intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới - Thực trạng và giải pháp phát triển

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:114

18
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu góp thêm những luận cứ khoa học và thực tiễn để làm rõ thực trạng phát triển, những chính sách khuyến khích, đồng thời nêu lên những giải pháp để phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới - Thực trạng và giải pháp phát triển

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ LƯU THỊ HỒNG VIỆT Khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới - thực trạng và giải pháp phát triển LUẬN VĂN THẠC SỸ Người hướng dẫn: TS. Đinh Quang Ty Hà nội - 2004
  2. MỤC LỤC Mở đầu ...................................................................................................... 1 Chƣơng 1. Sự cần thiết của khu vực kinh tế tƣ nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Hà Nội................................ 5 1.1. Những luận cứ chủ yếu đúc rút từ lịch sử kinh tế thị trường và từ hệ quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít. ................................................... 5 1.2. Duy trì và khuyến khích sự phát triển lâu dài của khu vực kinh tế tư nhân ở Hà Nội đã hoàn toàn phù hợp với chủ trương và chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. ...................................................... 21 1.3. Khu vực kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng trong cấu trúc kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội. .................................................... 29 Chƣơng 2. Tiềm năng, lợi thế phát triển và thực trạng khu vực kinh tế tƣ nhân ở thành phố Hà Nội...................................................... 38 2.1. Nhận định tổng quát về tiềm năng, lợi thế của thành phố Hà Nội trong việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân. ............................................... 38 2.2. Tác động của đường lối đổi mới và thực trạng của khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội trong những năm gần đây..................................... 41 2.3. Một số nhận xét, đánh giá về thành tựu và hạn chế của khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm đổi mới vừa qua. .................................................................................................. 64 Chƣơng 3. Mục tiêu, phƣơng hƣớng và các giải pháp phát triển khu vực kinh tế tƣ nhân ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2005 - 2010.................................................................................. 75 3.1. Mục tiêu và phương hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội.............................................................................. 77 3.2. Các giải pháp đẩy mạnh phát triển khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội..................................................................................... 84 Kết luận........................................................................................................ 101
  3. Danh mục tài liệu tham khảo...................................................................... 103 1
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đổi mới cơ chế, hoàn thiện quan hệ sản xuất theo nguyên tắc phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất của các thành phần kinh tế là một thành công lớn của Đảng ta trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội. Với những đổi mới trong tư duy lý luận, cơ chế và chính sách, Đảng và Nhà nước đã đổi mới cách nhìn nhận về sự tồn tại các loại hình doanh nghiệp và doanh nhân, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng này mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ Đại hội lần thứ VI đến Đại hội lần thứ IX, Đảng ta luôn luôn nhất quán đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối và chủ trương của Đảng đã được cụ thể hoá thành các văn bản pháp luật của Nhà nước, tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời và phát triển các thành phần kinh tế. Thành phần kinh tế tư nhân đã được khẳng định là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Và gần đây, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã thông qua nghị quyết về “Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Nhìn chung trong phạm vi cả nước, kinh tế tư nhân đã và đang từng bước phát triển cả về quy mô lẫn tốc độ, ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX cũng thừa nhận: kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, phần lớn có quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, trình độ quản lý còn yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất; mặt khác một số cơ chế chính sách của Nhà nước còn chưa phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân. 2
  5. Riêng ở thành phố Hà Nội, khu vực kinh tế tư nhân cũng đang phát triển nhanh, đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, và nhìn chung, đã thể hiện được vai trò cần thiết đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Nhưng theo kết quả khảo sát của các cơ quan chuyên trách của Thành phố cho thấy: tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội chưa được khai thác đúng mức; hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tay nghề, trình độ kỹ thuật, công nghệ, tính năng động sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực này còn thấp. Vì vậy, việc nghiên cứu để đánh giá đúng vai trò, vị trí của khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội trong thời gian hiện nay, từ đó đưa ra những giải pháp chính sách hợp lý cho sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội là một vấn đề cần thiết, nhằm góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, chống “tụt hậu” về kinh tế so với cả nước, tạo điều kiện nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Với những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới - thực trạng và giải pháp phát triển” để thực hiện luận văn cao học, với hy vọng đóng góp một phần cho sự phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm trước đổi mới, theo cách tư duy cũ, thành phần kinh tế tư nhân được xem là đối tượng cải tạo và phải xoá bỏ, vì thế việc nghiên cứu và phát triển thành phần kinh tế này hầu như không được đặt ra. Từ khi Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới, chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc nghiên cứu về thành phần kinh tế tư nhân trở nên sôi động và được nhìn nhận theo hướng tích cực ở nhiều góc độ khác nhau. Từ năm 1986 cho đến nay đã có nhiều bài báo, 3
  6. tham luận khoa học, các công trình nghiên cứu về thành phần kinh tế này cụ thể như: - Đào Thị Phương Liên (1995): “Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong giai đoạn chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. - Nguyễn Huy Oánh (2001): “Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam”, Nghiên cứu kinh tế, (12), tr.45 - 55. - GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền (2002): Thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. - TS Hà Huy Thành (2002): Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ và tư bản tư nhân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Minh Thảo (2003): Kinh tế tư nhân ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học quốc gia, Hà Nội... Các công trình nói trên đã nghiên cứu thành phần kinh tế tư nhân ở nhiều góc độ khác nhau như: phát triển khu vực kinh tế tư nhân, quan điểm về sự phát triển kinh tế tư nhân, các giải pháp cụ thể về môi trường, thể chế chính sách nhằm phát triển kinh tế tư nhân trong phạm vi cả nước nói chung. Song cho đến nay, các đề tài nghiên cứu một cách hệ thống về kinh tế tư nhân ở Hà Nội, hầu như không đáng kể. Do đó, thực hiện đề tài này dưới góc độ kinh tế chính trị, chúng tôi sẽ tập trung phân tích và làm rõ bức tranh về khu vực kinh tế tư nhân ở Hà Nội trong những năm gần đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài: Mục đích: Góp thêm những luận cứ khoa học và thực tiễn để làm rõ thực trạng phát triển, những chính sách khuyến khích, đồng thời nêu lên những giải pháp để phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội. 4
  7. Nhiệm vụ: Thông qua phân tích về vai trò, thực trạng của khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới, luận văn nêu lên một số giải pháp nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội phát triển trong những năm tới. 4. Đối tƣợng và phạm vị nghiên cứu Đối tượng: Nghiên cứu vai trò, vị trí và thực trạng của khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội Phạm vi nghiên cứu: Khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới 5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu Cơ sở lý luận: Dựa trên những luận cứ chủ yếu đúc rút từ lịch sử kinh tế thị trường và từ hệ quan điểm của các nhà kinh điển mácxít, đặc biệt đi từ góc độ sở hữu để phân tích về kinh tế tư nhân. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu: Luận văn vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh... dựa trên các nguồn tài liệu thu thập được về kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội. 6. Đóng góp của luận văn: Xác định cơ bản vai trò, vị trí của khu vực kinh tế tư nhân trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở thành phố Hà Nội hiện nay, từ đó nêu lên một số giải pháp để phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong những năm tới, nhất là từ năm 2005 - 2010. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn học có liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. 5
  8. Chƣơng 1: Sự cần thiết của khu vực kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Hà Nội. Chƣơng 2: Tiềm năng, lợi thế phát triển và thực trạng của khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội. Chƣơng 3: Mục tiêu, phương hướng và các giải pháp phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2005 - 2010. Chƣơng 1 SỰ CẦN THIẾT CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƢ NHÂN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ở Việt Nam nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng, trong suốt một thời gian dài từ sau 1954 đến 1985, kinh tế tư nhân được coi là đối tượng chính của cải tạo xã hội chủ nghĩa, bị cấm đoán ngặt nghèo và kỳ thị rất nặng nề. Từ năm 1986 đến nay, với đường lối đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được hình thành ngày càng rõ nét, nhờ đó, thế và lực của đất nước được nâng lên đáng kể, và trong bối cảnh đó, khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng như ở tất cả các địa phương trong cả nước được khuyến khích phát triển, ngày càng thể hiện rõ vai trò và ảnh hưởng tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên cho đến nay, sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, bên trong xã hội Việt Nam vẫn còn những vướng mắc lớn không chỉ về nhận thức lý luận mà ngay cả trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân. Xuất phát từ tình hình nói trên, việc luận chứng để khẳng định về sự cần thiết của khu vực kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội lâu dài của Việt Nam nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng được chúng tôi coi là nhiệm vụ đầu tiên trong công trình nghiên cứu này. 6
  9. 1.1. Những luận cứ chủ yếu đúc rút từ lịch sử kinh tế thị trƣờng và từ hệ quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít 1.1.1. Phân tích từ góc độ lịch sử và thông lệ của kinh tế thị trường trên thế giới Để có nhận thức đúng và chính sách đúng đối với kinh tế tư nhân ở Việt Nam nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng, dĩ nhiên là cần phải bám sát thực tế và những đặc điểm riêng của quốc gia, của địa phương. Ở đây, chúng tôi chưa đi sâu vào khía cạnh này, vấn đề mà chúng tôi muốn nhấn mạnh là: không thể biệt lập hoá kinh tế tư nhân ở Việt Nam nói chung và ở Hà Nội nói riêng; trái lại phải đặt nó trong mối liên hệ với những trật tự khách quan và có tính phổ biến đã được kiểm nghiệm bởi lịch sử hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường trên thế giới nói chung. 1.1.1.1. Lịch sử phát triển kinh tế của nhân loại không thể tách rời vai trò của kinh tế tư nhân Xét về góc độ lịch sử của nhân loại nói chung, kinh tế tư nhân ra đời tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan. Điều đó về căn bản được quy định bởi quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ở các xã hội khác nhau, kinh tế tư nhân đạt tới trình độ phát triển khác nhau và có vai trò cụ thể khác nhau, và vì vậy, sự nhìn nhận về vị trí của kinh tế tư nhân ở từng thời kỳ cũng khác nhau. Ngay từ khi nền sản xuất hàng hoá mới ra đời, ở nhiều nước châu Âu, kinh tế tư nhân đã bắt đầu xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội. Dựa trên nền tảng của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân phát triển một cách tự phát và khá nhanh bên trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, với nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh, buôn bán đa dạng và phong phú. Trong nền kinh tế hàng hoá có quy mô nhỏ, kinh tế tư nhân chiếm tỉ trọng lớn nhất và có vai trò rất quan trọng trong việc đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng cơ bản của xã hội loài người. 7
  10. Trong xã hội phong kiến ở các nước phương Đông, do sự thống trị của tầng lớp vua chúa và quan lại, với cơ chế ban phát - cống nạp, quan hệ buôn bán dường như bị ngăn cấm, bài xích. Kinh tế tư nhân dưới cơ chế này bị kiểm soát chặt chẽ và hạn chế phát triển. Trong bối cảnh đó, kinh tế tư nhân không có ưu thế như ở các nước phong kiến Tây Âu. Việc đề cao mệnh lệnh của nhà nước phong kiến và sự tập trung ruộng đất cùng một số tư liệu sản xuất chủ yếu khác vào trong tay một số ít người thuộc tầng lớp thống trị đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân ở các nước phương Đông. Đến xã hội tư bản chủ nghĩa, với cơ chế thị trường, kinh tế tư nhân được phát triển mạnh mẽ cả về quy mô lẫn loại hình, kinh tế tư nhân được đánh giá cao và được coi là động lực thúc đẩy sản xuất, đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, với sự khống chế của thiết chế sở hữu công cộng mang nặng tính hình thức về phương diện pháp lý, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung và các hình thức biến tướng của nó, kinh tế thị trường gần hoàn toàn bị phủ nhận. Quan hệ buôn bán trong xã hội bị kìm hãm. Nhận thức về kinh tế tư nhân của giới lãnh đạo và hoạch định chính sách có những tụt hậu nghiêm trọng, những ưu thế về thị trường của kinh tế tư nhân không được chấp nhận, thậm chí Nhà nước còn có những biện pháp kìm hãm không cho kinh tế tư nhân tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, về mặt khách quan, với sự tồn tại và phát triển lâu dài của nền kinh tế thị trường, mỗi thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân ở từng quốc gia đều phải có cơ hội phát triển và được thừa nhận về mặt pháp lý. Kinh tế tư nhân tiếp tục được phát triển và ngày càng bộc lộ những lợi thế vốn có của nó cho nền kinh tế - xã hội. Thực tế đó đã được minh chứng rất sống động bởi toàn bộ quá trình phát triển của nhân loại kể từ khi nền sản xuất hàng hoá giản đơn bắt đầu xuất hiện cho đến tận ngày nay. 8
  11. Như vậy, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường là hoàn toàn phù hợp với quy luật tiến hoá chung của thế giới. 1.1.1.2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường nói chung Từ kinh nghiệm của thế giới, có thể khẳng định rằng: không có kinh tế tư nhân thì về thực chất cũng không có kinh tế thị trường; trong khi đó kinh tế thị trường lại là con đường phát triển mang tính phổ biến đối với cả nhân loại. Trong mọi nền kinh tế thị trường, sự tăng trưởng và phát triển của khu vực tư nhân và sự phát triển của cộng đồng gắn liền với nhau trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Sự tăng trưởng và phát triển của khu vực tư nhân sẽ đem lại thu nhập cao hơn, y tế và giáo dục tốt hơn cho người dân trong cộng đồng. Mặt khác, đối với các doanh nghiệp, thu nhập cao hơn có nghĩa là thị trường rộng lớn hơn, sức khoẻ và giáo dục tốt hơn thì lực lượng lao động có năng suất cao hơn và năng suất cao hơn sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường được thể hiện trên những khía cạnh của đời sống xã hội như phát triển kinh tế, phát triển xã hội và quản lý khu vực công. a. Đối với phát triển kinh tế: Mục tiêu kinh tế của phát triển là nhằm tạo cho người dân có mức thu nhập cao hơn thông qua sự tăng trưởng nhanh về tổng sản phẩm quốc nội. Trong nền kinh tế thị trường, điều này có thể đạt được cùng với nỗ lực của khu vực công và khu vực tư nhân. Thứ nhất, một trong những đóng góp quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân đối với phát triển kinh tế là khả năng huy động vốn cho các ngành sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Nguồn vốn là yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất. Trong một nền kinh tế đang phát triển, nguồn vốn rất khan hiếm. 9
  12. Đặc biệt đối với các nền kinh tế chuyển đổi như ở Việt Nam thì nguồn vốn lại càng khan hiếm hơn khi các tổ chức tài chính chưa phát triển hoặc không có khả năng huy động tiền tiết kiệm từ dân cư, cũng như do hạn chế của ngân sách trong việc phân bổ vốn cho đầu tư. Do đó, khả năng tự huy động vốn của khu vực kinh tế tư nhân trở nên rất quan trọng và cần thiết. Thứ hai, việc phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo ra các cơ hội việc làm. Một trong những kết quả quan trọng của việc huy động và hình thành vốn của các doanh nghiệp tư nhân là tạo ra các cơ hội việc làm cho các thành viên khác trong cộng đồng. Việc làm sẽ mang lại thu nhập cho những người lao động và nâng cao mức sống của gia đình họ. Nhìn chung, chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân khác với nhà quản lý ở các doanh nghiệp nhà nước ở chỗ họ có quyền quyết định lớn hơn trong việc thuê mướn lao động (số lượng, kỹ năng cần thiết của người lao động). Vì vậy, lực lượng doanh nhân không những hoàn toàn có thể tăng số lượng lao động làm thuê theo ý họ, mà còn có thể nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực trong cộng đồng. Thứ ba, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân thường đi liền với việc ứng dụng và quảng bá công nghệ. Một yếu tố quan trọng để tạo được hiệu quả trong sản xuất là công nghệ phù hợp. Thực tế cho thấy, cách suy nghĩ và hành động không bao giờ tự hài lòng của các chủ doanh nghiệp thường xuyên thúc đẩy họ tìm kiếm các công nghệ phù hợp hơn cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Sự phù hợp về công nghệ không phải lúc nào cũng hàm ý là công nghệ tiên tiến nhất mà ở đây là công nghệ phù hợp với những điều kiện của quá trình sản xuất, xét về mặt cấu thành chi phí và các nguyên liệu đầu vào sẵn có. Nếu đem so sánh với các doanh nghiệp nhà nước thì rõ ràng các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân phải đối mặt trực tiếp với những chi phí thực tế về sản xuất, lao động, vốn, nguyên vật liệu. Quá trình tìm kiếm công nghệ phù hợp của một doanh nghiệp tư nhân có ảnh 10
  13. hưởng tích cực nhất đến việc phân bổ một cách có hiệu quả nguồn lực khan hiếm trong nền kinh tế. Thứ tư, phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo nguồn thu thuế cho chính phủ, thông qua hệ thống thuế, các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả sẽ đóng góp vào tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Các khoản đóng góp này giúp duy trì bộ máy hoạt động của chính phủ cũng như là nguồn quan trọng để xây dựng phần lớn các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cần thiết. Để bảo đảm vững chắc nguồn thu này, điều quan trọng là cơ cấu thuế, quy trình thu thuế, quá trình kiểm toán cần được phát triển phù hợp sao cho việc trốn thuế và các tác nhân xấu ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và hiệu quả được tối thiểu hoá. b. Đối với phát triển xã hội: Xét về tổng thể, mục tiêu của phát triển xã hội là tạo nên sự công bằng về cơ hội cho tất cả các thành viên trong xã hội bất kể vị thế kinh tế và xã hội của họ thông qua các dự án xã hội. Những dự án này bao gồm giáo dục và đào tạo, sức khoẻ, nhà ở, trợ giúp cho sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ,... Về trách nhiệm xã hội, nhiều công ty thuộc khu vực kinh tế tư nhân xem trách nhiệm xã hội như là trách nhiệm của họ, hành động với tư cách như những công dân tốt trong xã hội, nhằm bảo đảm rằng những mối quan tâm của xã hội như môi trường, an toàn của khách hàng, an toàn của người lao động sẽ được đề cập, quan tâm một cách thích đáng trong kế hoạch kinh doanh và trong quá trình hoạt động. Tại một số quốc gia, các doanh nghiệp tư nhân thường tuân thủ tốt hơn theo những quy định về mặt môi trường so với các doanh nghiệp nhà nước. Việc thực hiện các dự án xã hội ở nhiều quốc gia cho thấy: các dự án xã hội thành công thường là các dự án do các tổ chức phi chính phủ thuộc khu vực tư nhân thực hiện, chứ không phải là các dự án do các cơ quan thuộc chính phủ trực tiếp thực hiện. Chẳng hạn như ở Philipin, các dự án cho các 11
  14. doanh nghiệp nhỏ vay vốn do các cơ quan chính phủ thực hiện thường có tỷ lệ hoàn trả rất thấp; trong khi đó, tỷ lệ hoàn trả này lại tăng lên đáng kể, khi chúng được giao cho các tổ chức phi chính phủ của khu vực tư nhân quản lý thực hiện thông qua các hợp đồng. Lý do là, khi các tổ chức thuộc chính phủ tổ chức thực hiện thì những người vay vốn thường có ấn tượng rằng họ không thực sự cần thiết phải hoàn trả lại những khoản vốn này, vì đây là tiền chính phủ, mà tiền của chính phủ lại là tiền của mọi người. Tuy nhiên, vấn đề lại hoàn toàn khác khi việc thực hiện dự án do các tổ chức phi chính phủ thuộc khu vực tư nhân thực hiện, người vay cảm thấy mục đích thực sự của dự án và phải bảo đảm chắc rằng những khoản vay của họ sẽ được hoàn trả. Hơn nữa, người đi vay có thể có cảm giác nghĩa vụ do các tổ chức phi chính phủ tạo ra cho họ, những cảm giác mà những nhân viên thuộc chính phủ có thể đã không chỉ rõ cho người vay thấy. c. Đối với quản lý khu vực công: Mặc dù khu vực tư nhân và khu vực công cộng đều có vai trò riêng trong nền kinh tế thị trường, tuy nhiên có rất nhiều công cụ nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động cung cấp dịch vụ công cộng có nguồn gốc ban đầu từ khu vực tư nhân. Tại những quốc gia có sự phối hợp giữa khu vực tư nhân và khu vực công cộng trong việc xây dựng kế hoạch, chính sách phát triển, các viên chức chính phủ thừa nhận rằng các đồng nghiệp ở khu vực tư nhân đã tạo ra những suy nghĩ khách quan, tiến bộ, mới mẻ hơn khi giải quyết các vấn đề. Xét về xu hướng chung, các viên chức chính phủ thường tương đối thụ động và bảo thủ hơn so với các đồng nghiệp năng động, sáng tạo và cầu tiến hơn ở khu vực tư nhân vốn đã quen với môi trường cạnh tranh bên ngoài. Vì thế, những kế hoạch của các doanh nghiệp tư nhân thường sẽ mang tính thực tế, tập trung hơn và có thể đạt tới khả năng linh lợi cao hơn. 12
  15. Ở phần lớn các nền kinh tế thị trường thuộc các nước phát triển, doanh nhân thường được mời vào một vị trí tạm thời ở khu vực công, từ đó họ có thể có cơ hội chuyển tải phương pháp làm việc, cách suy nghĩ cho các nhân viên chính phủ. Một trong những khó khăn mà các nhà kế hoạch và hoạch định chính sách trong nền kinh tế thị trường hay gặp phải là việc dự báo tác động và kết quả của các chính sách, vì họ phải dựa trên các phản ứng của khu vực tư nhân đối với các chính sách này. Bằng cách đưa khu vực tư nhân tham gia một cách chủ động vào quá trình hoạt động và xây dựng chính sách, vấn đề khó khăn này sẽ được tối thiểu hoá. Nhờ có sự tham gia của các đại diện khu vực kinh tế tư nhân, chúng ta có thể hình dung được tác động có thể có của một chính sách nhất định xét đến giác độ phản ứng của khu vực doanh nghiệp. Khu vực tư nhân có thể cung cấp những chỉ dẫn trong việc lựa chọn chính sách và cũng nhờ có khu vực này mà chính sách mang tính kịp thời và cập nhật hơn. Việc tham gia hiệu quả của khu vực tư nhân trong việc xây dựng chính sách đòi hỏi khu vực tư nhân phải được tổ chức sao cho những vấn đề cần phải có chính sách mới hay cần phải có sự thay đổi chính sách có thể được thảo luận một cách tự do, độc lập ở khu vực tư nhân vì họ có quyền tự do bầu cử cho những người đại diện của họ vào các cơ quan xây dựng chính sách. Sự thành công trong việc tham gia của khu vực tư nhân phụ thuộc vào việc các tổ chức tư nhân này được tổ chức hiệu quả và vững chắc như thế nào. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy, trình độ giáo dục của chủ doanh nghiệp và quy mô doanh nghiệp là những nhân tố quan trọng bảo đảm tham gia có hiệu quả với tư cách là một đối tác của chính phủ trong hoạch định kế hoạch, xây dựng chính sách và giám sát thực hiện. Và một nhân tố quan trọng khác là sự sẵn sàng của các viên chức chính phủ trong việc chia sẻ trách nhiệm với khu vực tư nhân trong quá trình ra quyết định và cung cấp những thông tin cần thiết cho quá trình này. Chính phủ phải thể hiện sự sẵn sàng của mình cho khu vực 13
  16. tư nhân thấy, và từ đó các tổ chức của khu vực tư nhân có thể chuẩn bị tinh thần và nhiệt tình tham gia với tư cách như những đối tác ngang bằng trong quá trình hoạch định chính sách. Từ các kết quả phân tích trên đây, có thể khẳng định rằng khu vực kinh tế tư nhân có vai trò hết sức cần thiết và quan trọng trong quá trình tiếp tục phát triển lâu dài của nền kinh tế thị trường trên thế giới hiện nay. Và như vậy, chúng ta có thêm một cơ sở xác đáng để vững tin vào sự cần thiết của khu vực kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội lâu dài của Việt Nam nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng trong tiến trình thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 14
  17. 1.1.2. Phân tích từ góc độ sở hữu theo quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít Vấn đề được coi là có tính nguyên tắc hiện nay khi bàn đến các khía cạnh lý luận và chính sách về phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng là không thể thoát ly hệ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin. Song, yêu cầu hàng đầu đặt ra ở đây là phải hiểu đúng, vận dụng và phát triển sáng tạo những giá trị đích thực khoa học mà các nhà kinh điển mác-xít đã để lại trong điều kiện thực tế của nước ta và của thành phố Hà Nội hiện nay. 1.1.2.1. Những luận cứ rút ra từ quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen Kinh tế tư nhân ra đời là một tất yếu của sự phát triển lịch sử gắn với sự phát triển của sản xuất hàng hoá của sở hữu tư nhân - đó là một trong những luận điểm rất quan trọng của C.Mác và Ph.Ăngghen. Khi nghiên cứu vấn đề sở hữu gắn liền với sự phát triển của sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra mối quan hệ hữu cơ giữa sự phát triển của phân công lao động, của lực lượng sản xuất với sự thay đổi các hình thức sở hữu. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, những giai đoạn phát triển khác nhau của sự phân công lao động cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của sở hữu. Nói cách khác, mỗi giai đoạn mới của phân công lao động cũng quy định những quan hệ giữa các cá nhân với nhau, căn cứ vào quan hệ của họ với tư liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao động. Ở đây sở hữu được hiểu là những hình thức quan hệ của người với tư liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao động, hay đó là những hình thức chiếm hữu của cải vật chất hoặc tinh thần trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Các hình thức sở hữu đã hình thành và biến đổi cùng với tiến trình phát triển của xã hội loài người. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, hình thức sở hữu đầu tiên là sở hữu bộ lạc, phù hợp với giai đoạn chưa phát triển của sản xuất, 15
  18. khi người ta sống bằng săn bắn và đánh cá, bằng chăn nuôi hay nhiều lắm là trồng trọt. Trong giai đoạn ấy, sự phân công lao động còn rất ít phát triển và chỉ giới hạn trong phạm vi mở rộng hơn nữa sự phân công lao động hình thành một cách tự nhiên trong gia đình. Hình thức sở hữu thứ hai là sở hữu công xã và sở hữu nhà nước tồn tại trong thời cổ, và ra đời chủ yếu từ sự tập hợp nhiều bộ lạc thành một thị tộc và chế độ nô lệ vẫn tiếp tục tồn tại ở đó. Cùng với sở hữu công xã thì sở hữu tư nhân về động sản và sau này về bất động sản cũng đã phát triển nhưng dưới hình thức sở hữu ngoại lệ và phụ thuộc vào sở hữu công xã. Hình thức sở hữu thứ ba là sở hữu phong kiến hay sở hữu đẳng cấp. Điểm xuất phát của sở hữu phong kiến là nông thôn với diện tích rộng lớn và dân cư thưa thớt. Đối tượng sở hữu chủ yếu ở đây là ruộng đất. Bên cạnh cơ cấu phong kiến của sở hữu ruộng đất ở nông thôn thì ở thành thị có sở hữu phường hội, tức là sở hữu phong kiến của thủ công nghiệp. Ở đây sở hữu chủ yếu thuộc về những người lao động cá nhân riêng lẻ. Đây là những mầm mống của tư bản nhỏ do một số thợ thủ công riêng lẻ dần dần dành dụm được, tạo tiền đề về phát triển chế độ thợ bạn và thợ học nghề, khiến cho ở thành thị nảy sinh một thang đẳng cấp tương tự như ở nông thôn. Như vậy là trong thời đại phong kiến, hình thức chủ yếu của sở hữu một mặt là ruộng đất với lao động của nông nô đã cột chặt vào nó, mặt khác là những lượng tư bản nhỏ thuộc về sở hữu của bộ phận tiểu chủ có khả năng chi phối lao động của thợ bạn. Cơ cấu của cả hai hình thức đó đều được quyết định bởi những quan hệ sản xuất bị hạn chế, canh tác ruộng đất thô sơ với quy mô nhỏ và công nghiệp tiểu thủ công nghiệp. Trong thời kỳ phồn vinh của chế độ phong kiến, sự phân công lao động cũng không tiến triển được mấy. Trong các dân tộc thời cổ cũng như trong các dân tộc hiện đại, sở hữu tư nhân chỉ thật sự bắt đầu với sở hữu động sản; còn đối với bất động sản như ruộng đất, rừng núi, tài nguyên, khoáng sản do thiên nhiên đem lại thì sở hữu mang tính cộng đồng. Có thể 16
  19. nói, sở hữu đã tiến triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, và đến xã hội tư bản hiện đại do có nền công nghiệp lớn và sự cạnh tranh phổ biến, sở hữu tư nhân thuần tuý đã trút bỏ mọi vẻ ngoài của tính cộng đồng, và khi đó mọi tác động của nhà nước đối với sự phát triển của sở hữu cũng thay đổi một cách căn bản. Như vậy, đối với C.Mác và Ph.Ăngghen, các hình thức sở hữu đã phát triển theo các nấc thang lịch sử. Sở hữu bộ lạc, sở hữu công xã và sở hữu đẳng cấp phong kiến đối với ruộng đất hay động sản phường hội vẫn dựa vào cộng đồng nhất định, chỉ có tư bản là hình thức sở hữu tư nhân thuần tuý nhất. Hình thức sở hữu này đến một giới hạn nhất định sẽ không thích hợp với lực lượng sản xuất đã được xã hội hoá cao trong chủ nghĩa tư bản, tức là nó mâu thuẫn với và cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất, và vì vậy phải bị thay thế bằng một hình thức sở hữu khác có tính xã hội hoá cao. Tư tưởng này đã được C.Mác và Ph.Ăngghen viết trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” như sau: “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xoá bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản”. Nhưng chế độ sở hữu tư sản lại biểu hiện cuối cùng và hoàn bị nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu dựa trên cơ sở những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia. Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức duy nhất đó là: Xoá bỏ chế độ tư hữu. Luận điểm trên của C.Mác và Ph.Ăngghen trước đây được hiểu là chế độ sở hữu tư sản là sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển, của các chế độ tư hữu. Sản xuất nhỏ dựa trên chế độ tư hữu là nguồn gốc sinh ra chế độ sở hữu tư hữu hoặc là tất yếu sẽ phát triển thành sở hữu tư sản. Từ đó không ít người đã suy diễn một cách máy móc và ngộ nhận rằng muốn ngăn cản chủ nghĩa tư bản thì chỉ còn cách duy nhất là xoá bỏ hoàn toàn chế độ tư hữu nói 17
  20. chung. Điều này không những đã bị thực tiễn xã hội bác bỏ mà ngay cả khi đối chiếu với tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đều không đúng. Luận điểm trên của C.Mác và Ph.Ăngghen cần phải hiểu rằng với sự phát triển của lực lượng sản xuất thì chế độ sở hữu phải thay đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tức là những hình thức chiếm hữu của cải vật chất và tinh thần sẽ thay đổi theo sự thay đổi của lực lượng sản xuất. Ở đây sự chiếm hữu cần phải xem xét ở cả khía cạnh đối tượng cần chiếm hữu, chủ thể đi chiếm hữu và phương thức thực hiện sự chiếm hữu. Nếu đối tượng cần chiếm hữu có trình độ tổ chức xã hội hoá cao thì của cải vật chất sẽ và phải được xã hội hoá. Nếu của cải vật chất và tinh thần còn ở trình độ xã hội hoá thấp thì sự chiếm hữu cũng không thể vượt quá trình độ đó của đối tượng chiếm hữu. Vì vậy loài người phải có những hình thức chiếm hữu khác nhau như bộ lạc, công xã, đẳng cấp phong kiến, phường hội, tư bản - đó chính là trật tự tự nhiên của các hình thức sở hữu phù hợp với trình độ phát triển của đối tượng cần chiếm hữu ở những thời kỳ lịch sử khác nhau. C.Mác và Ph.Ăngghen không cho rằng, để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội thì giai cấp vô sản phải xoá bỏ ngay mọi chế độ tư hữu để xây dựng chế độ công hữu bất kể sự phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ nào. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng khi lực lượng sản xuất phát triển và đã đạt tới trình độ xã hội hoá cao thì để tiến hành sản xuất, các cá nhân phải chiếm hữu tổng thể lực lượng sản xuất - có nghĩa là phải có hình thức sở hữu toàn dân (sở hữu toàn xã hội), và khi những cá nhân liên hợp mà chiếm hữu tổng thể lực lượng sản xuất thì chế độ tư hữu cũng bị thủ tiêu. Như vậy, sự thủ tiêu chế độ tư hữu không phải làm theo ý muốn chủ quan được mà phải có những điều kiện khách quan, trong đó điều kiện tiên quyết là sự phát triển cao độ của lực lượng sản xuất. Khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã chỉ ra rằng, chế độ sở hữu tư sản là chế độ tư hữu đặc trưng mâu thuẫn với tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2