quyền” của Montesquieu và nhu cầu phải xét xử công bằng chỉ dựa theo các quy định của pháp luật khi nó ngày càng lấn sâu vào mọi lĩnh vực của xã hội. Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” Montesquieu đã viết: “Khi quyền lập pháp được sát nhập với quyền hành pháp và tập trung vào trong một người hay một tập đoàn thì sẽ không có tự do được bởi vì người ta có thể sợ rằng chính nhà Vua hay Nghị viện ấy sẽ làm những đạo luật độc đoán để thi hành một cách độc đoán..”2. 2 Phạm Ngọc Minh, “Những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân” (24/07/2017), luatviet.co tại địa chỉ: http://luatviet.co/nhung-nguyen-tac-chu-yeu-ve-to-chuc-va-hoat-dong-cua-toa-an- nhan-dan/n20170524045758484.html truy cập ngày 30/07/2018 9
  13. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số: Hoạt động xét xử mang bản chất là sự trừng phạt đối với những cá nhân, tập thể vượt qua hành lang quy định của pháp luật, răn đe các chủ thể khác và bảo vệ hệ thống Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kết quả của hoạt động này, bản án sẽ quyết định số phận của cá nhân, tập thể, quyền và lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng trực tiếp đến thân nhân họ và xã hội nên cần phải xem xét một cách kĩ lưỡng, thận trọng, tránh để yếu tố chủ quan chi phối. Vì vậy, việc xét xử cần có sự phối hợp, đồng thuận của cả hội đồng xét xử, tập hợp trí tuệ tập thể. Theo quy định tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, Hội đồng xét xử cần có ít nhất ba người trở lên và phải là số lẻ, do Chánh án quyết định. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo:“Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm” (khoản 7 Điều 103 Hiến pháp năm 2013). Cũng như các nguyên tắc khác, nguyên tắc này được quy định cũng góp phần củng cố thêm tính dân chủ, khách quan và chính xác của Tòa án trong hoạt động xét xử. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm luôn có sự thống nhất hữu cơ với các nguyên tắc khác về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Nó không nằm riêng rẽ, biệt lập với các nguyên tắc khác mà luôn có sự tác động qua lại, phối kết hợp nhằm một mục đích duy nhất là đảm bảo sự công bằng, bình đẳng của người dân trước pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, xây dựng một nền tư pháp dân chủ tiến bộ. Nguyên tắc này có ảnh hưởng rất lớn tới bản chất của nền tư pháp nước nhà nhưng không khẳng định mô hình tố tụng nước ta hoàn toàn là mô hình tố tụng tranh tụng. - Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm thể hiện rõ ràng, mạch lạc các chức năng cơ bản, gắn với tư cách chủ thể của các bên trong hoạt động tố tụng: Trong tố tụng hình sự đó là các chức năng buộc tội (bên buộc tội); chức năng gỡ tội hay bào chữa (bên gỡ tội); chức năng xét xử (Tòa án). Trong các loại tố tụng phi hình sự, đó là các bên: bên nguyên hoặc bên khởi kiện, bên bị hoặc bên bị kiện và toà án đóng vai trò là trọng tài phân xử. Tranh tụng trong xét xử diễn ra giữa các bên có tư cách bình đẳng với nhau trong tố tụng (giữa bên buộc tội với bên gỡ tội hoặc giữa các đương sự) dưới quyền điều khiển (trọng tài) của Tòa án. Trên cơ sở 10
  14. nguyên tắc tranh tụng, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, tính chủ động của các bên trong tố tụng được tôn trọng và đề cao. - Nguyên tắc này được thực hiện theo quy định được cụ thể hoá trong từng lĩnh vực pháp luật tố tụng và tồn tại trong thể thống nhất với các nguyên tắc tố tụng khác của mỗi ngành luật tố tụng: Nguyên tắc“Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được cụ thể hóa qua các điều luật được quy định trong từng bộ luật tố tụng riêng biệt: Khoản 1 Điều 18 LTTHC năm 2015 quy định rõ: “Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng…” Trước khi Hiến pháp 2013 ra đời (thời điểm nguyên tắc đảm bảo tranh tụng được hiến định), trong tất cả các bộ luật tố tụng mới chỉ quy định các yếu tố tiền đề, liên quan đến nguyên tắc trên, thậm chí là cụm từ “tranh tụng” còn chưa xuất hiện mà thay vào đó là cụm từ “tranh luận”. Do vậy, nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử không tồn tại biệt lập với các nguyên tắc tố tụng khác trong từng lĩnh vực riêng lẻ mà ngược lại, chúng cụ thể hóa nguyên tắc này, bổ trợ lẫn nhau, tồn tại trong thể thống nhất. 1.1.3. Vai trò nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân Thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng trong Hiến pháp 2013, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử giữ một vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả của quá trình tố tụng xét xử vụ án cũng như thể hiện được ý nghĩa quan trọng của hoạt động xét xử trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý: Thứ nhất, nguyên tắc này đã thể chế hoá ở cấp độ cao nhất (hiến định) một trong những quan điểm, nội dung đường lối có tính trọng tâm, đột phá về cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Nguyên tắc hiến định này tạo nền tảng pháp lý thống nhất, định hướng và chỉ đạo toàn bộ hệ thống các quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy tư pháp của Nhà nước ta, tạo bước chuyển biến căn bản trong quá trình cải cách tư pháp nhằm xây dựng một nền tư pháp tiến bộ, dân chủ, công bằng, khách quan, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. 11
  15. Đảng và Nhà nước đã có chủ trương về vấn đề này và đã được đề cập trong Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW. Thể chế hoá chủ trương đó, những quy định pháp luật tố tụng đã và đang phát huy hiệu lực trên thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và giải quyết các mâu thuẫn xã hội được pháp luật điều chỉnh. Thứ hai, nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp là nền tảng để xây dựng và hoàn thiện các quy định về bảo đảm tranh tụng trong các văn bản pháp luật tố tụng. Ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm trong Hiến pháp tạo ra một chế độ, khuôn khổ chính trị-pháp lí thống nhất, định hướng cho sự phát triển của cả hệ thống pháp luật tố tụng. Tất cả các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng cũng như thực tiễn hoạt động tố tụng đều phải phù hợp với quy định và tinh thần của Hiến pháp. Từ một chủ trương, quan điểm trong đường lối chính trị của Đảng ta với tư cách là đảng cầm quyền, tranh tụng đã trở thành một nguyên tắc hiến định. Điều đó góp phần quan trọng vào việc thể chế hoá và hiện thực hoá tư tưởng của Đảng và Nhà nước, cũng là nguyện vọng của nhân dân ta về xây dựng một nền tư pháp tiến bộ, dân chủ, công bằng, khách quan ở Việt Nam. Như vậy, nếu Hiến pháp không thể chế hoá nguyên tắc này thì rất khó có thể bảo đảm được tính thống nhất trong hệ thống pháp luật tố tụng, sự thể hiện đúng bản chất chung của nền tư pháp Việt Nam. Thứ ba, tranh tụng trong xét xử có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện quyền tư pháp. Điều đó là đặc biệt cần thiết trong hoạt động xét xử của Tòa án, qua tranh tụng tại phiên tòa, các chứng cứ sẽ có điều kiện được kiểm định lại và làm sáng tỏ thêm, những người có thẩm quyền tham gia tố tụng tại phiên tòa, có điều kiện trình bày, chứng minh, phản biện một cách dân chủ, công khai, minh bạch; chủ tọa phiên tòa sẽ có điều kiện đánh giá một cách khách quan hơn so với tố tụng chỉ thiên về xét hỏi. Như vậy, tranh tụng trong xét xử góp phần rất quan trọng để Tòa án phán xét đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tình trạng oan sai, phân xử các mâu thuẫn phát sinh trong đời sống xã hội một cách đúng đắn, bảo đảm cho nền tư pháp của nước nhà là biểu hiện điển hình của công bằng và công lý. Tranh tụng trong xét xử là nguyên tắc phổ quát trong tố tụng tư pháp của hầu hết các nhà nước dân chủ và pháp quyền. Đó là một giá trị và là một tiêu chí để đánh giá một 12
  16. nền tư pháp có dân chủ và pháp quyền hay không. Chính vì thế, trong định hướng về cải cách tư pháp, Đảng ta đã nhấn mạnh phải tăng cường tranh tụng tại phiên tòa và Hiến pháp năm 2013 đã quy định thành một trong những nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân. Thứ tư, bảo đảm tranh tụng trong xét xử là thực hiện dân chủ, công bằng, là Nhà nước bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, từ nguyên tắc hiến định, được cụ thể hoá trong các đạo luật theo từng loại tố tụng đóng vai trò xác định một cách rõ ràng, thống nhất chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tố tụng, các bên tham gia tranh tụng, phát huy tính tích cực chủ động của các chủ thể trong quá trình chứng minh vụ án, nhờ đó tạo điều kiện cho việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án, tạo cơ sở quan trọng cho việc đưa ra phán quyết công bằng, khách quan, hợp pháp của toà án, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung và quyền trong lĩnh vực tố tụng nói riêng. Tóm lại, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng nhìn dưới góc độ lý luận và thực tiễn đều giữ vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện hoạt động xem xét, đánh giá chứng minh xoay quanh đơn kiện của các bên. Nói một cách khác, nguyên tắc tranh tụng cho phép các bên tham gia tố tụng có quyền chứng minh. Từ cơ sở đó, Toà án ra phán quyết công khai tại phiên tòa. Với vai trò đó, có thể thấy dù theo mô hình tố tụng tranh tụng hay tố tụng thẩm vấn thì tính công bằng, công khai minh bạch trong hoạt động tố tụng nhằm bảo đảm tối đa quyền con người đòi hỏi xã hội phải có sự thay đổi về nhận thức và ý thức pháp luật nếu muốn nguyên tắc được ghi nhận tại các luật tố tụng được bảo đảm vững chắc, tăng cường hoạt động cải cách tư pháp đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay. 1.1.4. Nội dung nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân 1.1.4.1. Tranh tụng được thực hiện giữa các bên trong tố tụng, tranh tụng là khâu trung tâm của hoạt động xét xử Khi thực hiện hoạt động xét xử, Tòa án phải đảm bảo tranh tụng giữa các bên đương sự, bị cáo với những người tham gia tố tụng khác, tranh tụng là khâu trung 13
  17. tâm của hoạt động xét xử. Đối với mô hình tố tụng thẩm vấn, vai trò Thẩm phán được đề cao rõ rệt, chủ thể này có là người tích cực xét hỏi bị cáo, nhân chứng, người bị hại…để tìm ra sự thật. Chứng cứ cũng do Thẩm phán điều tra và tập hợp, đương sự không có nghĩa vụ chứng minh chứng cứ nên có nhiều ý kiến cho rằng việc này đã hạn chế quyền của các bên đương sự, đi ngược lại nguyên tắc khách quan do vậy mà việc tranh tụng trước tòa chỉ là một hoạt động mang tính hình thức. Nhiều trường hợp, bị cáo còn phải trải qua một thời gian giam giữ mới được xét xử, gây ảnh hưởng tới khả năng bào chữa và nghiêm trọng hơn là tổn hại tới quyền con người, quyền của chủ thể bị buộc tội không được coi trọng. Qua đây, người viết thấy rằng sự phân biệt về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự có tính đối kháng về pháp lý trong mô hình này không rõ ràng, rành mạch, quyền lực và mọi vai trò đều thuộc về các cơ quan và chủ thể tiến hành tố tụng. Tranh tụng phải được xác định là khâu trung tâm của hoạt động xét xử: Nếu xét xử là khâu trung tâm của hoạt động tư pháp thì trong quá trình xét xử tại Tòa án, tranh tụng phải được coi là yêu cầu trung tâm. Yêu cầu này đòi hỏi tất cả mọi hoạt động tố tụng khác trước đó hoặc đồng thời với quá trình xét xử tại Tòa án đều nhằm phục vụ cho việc tranh tụng tại phiên xét xử của Tòa án. Chất lượng, hiệu quả của tranh tụng phản ánh chất lượng, hiệu quả của các hoạt động tố tụng khác. Ngược lại, các hoạt động tố tụng khác không tốt sẽ ảnh hưởng không tốt đến kết quả tranh tụng và do đó sẽ ảnh hưởng xấu đến phán quyết của Tòa án, sự thật khách quan, công bằng, công lý không được bảo đảm. Điều đó cũng có nghĩa nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi, phán quyết của Tòa án về cơ bản phải dựa trên kết quả của tranh tụng. 1.1.4.2. Các bên tranh tụng bình đẳng với nhau Các chủ thể tham gia tố tụng có quyền bình đẳng trong việc đề đạt yêu cầu để Tòa án bảo vệ, bổ sung yêu cầu và rút yêu cầu…Khi đưa ra yêu cầu, các bên tranh tụng có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và chứng minh phải được hiểu là, đương sự là người có yêu cầu có quyền cung cấp cho Tòa án các chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh để làm cơ sở cho yêu cầu của mình và ngược lại khi phản đối quan điểm phía bên kia thì họ phải trả lời các yêu cầu cũng có quyền cung cấp cho Tòa án các chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ 14
  18. chứng minh làm cơ sở cho việc phản đối của mình. Khi cung cấp chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh cho Tòa án các bên đều có quyền bình đẳng, có nghĩa là không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội, vị trí tố tụng, mọi chủ thể tham gia tranh tụng đều có quyền như nhau trong việc tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chính vì vậy, quá trình này chỉ đạt được mục đích khi các chủ thể tham gia tranh tụng được bình đẳng với nhau trước Tòa án. Ở đây, không phải là sự bình đẳng giữa những chủ thể mà địa vị pháp lý của họ khác nhau như chủ tọa phiên tòa với các bên tranh tụng hay giữa Hội thẩm nhân dân với người làm chứng…mà các chủ thể tham gia tranh tụng được bình đẳng với nhau trước Tòa án được hiểu là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng giữa các chủ thể có cùng địa vị pháp lý trong quá trình tố tụng như các bên đương sự trong tố tụng dân sự, hành chính hay bên buộc tội và bên gỡ tội trong tố tụng hình sự. Các chủ thể tranh tụng được bình đẳng trong việc thực hiện quyền tranh tụng, theo đó các bên tranh tụng được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng và bình đẳng về trách nhiệm pháp lý. Bởi nếu không được bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng thì sự thật khách quan của vụ án không được sáng tỏ, các bên tranh tụng không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình là một bảo đảm cho các chủ thể thực hiện quyền tự định đoạt trong việc rút yêu cầu, rút đơn khởi kiện, truy tố. Bởi vì, khi xuất trình chứng cứ các bên sẽ tự mình xem xét các yêu cầu, phản yêu cầu mà họ đưa ra có hợp lý hay không? Các chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý mà họ viện dẫn có đủ sức thuyết phục Tòa án, phía bên kia không? Và trong trường hợp nếu các bên thấy các chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý mà họ đưa ra không đủ cơ sở để chứng minh cho yêu cầu của mình thì trong nhiều trường hợp một trong các bên tự nguyện rút yêu cầu, rút đơn khởi kiện và khi đó Tòa án có căn cứ để ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ kiện. Thông qua quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và chứng minh mà người phải trả lời các yêu cầu tự nhận thấy yêu cầu, các chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý mà phía bên kia đưa ra là đúng đắn, có cơ sở và họ thừa nhận những chứng cứ, những yêu cầu đó. Việc các bên thừa nhận một sự kiện pháp lý, một yêu 15
  19. cầu…mà đáng lẽ ra họ phải cung cấp cho Tòa án để làm rõ sẽ giải phóng phía bên kia khỏi nghĩa vụ chứng minh. Tuy nhiên, việc thừa nhận yêu cầu, chứng cứ do bên kia cung cấp cũng cần phải được Tòa án kiểm tra, xem xét để xác định việc thừa nhận đó là có cơ sở, không bị gò ép, mua chuộc. Quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và chứng minh còn được hiểu là, những chứng cứ mà các bên cung cấp trong thời gian do Thẩm phán ấn định đều phải được Tòa án chấp nhận và đưa vào trong hồ sơ vụ kiện. Trong quá trình giải quyết vụ kiện, mọi yêu cầu, tình tiết và chứng cứ của vụ kiện đều phải được Tòa án nghiên cứu, đánh giá, sử dụng một cách đầy đủ, khách quan và toàn diện. Tòa án không được coi chứng cứ của bên này hơn chứng cứ của bên kia dẫn đến không xem xét đầy đủ các yêu cầu, lý lẽ. Việc ghi nhận đầy đủ các chứng cứ được cung cấp cho Tòa án là sự bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và chứng minh đồng thời nó còn thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ và chứng minh. Quyền bình đẳng của đương sự trước Tòa án còn được hiểu là các bên được biết các chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh do các đương sự khác xuất trình hoặc các chứng cứ do Tòa án thu thập. Thông qua việc được biết các chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh này, đương sự chuẩn bị tổ chức việc biện hộ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, trong quá trình giải quyết vụ kiện, các bên tham gia tố tụng phải được Tòa án cho xem xét các giấy tờ, tài liệu, vật chứng, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh do phía bên kia xuất trình hoặc chứng cứ do Tòa án thu thập. Bên cạnh đó, các bên được bình đẳng trong việc tham gia tranh luận tại phiên tòa. Việc thực hiện được quyền trình bày, tranh luận là một biện pháp tốt để các bên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án đặc biệt trong tố tụng hình sự khi mà những quy định của pháp luật mới cho thấy rõ ràng sự bình đẳng trong tranh luận giữa một bên là Viện kiểm sát và một bên là bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị cáo. Thông qua tranh luận, các chủ thể dựa vào pháp luật, đưa ra các chứng cứ, những lập luận thuyết phục Hội đồng xét xử bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 16
  20. 1.1.4.3. Tranh tụng được các bên thực hiện trên cơ sở pháp luật, tôn trọng sự thật khách quan, có trách nhiệm, có văn hoá ứng xử Tòa án phải tôn trọng quyền tranh tụng của các bên tham gia tranh tụng, phải bảo đảm cho các bên tham gia tranh tụng cũng như những người tham gia tố tụng khác hiểu biết và đủ điều kiện thực hiện quyền tranh tụng theo quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tốt tụng đều được ghi nhận trong các quy định của pháp luật nhằm tạo ra cơ chế để buộc các bên phải thực hiện hoạt động tranh tụng có trách nhiệm, tôn trọng sự thật và có văn hoá ứng xử. Các bên khi tham gia tố tụng, cung cấp tài liệu chứng cứ, lời khai...đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời nói và hành vi của mình. Bên cạnh đó, Tòa án là người điều khiển hoạt động tranh tụng, đảm bảo việc thực hiện tranh tụng của các bên được thực hiện theo đúng pháp luật và có văn hoá. Chỉ khi các bên tham gia tố tụng thực hiện đúng yêu cầu này thì sự thật khách quan mới được làm sáng tỏ, hoạt động tranh tụng mới đạt được kết quả tốt nhất và Tòa án có thể đưa ra được phán quyết đúng đắn, công bằng, công minh để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý. Tòa án chỉ được đưa ra phán quyết dựa vào những chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh đã được xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa. 1.1.4.4. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho các bên được tham gia tranh tụng Tòa án không tham gia tranh tụng mà chỉ là trọng tài, điều khiển tranh tụng nhưng vai trò của Tòa án hết sức quan trọng, là người tao điều kiện thuận lợi cho các bên thực hiện quyền, trách nhiệm tranh tụng, bảo đảm tuân thủ các quy định khi tranh tụng nhằm hướng tranh tụng diễn ra đúng hành lang pháp lý, đi đến được mục tiêu của nó. Sở dĩ Tòa án có trách nhiệm này vì Tòa án là cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước (quyền tư pháp), nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có chức năng, thẩm quyền xét xử các vụ án đương nhiên vì thế Tòa án có thẩm quyền đưa ra phán quyết giải quyết vụ án. Tuy nhiên, một mặt Tòa án cũng cần phải có trách nhiệm bảo đảm cho quá trình xét xử được diễn ra một cách dân chủ, công bằng, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Mặt khác, Tòa án cũng cần phải có căn cứ khách quan để có thể đưa ra được phán quyết đúng đắn, công bằng, hợp pháp. Chỉ có thể bảo đảm tranh tụng trong xét xử thì Tòa án mới 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0