intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp về vốn đầu tư cho phát triển nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Cà Mau

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:115

29
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu cóc cấu trúc gồm 3 chương trình bày tổng quan về NTTS và vốn để phát triển NTTS; thực trạng về phát triển NTTS và vốn đầu tư cho NTTS ở tỉnh Cà Mau; giải pháp về vốn đầu tư cho phát triển NTTS ở tỉnh Cà Mau.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp về vốn đầu tư cho phát triển nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Cà Mau

  1. BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN VĂN BÉ GIẢI PHÁP VỀ VỐN ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở TỈNH CÀ MAU CHUYÊN NGÀNH : KINH TEÁ TÀI CHÍNH – NGAÂN HAØNG MÃ SỐ : 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÙNG
  2. NHỮNG TỪ VIẾT TẮT Nuôi trồng thủy sản NTTS Ngân hàng NH Đồng Bằng Sông Cửu Long ĐBSCL Đồng Bằng Sông Hồng ĐBSH Công nghiệp hóa CNH Hiện đại hóa HĐH Trung ương TW Tổng sản phẩm trên địa bàn GDP Công ty trách nhiện hữu hạn Cty TNHH Tổ chức thương mại thế giới WTO
  3. MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 5 VÀ VỐN ĐỂ PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM NTTS 5 1.1.1 Khái niệm nuôi trồng thủy sản 5 1.1.2. Đặc điểm của nuôi trồng thủy sản 6 1.2. VAI TRÒ CỦA NTTS TRONG CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM 8 1.3. VAI TRÒ CỦA YẾU TỐ VỐN TRONG PHÁT TRIỂN NTTS 21 1.3.1. Khái niệm về vốn 21 1.3.2. Vai trò của vốn trong phát triển NTTS 23 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 30 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN VÀ VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NTTS Ở TỈNH CÀ MAU 2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI 32 CỦA TỈNH CÀ MAU 2.1.1 Đặc điểm về tự nhiên 32 2.1.2. Đặc điểm về xã hội 36 2.1.3. Đặc điểm về Kinh tế - Tài chính và đời sống dân cư 40
  4. 2.2. THỰC TRẠNG NTTS Ở TỈNH CÀ MAU 47 2.2.1. Những thành quả đạt được 47 2.2.2. Những hạn chế và vấn đề đặt ra 60 2.3. THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ CHO NTTS Ở TỈNH CÀ MAU 64 2.3.1. Những kết quả đạt được 64 2.3.2. Những tồn tại cần hoàn thiện 68 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 72 CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP VỀ VỐN CHO PHÁT TRIỂN 73 NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở TỈNH CÀ MAU 3.1. ĐỊNH HƯỚNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NTTS Ở TỈNH CÀ MAU 73 3.1.1. Phát triển NTTS phải đạt hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo tính 73 bền vững lâu dài, kết hợp kinh tế - xã hội và môi trường 3.1.2. Phát triển toàn diện và tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn 74 vốn phù hợp với các loại hình NTTS (kể cả cá, tôm và thủy sản khác) 3.1.3. Đầu tư phát triển NTTS phải đặt trong bối cảnh hội nhập 75 kinh tế thế giới và khu vực 3.1.4. Đầu tư và cho vay NTTS phải đạt hiệu quả kinh tế - xã hội 76 và môi trường cao 3.1.5. Đổi mới cơ cấu đầu tư và cho vay NTTS theo hướng đồng bộ từ xây dựng cơ sở hạ tầng đến đào tạo nguồn nhân lực, ứng dụng 77 khoa học công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, sản xuất thức ăn thủy sản 3.1.6. Vốn phát triển NTTS của tỉnh cần hướng vào khai thác các 78
  5. thế mạnh về đất đai, rừng ngập mặn, bãi bồi của từng vùng sinh thái, đồng thời kết hợp giữa nuôi trồng với chế biến và xuất khẩu sản phẩm tinh chế phù hợp với yêu cầu của thị trường 3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 79 3.2.1. Những giải pháp về quy hoạch và tổ chức sản xuất 79 3.2.2. Giải pháp tạo vốn 81 3.2.3. Giải pháp sử dụng vốn 85 3.3. CÁC GIẢI PHÁP HỔ TRỢ 90 3.3.1. Giải pháp về nguồn nhân lực 90 3.3.2. Giải pháp về thị trường tiêu thụ 91 3.3.3. Giải pháp về khoa học - công nghệ 91 3.3.4. Giải pháp về khuyến ngư 92 3.3.5. Giải pháp về khuyến khích các thành phần kinh tế 92 đầu tư vào phát triển NNTS 3.3.6. Giải pháp về môi trường 93 3.3.7. Giải pháp về giống 94 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 94 KẾT LUẬN CHUNG 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  6. LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu: Trong cơ cấu các ngành kinh tế của tỉnh Cà Mau, thủy sản đã được xác định là một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Trong thời gian qua, hiện nay và cũng như trong tương lai kinh tế thủy sản sẽ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế của tỉnh nhà. Tiềm năng về phát triển kinh tế thủy sản của Cà Mau rất phong phú: có bờ biển dài 254 km, bao bọc ba mặt từ Đông sang Tây; có ngư trường rộng lớn khoảng 100.000 km 2 ; có bãi biển rộng, bằng phẳng, nước không sâu lại có các cửa sông là nơi trú ẩn cho nhiều loài tôm, cá, … Ngư trường Cà Mau là 1 trong 4 ngư trường trọng điểm của cả nước, có trữ lượng lớn và đa dạng nguồn hải sản có giá trị kinh tế cao như: tôm, cua, mực, ghẹ, cá hồng, cá lạc, cá đường, cá ngừ, cá bớp, cá chai, cá mú, … với 660 loài, 319 giống thuộc 138 họ, trong đó có 175 loài thuộc 116 giống và 77 họ đã được định danh. Trữ lượng các loài hải sản có thể khai thác ở ngư trường Cà Mau gồm: Vùng biển Đông có trữ lượng các tầng nổi 520 nghìn tấn, có khả năng khai thác 210 nghìn tấn/năm; tầng đáy có trữ lượng 800 nghìn tấn, có khả năng khai thác 400 nghìn tấn/năm. Vùng biển Tây có trữ lượng cá nổi 316 nghìn tấn, có khả năng khai thác 126 nghìn tấn/năm; tầng đáy có trữ lượng 470 nghìn tấn, có khả năng khai thác 235 nghìn tấn/năm. Bên cạnh đó, việc nuôi trồng tại khu vực mặt nước ven biển cũng rất thuận lợi, gồm các loại nhuyễn thể và các loại hai mảnh vỏ như: nghêu, sò huyết, các loại tôm, cua, cá nước mặn có giá trị cao trong tiêu dùng và xuất khẩu. NTTS ven biển, đặc biệt là nuôi tôm, đang phát triển nhanh chóng và trở thành thế mạnh của tỉnh Cà Mau. Vùng biển Cà Mau còn có nhiều đảo, cụm đảo ven bờ như: cụm đảo Hòn Khoai, đảo Hòn Chuối, Hòn Đá Bạc, một số bãi cát ven biển Đông của huyện Ngọc Hiển như: bãi Khai Long, bãi Giá Lồng Đèn, … và ven bờ biển là hệ sinh thái rừng ngập mặn đa dạng. Đây là những điểm lý tưởng để tàu thuyền trú ẩn khi có bão, gió lớn hoặc biển động.
  7. Những cụm đảo nầy cũng có thể phát triển thành những trung tâm hậu cần nghề cá của tỉnh và khu vực. Ngoài ra, Cà Mau còn có hệ thống kinh rạch chằng chịt dài trên 7.000 km và diện tích mặt nước lớn, thuận lợi cho đánh bắt và NTTS. Cà Mau còn có nguồn tài nguyên đất đai rộng lớn, màu mỡ, diện tích chưa sử dụng còn nhiều. Trong tổng quỹ đất tự nhiên 5.329 km 2 , có khoảng 1.000 km 2 là đất rừng, đại bộ phận diện tích còn lại đều có thể sản xuất và NTTS. Nếu so sánh diện tích nuôi tôm và diện tích tự nhiên của Cà Mau với các tỉnh khác trong khu vực Đồng ĐBSCL sẽ thấy được tiềm năng đặc biệt to lớn của ngành thủy sản Cà Mau. Đồng chí Nông Đức Mạnh có lần về thăm Cà Mau đã khẳng định: "Cà Mau có thế mạnh là nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, cộng thêm lợi thế là tỉnh có diện tích nuôi tôm, ngư trường đánh bắt thủy sản vào bậc nhất cả nước. Cà Mau xứng đáng được TW đầu tư trọng điểm nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản". Song song với những thuận lợi cũng như những kết quả đạt được, kinh tế thủy sản Cà Mau vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại như: chưa khai thác tốt tiềm năng vùng biển, hải đảo, ven biển và bên trong nội đồng; sản lượng khai thác lớn nhưng giá trị thấp; việc áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ mới vào nuôi trồng, đánh bắt, chế biến còn hạn chế; sản xuất thủy sản còn mang nặng tính tự phát, tôm bị dịch bệnh trên diện rộng và kéo dài nhưng chưa có khả năng khắc phục được; năng suất, sản lượng và giá trị không cao, kim ngạch xuất khẩu chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh,... Những khó khăn, tồn tại đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản là vốn đầu tư cho ngành thủy sản đã qua chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của ngành thủy sản. Do vốn đầu tư còn hạn chế nên định hướng cơ cấu vốn đầu tư trên từng lĩnh vực chưa chuyển biến nhanh theo hướng tích cực và có hiệu quả cao. Từ những vấn đề nêu trên cần tìm ra giải pháp về vốn đầu tư nhằm đáp ứng cho yêu cầu phát triển của ngành thủy sản trong thời gian tới, giúp cho ngành thủy sản phát huy các tiềm năng lợi thế của mình để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh, nhất là vốn đầu tư cho phát triển NTTS, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu luận văn là “Giải pháp về vốn đầu tư cho phát triển nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Cà Mau”.
  8. 2. Mục đích nghiên cứu của luận văn: - Làm rõ tiềm năng, lợi thế và thực trạng về NTTS ở tỉnh Cà Mau. - Vạch rõ vai trò của vốn đầu tư (vốn Nhà nước, vốn tín dụng NH, vốn nhân dân) đối với việc phát triển NTTS. - Đánh giá thực trạng vốn đầu tư (vốn Nhà nước, vốn tín dụng NH, vốn nhân dân) cho việc phát triển NTTS ở tỉnh Cà Mau. - Đề xuất các giải pháp về vốn để thúc đẩy phát triển NTTS trong thời gian tới. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn: - Đối tượng nghiên cứu: là vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng NH và vốn đầu tư của nhân dân đối với sự phát triển thủy sản ở tỉnh Cà Mau. - Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng NH và vốn đầu tư của nhân dân trong lĩnh vực NTTS. Trên cơ sở đó đề ra giải pháp để tăng cường, phát huy hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng NH và vốn đầu tư của nhân dân trong lĩnh vực NTTS trên phạm vi toàn tỉnh. 4. Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, sử dụng các phương pháp diễn dịch, quy nạp, thống kê, phân tích, tổng hợp, đồ thị, dự báo ... kết hợp với nghiên cứu chọn lọc những kiến thức lý luận đã được đúc kết rút ra từ thực tiễn về tình hình triển khai thực hiện vốn đầu tư đối với sự phát triển NTTS. Luận văn cũng sử dụng các tài liệu, số liệu của Tổng cục Thống kê, Bộ Thủy sản, sở Thủy sản, sở Kế họach - Đầu tư, Cục thống kê, Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh và một số đơn vị liên quan về số liệu thống kê, các báo cáo quy hoạch, báo cáo tổng kết, báo cáo tham luận về vốn đầu tư, về hoạt động của ngành thủy sản, ... 5. Tình hình nghiên cứu:
  9. Những giải pháp về vốn cho phát triển NTTS ở tỉnh Cà Mau là vấn đề chưa được nêu ra trong các công trình nghiên cứu trước đây ở tỉnh Cà Mau. Trong phần nghiên cứu nầy chúng tôi tập trung đề cập đến các vấn đề cơ bản của hoạt động NTTS, nhất là vấn đề vốn đầu tư cho phát triển NTTS trong thời qua và đề xuất các giải pháp cho thời gian tới. 6. Những đóng góp mới: - Hệ thống lại lý luận về vốn đầu tư cho phát triển NTTS. - Đánh giá toàn diện thực trạng NTTS và vốn đầu tư cho NTTS ở tỉnh Cà Mau. - Đề xuất các giải pháp về vốn để phát triển NTTS ở tỉnh Cà Mau trong những năm tới theo hướng CNH - HĐH. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương: CHƯƠNG 1: Tổng quan về NTTS và vốn để phát triển NTTS. CHƯƠNG 2: Thực trạng về phát triển NTTS và vốn đầu tư cho NTTS ở tỉnh Cà Mau. CHƯƠNG 3: Giải pháp về vốn đầu tư cho phát triển NTTS ở tỉnh Cà Mau . X W
  10. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÀ VỐN ĐỂ PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 1.1.1 Khái niệm nuôi trồng thủy sản. NTTS là hoạt động sản xuất dựa trên cơ sở kết hợp giữa tài nguyên thiên nhiên sẵn có (mặt nước biển, nước sông ngòi, ao hồ, ruộng trũng, sông cụt, đầm phá, khí hậu..) với hệ sinh vật sống dưới nước (chủ yếu là cá, tôm, và thủy sản khác..) có sự tham gia trực tiếp của con người. Hoạt động này ở Việt Nam bao gồm nuôi, trồng các loại thủy sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Các loại thủy sản nuôi trồng chủ yếu hiện nay là: tôm sú, tôm càng xanh, cá biển (cá song, cá hồng, cá cam, cá vược, cá bớp, cá chẽm, cá măng…), cá nước ngọt (cá tra, cá ba sa, cá chép, cá mè, rô phi, trê phi, trắm cỏ, cá trôi, bống tượng, tai tượng, cá quả, sặc rằn, cá lóc…) các hình thức nuôi chủ yếu là: - Nuôi tôm sú theo phương pháp công nghiệp và bán công nghiệp, quảng canh, quảng canh cải tiến. - Nuôi cá biển trong lồng bè trên mặt nước biển, sông, đầm phá, ven biển, sông cụt, chủ yếu là cá chẽm, cá mú, cá tra, cá ba sa, cá bống tượng, cá trôi, cá cá chép, cá mè, ba ba, lươn, ếch... - Nuôi tôm càng xanh. - Nuôi nhuyễn thể: ngao, nghêu, sò huyết, ốc.. - Nuôi thủy sản ao hồ, đìa, hầm. - Nuôi thủy sản trên ruộng trũng, ruộng lúa. - Trồng rong biển, các đối tượng chủ yếu là rong câu chỉ vàng, rong mơ, rong kỳ lân, rong cước và rong sụn. *Chủ thể nuôi: các tổ chức (DN, HTX, tổ hợp tác), hộ gia đình, cá nhân. Như vây, hoạt động NTTS rất đa dạng cả về phương thức nuôi, đối tượng nuôi, mặt nước nuôi trên cơ sở tận dụng các loại diện tích đất,
  11. mặt nước bỏ hoang, mặt nước biển, nước sông suối, dòng chảy, hồ thủy lợi, thủy điện... hoặc diện tích đất có mặt nước đang sử dụng kém hiệu quả trong nông nghiệp, lâm nghiệp. 1.1.2. Đặc điểm của nuôi trồng thủy sản. NTTS có các đặc điểm như sau: - NTTS là một ngành phát triển trên phạm vi cả nước và có đối tượng phức tạp so với các ngành sản xuất khác. Tính chất rộng khắp của ngành thủy sản thể hiện nghề NTTS phát triển ở khắp các vùng trong nước từ đồng bằng, trung du, miền núi cho đến các vùng ven biển, ở đâu có diện tích mặt nước là ở đó có thể phát triển nghề NTTS. Song, mỗi vùng có điều kiện địa hình, khí hậu, thời tiết khác nhau nên có sự khác nhau về đối tượng sản xuất, về quy trình kỹ thuật, về mùa vụ sản xuất ... Do đó, trong công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất của ngành thủy sản cần lưu ý đến các vấn đề như: xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, chính sách giá cả, vốn đầu tư cho phù hợp đối với từng khu vực, từng vùng lãnh thổ. - Trong NTTS đất đai, diện tích mặt nước vừa là tư liệu sản xuất chủ yếu vừa là tư liệu sản xuất đặt biệt không thể thay thế được. Nếu không có đất đai, diện tích mặt nước thì không thể tiến hành NTTS được. Đất đai không những là tư liệu sản xuất mà còn là tư liệu sản xuất đặc biệt, khác với các tư liệu sản xuất khác. Do diện tích đất đai, mặt nước có giới hạn, vị trí của chúng cố định, sức sản xuất của chúng thì không giới hạn và nếu biết sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai, diện tích mặt nước không những không bị hao mòn đi mà còn tốt hơn (tức độ phì nhiêu, độ màu mỡ của đất đai, diện tích mặt nước ngày một tăng); mặt khác đất đai, diện tích mặt nước là tư liệu sản xuất không đồng nhất về mặt chất lượng do cấu tạo thổ nhưỡng, địa hình, vị trí dẫn đến độ màu mỡ của đất đai, diện tích mặt nước giữa các vùng thường là khác nhau. Chính vì vậy, khi sử dụng đất đai, diện tích mặt nước phải hết sức tiết kiệm, phải quản lý chặt chẽ đất đai diện tích mặt nước trên cả 3 mặt: pháp chế, kinh tế và kỹ thuật. - NTTS có tính thời vụ cao. Trong NTTS ngoài sự tác động trực tiếp của con người, các đối tượng nuôi còn chịu sự tác động của môi trường tự nhiên. Nhân tố cơ bản quyết định tính thời vụ là quy luật sinh
  12. trưởng và phát triển của các đối tượng nuôi trồng, những biểu hiện chủ yếu của tính thời vụ trong NTTS là: Ž Đối với mỗi đối tượng nuôi trồng, các giai đoạn sinh trưởng, phát triển diễn ra trong các khoảng thời gian khác nhau của mùa vụ sản xuất nên đòi hỏi thời gian, hình thức và mức độ tác động trực tiếp của con người tới chúng cũng khác nhau. Có thời gian đòi hỏi lao động căng thẳng, có thời gian ít căng thẳng. Ž Cùng một đối tượng NTTS nhưng ở những vùng có điều kiện khí hậu, thời tiết khác nhau thường có mùa vụ sản xuất khác nhau. Ž Các đối tượng NTTS khác nhau có mùa vụ sản xuất khác nhau. Tính thời vụ trong NTTS có xu hướng dẫn tới tính thời vụ trong việc sử dụng các yếu tố sản xuất nhất là sức lao động, công cụ lao động và đất đai, diện tích mặt nước. Do điều kiện lao động thủ công, điều kiện tự nhiên, thời tiết diễn biến bất thường, tính thời vụ trong NTTS càng gây nên nhiều vấn đề phức tạp trong tổ chức quản lý sản xuất và kinh doanh. Mặt khác, tính thời vụ trong NTTS còn ảnh hưởng và đòi hỏi ngành thủy sản phải có kế hoạch và tổ chức thực hiện tốt việc thu hoạch, tiêu thụ sản phẩm (bao gồm cả xác định giá bán theo mùa cho phù hợp). - Đối tượng sản xuất của ngành NTTS là những cơ thể sống. Chúng sinh trưởng, phát sinh, phát triển và phát dục theo các quy luật sinh học. Do đó, trong quá trình sản xuất chúng luôn luôn đòi hỏi sự tác động thích hợp của con người và tự nhiên để sinh trưởng và phát triển. Vì thế, có hàng loạt các vấn đề cần nghiên cứu, giải quyết để đạt năng suất các đối tượng NTTS cao như: nâng cao chất lượng con giống, quản lý chất lượng môi trường và xây dựng các quy trình sản xuất tiên tiến cho năng suất cao. - Một số sản phẩm thủy sản sản xuất ra được giữ lại làm giống để tham gia vào quá trình tái sản xuất vụ sau. Trong NTTS một số sản phẩm như: đàn cá thịt, tôm thịt được tuyển chọn làm cá bố mẹ hoặc tôm bố mẹ để cho đẻ trong quy trình sản xuất tiếp theo. Do đó, trong quá trình NTTS phải quan tâm đến việc sản xuất, nhân ra các loại giống tốt. Đồng thời, ngành thủy sản phải quan tâm xây dựng một hệ thống giống quốc gia, hệ thống giống cho từng vùng, từng khu vực.
  13. Ngoài những đặc điểm trên, NTTS Việt Nam còn có những đặc điểm riêng. Đó là: Ž Ngành NTTS Việt Nam có từ lâu đời, song hiện tại vẫn trong tình trạng của một nền sản xuất nhỏ, phân tán, lao động chủ yếu còn là thủ công. Cơ cấu ngành thủy sản đang chuyển dịch theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Do đó, ngành NTTS phải thấy hết những tồn tại khó khăn của nền sản suất nhỏ, đó là: cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật và quản lý của cán bộ, nông dân ở nhiều nơi, nhất là các vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa còn quá yếu kém, tâm lý người sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu, ... để quản lý sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Phải nhận thức đúng tính tất yếu của sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong ngành NTTS, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và thực hiện tốt những quy định của Nhà nước về đổi mới quản lý kinh tế trong NTTS. Ž Trong NTTS đất đai, diện tích mặt nước phân bố không đều giữa các vùng cũng ảnh hưởng đến công tác quản lý NTTS. Đặc điểm này đòi hỏi ngành NTTS phải có kế hoạch khai thác, sử dụng đầy đủ các loại đất đai diện tích mặt nước hiện có; mặt khác phải tiến hành cân đối lao động, bồi dưỡng và nâng cao trình độ lao động, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Ž Nghề NTTS Việt Nam chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới ẩm có pha trộn ít khí hậu vùng ôn đới. Tài nguyên khí hậu, một mặt tạo ra nhiều thuận lợi cho ngành NTTS: có thể nuôi trồng được nhiều đối tượng có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới và những đối tượng có nguồn gốc từ các vùng ôn đới, đồng thời có thể nuôi được nhiều vụ trong một năm; mặt khác, khí hậu nước ta cũng gây ra những khó khăn phức tạp cho ngành NTTS như: bão lụt, gió mùa Đông Bắc, sương muối, các vùng ven biển sóng gió thủy triều, sóng thần, ... Do đó, ngành thủy sản cần có những phương án đề phòng để chinh phục và cải tạo thiên nhiên, đảm bảo năng suất sản lượng cao và ổn định.
  14. 1.2. VAI TRÒ CỦA NTTS TRONG CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM Sự phát triển của hoạt động NTTS đã trở thành một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế nói chung và nông, lâm nghiệp, thủy sản nói riêng ở nước ta. Trong điều kiện nguồn lợi thủy sản ven bờ bị cạn kiệt, khai thác thủy sản xa bờ có nhiều khó khăn do thiên tai, bão lũ, chi phí lớn, phương tiện hiện đại đầu tư lớn thì NTTS là hướng phát triển ổn định và lâu dài đối với các nước có biển cũng như không có biển. Vai trò của hoạt động NTTS đối với phát triển kinh tế - xã hội thể hiện trên nhiều mặt: thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn, nhất là vùng ven biển; tạo nguồn nguyên liệu quý giá cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu; tạo việc làm tăng thu nhập cho dân cư nhất là vùng nông thôn ven biển; bảo vệ môi trường sinh thái; góp phần bảo vệ nguồn lợi thủy hải sản tự nhiên trên sông, biển. Nhận thức được vai trò đó, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng và đánh giá cao vai trò của NTTS trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước trong mọi giai đoạn. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta; vai trò của thủy sản nói chung và NTTS nói riêng càng được coi trọng. Chính phủ đã xây dựng Chương trình phát triển NTTS từ năm 2000-2010 theo Quyết định số 224/1999/QĐ/TTg ngày 08/12/1999, trong đó xác định mục tiêu "Phát triển NTTS nhằm đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm và tạo nguồn nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2010 tổng sản lượng NTTS đạt 2 triệu tấn; kim ngạch xuất khẩu đạt 2,5 tỷ USD; tạo việc làm mới cho 2 triệu người; góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước và an ninh ven biển". Ngày 23/06/2004 Chính phủ ra Quyết định số 122/2004/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình phát triển giống thủy sản đến năm 2010. Tiếp đến ngày 01/06/2005, Thủ tướng chính phủ ra quyết định số: 126/2005/QĐ-Tg về một số chính sách khuyến khích phát triển NTTS trên đảo, hải đảo. Để thực hiện các Chương trình đó đòi hỏi có nhiều yếu tố: đất đai, mặt nước, lao động, vốn, khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, trong đó vốn là yếu tố có tính quyết định. Điều đó xuất phát từ đặc điểm, nội dung, mục tiêu của hoạt động NTTS ở bất kỳ nước nào cũng như ở Việt Nam.
  15. Thực tế những năm gần đây đã chứng minh các chính sách, chương trình trên đây đã thúc đẩy việc tận dụng diện tích đất, mặt nước bỏ hoang hoặc sử dụng kém hiệu quả trước đây vào NTTS đã đem lại lợi ích cho người nông dân khá rõ nét. Năm 2006 diện tích NTTS đạt 984,4 nghìn ha, tăng 32,8 nghìn ha so với năm 2005, so với năm 2000 tăng 342,5 nghìn ha. Hai vùng chuyển đổi nhiều là ĐBSCL và ĐBSH với hình thức chuyển diện tích đất trồng lúa ven biển năng suất thấp và không ổn định sang nuôi tôm đạt hiệu quả cao hơn. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng từ 1.003,1 nghìn tấn năm 2003, lên 1.202,5 nghìn tấn năm 2004, lên 1.478 nghìn tấn năm 2005 và 1.694,2 nghìn tấn năm 2006. Trong quá trình phát triển, nhiều mô hình nuôi thủy sản năng suất cao, hiệu quả đã xuất hiện như nuôi tôm sú công nghiệp, nuôi cá lồng, cá bè, cá ruộng,... Tuy còn không ít khó khăn và bất cập nhưng đánh giá tổng quát, sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất như trên về cơ bản là tích cực, đúng hướng, có tác dụng nhiều mặt cả về kinh tế - xã hội và môi trường. Tác dụng của hoạt động NTTS những năm qua đã được thể hiện rõ trên các mặt sau: - Goùp phaàn thuùc đẩy neàn kinh tế taêng tröôûng nhanh bằng việc thu hút ngoại lực thông qua xuất khẩu thủy sản. Nhờ NTTS tăng nhanh nên sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng với tốc độ nhanh theo xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Năm 1980 kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước mới đạt 11 triệu USD, và 20 năm sau, năm 2000 cũng chỉ đạt 1 tỷ USD. Vậy mà năm 2005 đã đạt 2,5 tỷ USD và năm 2006 đạt trên 3 tỷ USD. Nguồn ngoại tệ do xuất khẩu thủy sản đem lại đã và đang góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế chung của cả nước, tăng ngân sách quốc gia và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đến nay, nhiều mặt hàng thủy sản nuôi trồng của Việt Nam đã có mặt trên thị trường các nước và khu vực, kể cả các thị trường khó tính như EU, Bắc Mỹ, Nhật Bản. - Tạo chỗ làm mới cho lao động nông thôn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng đa ngành, đa sản phẩm, xóa dần thế độc canh trong nông nghiệp, nông thôn. Theo Bộ Thủy sản, hiện nay cả nước có trên 4 triệu lao động tham gia trực tiếp sản xuất và dịch vụ trong 3 lĩnh vực chính: khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản.
  16. Trong số này có trên 50% là lao động NTTS và mỗi năm tăng thêm khoảng 250 nghìn người. Sau bão Chăn Chu, do một số tàu thuyền mất mát và hư hỏng, giá xăng dầu tăng cao nên hoạt động khai thác chững lại, số lao động dư thừa tăng, một số chuyển sang nuôi trồng, càng làm tăng số lao động NTTS. Theo Tổng cục Thống kê, số lao động trực tiếp tham gia các hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thủy sản năm 2006 có 1.555,8 nghìn người (tăng 566,9 nghìn người so năm 2000), trong đó trên 80% là lao động NTTS. Số lao động làm dịch vụ thủy sản và nông nghiệp kiêm NTTS lên đến trên 3 triệu người. Ngay cả các vùng thuần nông nội đồng không có biển, lao động NTTS nội địa cũng ngày càng tăng, tạo thêm công ăn việc làm và tăng thu nhập cho hộ nông dân. - Nâng cao thu nhập một cách đồng bộ và khá vững chắc cho hộ nông thôn, nhất là hộ nông dân. Do thị trường và giá cả thủy sản tương đối cao và ổn định nên hoạt động NTTS đã và đang góp phần tích cực tăng thu nhập, cải thiện đời sống dân cư nông thôn. Những địa phương NTTS phát triển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa, thu nhập của các hộ nuôi thủy sản quy mô lớn tăng khá nhanh và ổn định. Năm 2006 cả nước có 34.202 trang trại NTTS, trong đó riêng ĐBSCL có 25.147 trang trại. Do sản xuất phát triển, thu nhập khá ổn định nên số lượng trang trại tăng nhanh từ 5.031 trang trại năm 2001, thì đến năm 2006 đã tăng lên 6,8 lần. Bình quân 1 trang trại NTTS có 5,15 lao động, 3,53 ha diện tích đất mặt nước, 140 triệu đồng vốn đầu tư, 120 triệu đồng tổng thu, 40 triệu đồng thu nhập và 115 triệu đồng giá trị sản lượng hàng hóa, cao gấp nhiều lần kinh tế hộ nông nghiệp thuần trên cùng địa bàn nông thôn (2001). Tốc độ tăng thu nhập của trang trại NTTS bình quân hàng năm trên 20 % so với tốc độ tăng từ 5 đến 6% trong khu vực nông nghiệp. - NTTS hợp lý góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Hoạt động khai thác thủy sản ven bờ biển, trên sông theo phương thức khai thác trắng bằng các công cụ lưới quét, cào và các hình thức khác đã làm cạn kiệt nguồn thủy sản, đồng thời gây ô nhiễm môi trường nước, đất và không khí. Do vậy, NTTS hợp lý đã góp phần khắc phục được tình trạng đó. Trong phong trào phát triển NTTS ở các địa phương những năm qua đã hình thành các mô hình tạo cân bằng sinh thái cây trồng vật nuôi đạt hiệu quả cả về kinh tế và môi trường. Đó là mô hình VAC, mô
  17. hình nuôi tôm sinh thái, mô hình tôm - lúa, lúa - cá ở ĐBSCL, nuôi tôm công nghiệp, bán thâm canh. Tuy nhiên, hiện nay cũng đang tồn tại một số hình thức NTTS tự phát, gây ô nhiễm môi trường sinh thái dẫn đến tình trạng tôm chết hàng loạt và ô nhiễm môi trường đất, nguồn nước, rừng ngập mặn. Đó là những mặt trái của chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ đất lúa năng suất thấp sang NTTS ở một số địa phương cần khắc phục. - NTTS tạo thêm các nhân tố mới thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn, cơ cấu GDP khu vực I. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn đã diễn ra trên phạm vi cả nước, nhất là các vùng nông thôn ven đô thị, ven các khu công nghiệp và các vùng có nhiều ngành nghề truyền thống, vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung. Thực tế là sau khi có Nghị quyết 09 của Chính phủ, phong trào chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ trồng lúa sang nuôi tôm ở các tỉnh ven biển đã phát triển mạnh, nhất là vùng bán đảo Cà Mau và duyên hải Nam Trung Bộ. Năm 2001, cả nước đã chuyển trên 174 nghìn ha đất lúa vùng ven biển sản xuất bấp bênh, năng suất và hiệu quả thấp sang NTTS, chủ yếu là nuôi tôm quảng canh có lợi hơn. Các vùng và địa phương chuyển đổi nhiều và nhanh là vùng bán đảo Cà Mau (Cà Mau chuyển trên 100 nghìn ha, Bạc Liêu chuyển 34 nghìn ha, Sóc Trăng chuyển 25 nghìn ha...), Duyên hải Nam Trung bộ chuyển 9 nghìn ha. Trong 2 năm 2002 và 2003 xu hướng trên vẫn tiếp tục: vụ lúa đông xuân 2002 diện tích gieo cấy giảm 24,2 nghìn ha (-0,8%) so với vụ đông xuân 2001, vụ đông xuân 2003, diện tích lúa tiếp tục giảm 10,2 nghìn ha (vùng ĐBSCL giảm 14,9 nghìn ha, vùng Đông Nam Bộ giảm 1.600 ha, vùng ĐBSH giảm 5.000 ha) so với cùng kỳ năm 2002, chủ yếu chuyển sang nuôi tôm và cá. Năm 2003, xu hướng chuyển đất lúa vùng ven biển năng suất thấp sang nuôi tôm, cá vẫn còn diễn ra sôi động, nhất là vùng bán đảo Cà Mau, nhiều nhất là Kiên Giang (tăng 41%), Sóc Trăng (tăng 38%) Bến Tre, Tiền Giang... Phong trào chuyển đất lúa năng suất thấp sang NTTS còn phát triển cả những vùng đất trũng, nội đồng xa biển theo các hình thức và quy mô khác nhau: nuôi cá ruộng, cá bè, cá lồng, chuyển từ ruộng 2, 3 vụ lúa trước đây sang 1 vụ cá, 1 vụ lúa có hiệu quả cao hơn... ; cả ở các tỉnh miền núi theo hình
  18. thức nuôi cá ruộng như Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang; vùng ven các thành phố, thị xã cũng như vùng nông thôn thuần nông vùng ĐBSCL cũng phát triển các hình thức NTTS đa dạng phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu như nuôi ba ba, ốc, cua lột. Tại một số nơi ở các tỉnh ĐBSCL những năm gần đây có nhiều hộ nông dân tuy nghèo nhưng cũng mạnh dạn bỏ vốn đầu tư nuôi cua lột, thu lãi 5-10 triệu đồng/vụ là bình thường, trong đó có người đã trở thành ông chủ, bà chủ đầu tư hàng chục ao nuôi cua lột xuất khẩu. Những kết quả đó đã góp phần tận dụng đất đai, mặt nước và lao động nông thôn, thúc đẩy sản xuất phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực I nói chung và thủy sản nói riêng những năm gần đây (xem biểu 1.1). Biểu 1.1 CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TRONG NỘI BỘ 3 NGÀNH TRONG KHU VỰC I, THỜI KỲ 1996-2006. (Tính theo giá trị sản xuất, giá hiện hành) Đơn vị tính:% 1996 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Nông, lâm, 100 100 100 100 100 100 100 100 thủy sản Chia ra: 1. Nông nghiệp 80,67 79,06 76,41 76,90 73,52 76,78 75,90 70,62 1.1. Trồng trọt 62,85 61,86 59,52 58,98 55,11 61,51 59,00 51,90 1.2. Chăn nuôi 15,53 15,28 14,97 16,20 16,64 13,53 15,00 17,44 1.3. Dịch vụ 2,29 1,92 1,92 1,72 1,77 1,74 1,90 1,28 2. Lâm nghiệp 5,23 4,75 4,69 4,27 4,32 3,60 3,70 3,56 2.1.Trồng rừng 0,94 0,69 0,62 0,59 0,60 0,50 0,50 0,51 2.2.Khai thác 4,10 3,88 3,88 3,48 3,53 3,00 3,10 2,85 2.3. Dịch vụ 0,19 0,17 0,19 0,20 0,20 0,10 0,10 0,20 3. Thủy sản 14,00 16,00 18,90 18,83 22,15 19.70 22,40 25,82 3.1. Khai thác 9,50 9,00 9,89 8,15 9,60 8,73 9,80 8,81 3.2.Nuôi trồng 4,50 7,00 9,01 10,68 12,55 10,89 12,60 17,01 (Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2006, trang 215- 312, NXB Thống kê) Sự khởi sắc về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn của các vùng, các địa phương tuy có khác nhau nhưng đều có mục đích chung là giảm
  19. số lượng và tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng số lượng và tỷ trọng lao động phi nông nghiệp từ đó tăng năng suất lao động, tăng thu nhập và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của các hộ nông thôn. Đến nay, cơ cấu kinh tế, lao động nông thôn đã chuyển dịch từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp với tốc độ từ 1 đến 1,5%/năm. Nếu năm 1994, cơ cấu kinh tế nông thôn cả nước 71% là nông nghiệp và 29% là công nghiệp và dịch vụ thì đến năm 2001, 2 tỷ lệ tương ứng là 62% và 38%. Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm từ 80% xuống 70% và lao động phi nông nghiệp tăng từ 20% lên 30% trong thời gian tương ứng. Kết quả trên do nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là tác động tích cực của các chính sách kinh tế - tài chính ban hành trong những năm qua đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong khu vực I. Một số chính sách tiêu biểu là: Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 10/11/1998 của Bộ Chính trị về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn; Nghị quyết 09/NQ/CP ngày 15/06/2000 của Chính phủ về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Nghị quyết 03-NQ/CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại. Trên cơ sở các Nghị quyết đó, các Bộ ngành chức năng đã cụ thể hóa bằng các thông tư và giải pháp để thực hiện, trong đó đáng chú ý là Thông tư số 82/2000/TT/BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn chính sách tài chính nhằm phát triển kinh tế trang trại. Quyết định số 423/2000/QĐ-NHNN ngày 22/09/2000 của Ngân hàng Nhà nước về chính sách tín dụng đối với kinh tế trang trại. Quyết định số 224/1999/QĐ-TTg ngày 08/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình phát triển NTTS thời kỳ 2000 - 2010. Các chính sách Kinh tế - Tài chính tác động trực tiếp đến quy mô và tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong khu vực I là: tăng mức đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, nhất là thủy lợi, khoa học công nghệ, hỗ trợ lãi suất tín dụng đối với các dự án nông nghiệp, thủy sản khó thu hồi vốn nhanh, mua tạm trữ xuất khẩu, nuôi thủy sản giống, cho phép các hộ nông dân chuyển đất lúa vùng ven biển, lúa 1 vụ mùa năng suất bấp bênh sang NTTS hoặc trồng cây công nghiệp, cây ăn quả có lợi hơn. Đổi mới chính sách thuế từ thuế nông nghiệp sang thuế sử dụng đất nông nghiệp, mở rộng diện miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với toàn bộ các quỹ đất trong hạn điền... qua đó góp phần giảm mức
  20. đóng góp của hộ nông dân và tăng sức mua ở nông thôn. Các chính sách khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thủy sản kết hợp với chính sách thị trường đã góp phần giải quyết đầu ra cho nông nghiệp và thủy sản. Đặc biệt, chính sách đầu tư cho chương trình đánh bắt hải sản xa bờ thực hiện từ năm 1997 đã giúp ngư dân vùng ven biển có điều kiện đóng mới và cải hoán tàu thuyền và ngư cụ để phát triển mạnh nghề khai thác hải sản xa bờ, tìm các ngư trường mới. Sự tăng nhanh tỷ trọng ngành thủy sản trong cơ cấu giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm khu vực I những năm qua là kết quả tổng hợp của nhiều chính sách và giải pháp kinh tế - tài chính từ nuôi trồng, đánh bắt thủy sản xa bờ đến chế biến và xuất khẩu thủy sản. Do vậy, nét nổi bật trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong khu vực I những năm qua là sự gia tăng nhanh chóng tỷ trọng ngành thủy sản dưới tác động tích cực của cơ chế, chính sách và giải pháp kinh tế - tài chính, trong đó có các giải pháp vốn. Dù chương trình đánh bắt thủy sản xa bờ còn nhiều bất cập, xu hướng chuyển đất lúa sang NTTS còn tự phát nhưng kết quả và tiến bộ của ngành này trong những năm đổi mới là điều cần khẳng định. Với kết quả này, 2 ngành nông nghiệp và thủy sản đã hoàn thành vượt mức kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế do Đại hội IX đề ra cho năm 2005. - Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nội bộ ngành thủy sản. Trong giai đọan từ 1999 - 2006 ngành thủy sản, chủ yếu là nuôi trồng đã đạt được những kết quả và tiến bộ trong phát triển và chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Đây là thời kỳ có tính chất bước ngoặc đối với ngành thủy sản Việt Nam. Với phương châm kết hợp giữa khai thác với nuôi trồng và chế biến xuất khẩu, trong đó trọng tâm là phát triển mạnh NTTS ở những vùng có điều kiện và các vùng mới chuyển đổi đất lúa trước đây, ngành thủy sản đã tăng chất lượng và hiệu quả sản xuất gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường. Thực hiện phương châm đó, một mặt Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế khai thác mọi tiềm năng về vốn và kinh nghiệm, mặt khác tập trung vốn ngân sách, vốn tín dụng ưu đãi cho ngành thủy sản, nhất là thực hiện chương trình đánh bắt thủy hải sản xa bờ và NTTS ven biển, trên sông, hồ. Những kết quả đạt được trong thời kỳ này vượt xa các thời kỳ trước đó cả về quy mô, tốc độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế (xem biểu 1.2).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2