intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa quy mô và đòn bẩy tài chính, mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng thương mại Việt Nam

Chia sẻ: Thanh Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:84

40
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của bài nghiên cứu là tìm hiểu mối quan hệ giữa quy mô hoạt động và đòn bẩy tài chính, khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2017. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa quy mô và đòn bẩy tài chính, mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng thương mại Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  HUỲNH HOÀNG TRÚC MỐI QUAN HỆ GIỮA QUY MÔ, ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH VÀ MỨC ĐỘ CHẤP NHẬN RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Thành phố Hồ Chí Minh, Năm 2019
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  HUỲNH HOÀNG TRÚC MỐI QUAN HỆ GIỮA QUY MÔ, ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH VÀ MỨC ĐỘ CHẤP NHẬN RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số : 8340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯ ỜI HƯ ỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA Thành phố Hồ Chí Minh, Năm 2019
  3. TRANG PHỤ BÌA
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng bài luận văn “MỐI QUAN HỆ GIỮA QUY MÔ VÀ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH, MỨC ĐỘ CHẤP NHẬN RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM” là công trình nghiên cứu của riêng rôi và có sự hỗ trợ của Giảng viên hướng dẫn là PGS TS. Nguyễn Thị Liên Hoa. Các thông tin, dữ liệu sử dụng trong luận văn là trung thực; các nội dung trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc, các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này chưa được công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Hồ Chí Minh, năm 2019 Người thực hiện Huỳnh Hoàng Trúc
  5. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC THUẬT NGỮ DANH MỤC BẢNG BIỂU TÓM TẮT ABSTRACT CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ......................................................................................1 1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................................................1 1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .........................................................................7 1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU ...........................................................................8 1.4 PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................8 1.5 KẾT CẤU BÀI NGHIÊN CỨU ...................................................................8 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT ..........................................................10 2.1. CÁC BÀI NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY .................................................10 2.2. XÂY DỰNG GIẢ THIẾT ..........................................................................16 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................28 3.1. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU.........................................................................28 3.2. MÔ TẢ VÀ ĐỊNH NGHĨA CÁC BIẾN ....................................................33 3.3. THU THẬP DỮ LIỆU ...............................................................................40 3.4. KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .........................43 CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..............................................................54 CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ......................................................................................57 5.1. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ..............................................57 5.2. HẠN CHẾ ĐỀ TÀI ....................................................................................58 5.3. HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO ......................................................59 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  6. DANH MỤC THUẬT NGỮ Too big to fail “Quá lớn để sụp đổ” – Một công ty hoặc một tổ chức có quy mô lớn và có tính kết nối với nền kinh tế, khi công ty này sụp đổ sẽ khiến cho nền kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng nặng nề. Systemically important financial Các tổ chức tài chính đạt đến trạng thái “too intermediary – SIFI big to fail” phải nằm trong danh sách bị kiểm soát của chính phủ. Các công ty này phải thường xuyên báo cáo tình hình tài chính và duy trì tỷ lệ rủi ro ở mức quy định. FED Cục dự trữ liên bang Mỹ, đóng vai trò của Ngân hàng Trung ương của Mỹ 2 Stage Least of Square - 2 SLS Mô hình hồi quy hai giai đoạn
  7. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1 : Tổng quan các bài nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa quy mô và rủi ro của các ngân hàng Bảng 2.2 : Tổng hợp các giả thiết Bảng 3.1 : Tổng hợp các biến Bảng 3.2 : Danh sách các ngân hàng thực hiện nghiên cứu Bảng 3.3 : Thống kê mô tả các biến Bảng 3.4 : Ma trận tương quan Pearson Bảng 3.5 : Kết quả mô hình hồi quy 2SLS nhằm kiểm định mối quan hệ giữa quy mô và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Bảng 3.6 : Tổng hợp kết quả các biến có mối quan hệ với hệ số Z-score Bảng 3.7 : Kết quả mô hình hồi quy 2SLS nhằm kiểm định mối quan hệ giữa quy mô và các thành phần cấu tạo nên Z-score của các ngân hàng thương mại Việt Nam (gồm ROA, CAR, độ lệch chuẩn của ROA).
  8. TÓM TẮT Các bài nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa quy mô và mức độ chấp nhận rủi ro ngân hàng, đều cho thấy mối quan hệ này là cùng chiều. Tuy nhiên, các nghiên cứu này còn thiếu bằng chứng thực nghiệm tại các quốc gia đang phát triển, đại diện là Việt Nam. Vì thế tác giả quyết định thực hiện đề tài này nhằm kiểm tra xem mối quan hệ giữa quy mô, đòn bẩy tài chính và mức độ chấp nhận rủi ro cuả các ngân hàng thương mại Việt Nam. Bài nghiên cứu thực hiện dựa trên bộ dữ liệu gồm 23 ngân hàng thương mại cổ phần trong giai đoạn 2009-2017. Tác giả cũng xem xét về mối quan hệ giữa các thành phần cấu tạo nên hệ số rủi ro Z-score (gồm ROA, độ lệch chuẩn ROA và hệ số CAR) và quy mô ngân hàng, và các biến kiểm soát khác. Mô hình hồi quy hai giai đoạn 2 SLS với dữ liệu bảng được sử dụng trong bài nghiên cứu này do xuất hiện nội sinh giữa các biến. Kết quả tìm thấy: • Thứ nhất, mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mô và mức độ chấp nhận rủi ro. • Thứ hai, mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mô và đòn bẩy tài chính. • Thứ ba, mối quan hệ ngược chiều giữa Rủi ro ngân hàng chấp nhận và Tỷ lệ cổ phần ban quản trị nắm giữ. Dựa trên kết quả bài nghiên cứu này, tác giả kỳ vọng sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách có cái nhìn chính xác hơn về ảnh hưởng của quy mô và cấu trúc vốn lên rủi ro ngân hàng chấp nhận. Từ đó, đưa ra các quyết định giúp cải thiện quản trị rủi ro ngân hàng thương mại. Từ khóa : quy mô ngân hàng, rủi ro, đòn bẩy, Too big to fail, 2 SLS
  9. ABSTRACT Previous researches on the relationship between size and risk-taking of the bank is positive corelation. However, these studies lacked empirical evidence in developing countries, represented by Vietnam. Therefore, the author decides to examines the relationship between size, leverage, and risk-taking of 23 commercial banks in Viet Nam during the period of 2009 - 2017. The author also examines the relationship between the combination of the Z-score (including ROA, standard deviation of ROA and CAR) and bank size. Two-stage 2- SLS regression model with panel data is used due to endogenous variables. This exam has three contributions: • First, a positive correlation between bank size and bank risk-taking. • Second, a positive correlation between bank size and leverage. • Third, a negative correlation between risk-taking and holding shares ratio of management. Based on the results of this study, the author expects to help policy makers have a accurated view of the impact of size and structured of the bank on risks. Since then, making decisions to help improve the risk management. Keywords: bank size, risk, leverage, Too big to fail, 2 SLS
  10. 1 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Sự ổn định và thịnh vượng của hệ thống tài chính là bàn đạp rất quan trọng để kinh tế tăng trưởng bền vững. Đặc biệt là các ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc dẫn dắt cả nền kinh tế. Vì thế nên các tổ chức tài chính và các ngân hàng lớn này luôn nhận được những lợi ích và ưu ái đặc biệt từ các chính sách của chính phủ, ngân hàng trung ương. Các tổ chức khổng lồ này hoạt động với niềm tin rằng sẽ nhận được sự hỗ trợ từ chính phủ khi rủi ro xảy ra. Vì những đặc quyền đó nên xuất hiện các rủi ro đạo đức kèm theo. Các tổ chức “Too big too fail” đã bóp méo các ưu đãi hỗ trợ của chính phủ, những ưu đãi đặc quyền này đã khuyến khích các tổ chức này luôn tìm cách tối đa hoá lợi nhuận của mình trong ngắn hạn bằng cách chấp nhận rủi ro quá mức. Và khi có rủi ro xảy đến, họ sẽ đi cầu cứu chính phủ với các chính sách bảo trợ độc quyền mà chỉ họ nhận được. Các gói cứu trợ của chính phủ từ đâu, một câu trả lời rất đơn giản là từ tiền thuế của người dân. Kể từ sau khủng hoảng tài chính thế giới, thuật ngữ “Too big to fail” trở thành tâm điểm của sự chỉ trích. Thuật ngữ “Too big to fail” có nghĩa là các tổ chức tài chính lớn như các doanh nghiệp, các ngân hàng có quy mô, khả năng kết nối lớn và có sức ảnh hưởng trong nền kinh tế buộc các chính phủ phải tăng cường hỗ trợ họ khi có các bất ổn tài chính xảy ra dẫn đến sự sụp đổ hệ thống tài chính nhằm tránh những những hệ luỵ nghiêm trọng cho cả nền kinh tế. Câu chuyện “Too big to fail” và cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ mở đầu với Bear Stearns. Tháng 3 năm 2008, Bear Stearns là một ngân hàng tuy nhỏ nhưng rất nổi tiếng trong giới tài chính và là ngân hàng đầu tiên trong danh sách các tổ chức quá lớn để sụp đổ, JP Morgan Chase đã mua lại ngân hàng này với sự hỗ trợ của Cục dự trữ liên bang Mỹ 30 tỷ USD, vì FED lo ngại rằng sự sụp đổ của Bear Stearns sẽ ảnh hưởng đến niềm tin của dân chúng vào hệ thống tài chính của Mỹ. Cùng năm đó, một ngân hàng đầu tư khác Lehman Brothers cũng sụp đổ, tuy nhiên, thời điểm đó, Bộ trưởng Tài chính Hank Paulson không mở gói cứu trợ như đã làm
  11. 2 với Bear Stearns. Vào thứ hai tiếp theo khi Lehman Brothers nộp đơn xin phá sản, chỉ số Dow Jones giảm 350 điểm. Hai ngày tiếp theo, thị trường tài chính rơi vào trạng thái hoảng loạn. Câu chuyện cứu trợ hoàn toàn dựa vào số tiền chính phủ đưa ra, các chính sách lúc này không còn hiệu quả để giải quyết cho khủng hoảng, cuối cùng sau nhiều tính toán, khoản cứu trợ 700 tỷ USD được đưa ra để tái cấp vốn cho các ngân hàng lớn đang điêu đứng. Citigroup đổi 27 tỷ USD cổ phần ưu đãi với lãi suất sinh lợi 8%/năm để lấy 20 tỷ USD tiền mặt cứu trợ. Các ngân hàng đầu tư Goldman Sachs và Morgan Stanley buộc phải chuyển thành ngân hàng thương mại để có thể mượn tiền từ FED. Tiếp đó là vụ rót tiền lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ vào Fannie Mae và Freddie Mac để Chính phủ đoạt quyền kiểm soát doanh nghiệp. Với con số 187.5 tỷ USD, số tiền này lớn hơn rất nhiều so với đợt bỏ ra cứu trợ trong đợt khủng hoảng tín dụng năm 1989. Fannie Mae và Freddie Mac là hai kẻ khổng lồ đóng vai trò trung tâm trong thị trường địa ốc Mỹ. Hai định chế tài chính này được chính phủ bảo trợ để thu mua các khoản vay mua nhà trả góp từ ngân hàng, các tổ chức tài chính khác rồi bán ra thị trường thứ cấp. Vì các khoản thế chấp này được ngầm đảm bảo bởi chính phủ nên hai công ty này chấp nhận rủi ro nhiều hơn để đem lại lợi nhuận cao hơn. Cuối năm 2007, khi các ngân hàng kiểm soát hoạt động tín dụng chặt chẽ hơn, các khoản vay trả góp của hai công ty này nắm giữ đã khoảng 90% thị trường. Vì thế, chính phủ không thể không ra tay cứu trợ, một phản ứng dây chuyền chắc chắn sẽ xảy ra với hệ thống tài chính của Mỹ nếu hai kẻ khổng lồ này khủng hoảng. Trường hợp Tập đoàn Bảo hiểm Quốc tế Mỹ (AIG) cũng là một ví dụ điển hình về “Too big to fail”. AIG quá lớn, nằm trong một mạng lưới quá phức tạp của hệ thống tài chính, nên không thể để rơi vào tình trạng vỡ nợ. Vì thế chính phủ phải ra tay ứng cứu khẩn cấp với gói cứu trợ trị giá 182 tỷ USD, nhằm đưa AIG thoát khỏi nguy cơ phá sản và tránh cho thị trường tài chính nước này một kết cục tồi tệ.
  12. 3 Để hạn chế những tác động xấu từ các tổ chức tài chính lớn, nhiều ý kiến cho rằng phải giảm sự kết nối giữa các tập đoàn, giảm quy mô của các tập đoàn có sức ảnh hưởng lớn đối với thị trường, khi quy mô, năng lực của các tổ chức này giảm thì sẽ làm mức độ chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp giảm, gánh nặng của nền kinh tế cũng giảm xuống. Năm 2011, Dự luật “Too big to fail” được đề xuất bởi Hạ nghị sĩ Paul Kanjorski của Đảng Dân chủ được đưa ra Uỷ ban tài chính của Hạ viện Mỹ. Theo dự luật này, chính phủ có quyền phân tán, giải thể các công ty tài chính quá lớn, có mức liên kết và tầm ảnh hưởng quá rộng, đến mức có thể gây hại cho nền kinh tế thậm chí cả khi các công ty này vẫn đang hoạt động tốt. Những người bỏ phiếu thuận cho rằng, chính phủ không thể sử dụng tài sản, tiền thuế của người dân để cứu trợ những “ông lớn” trong ngành tài chính – những công ty lợi dụng sự hỗ trợ của chính phủ để kiếm lợi nhuận cao và khi đối mặt với khủng hoảng lại đi xin cầu cứu. Bản thân các tổ chức tài chính này phải có trách nhiệm với các khoản đặt cược đầu tư của mình và phải chịu trả giá khi gặp thất bại. Tuy nhiên, khi dự luật này được đưa ra, những lập luật phản đối xuất hiện. • Lập luận đầu tiên là họ cho rằng điều này vi phạm quyền được tự do sở hữu và được phát triển của cá nhân, tổ chức. • Lập luận thứ hai, khi ràng buộc giảm quy mô, thì sẽ làm suy yếu khả năng cạnh tranh của các tổ chức tài chính trên thị trường quốc tế. Và điều đó cũng dẫn đến việc đánh mất thị phần cho các đối thủ cạnh tranh khác. • Lập luận thứ ba, rất khó xác định được ngưỡng quy mô và định nghĩa chính xác về “ông lớn” trên thị trường. Thế nào gọi là lớn và quy mô tầm cỡ cần bị kiểm soát kiềm nén lại. • Lập luận thứ tư, những người phản đối dự luật đã đưa ra các ví dụ rằng không chỉ các doanh nghiệp có quy mô lớn, mà cả những doanh nghiệp nhỏ vẫn có tác động đáng kể đến nền kinh tế.
  13. 4 Dermine và Schoenmaker (2010) cho rằng việc giới hạn quy mô doanh nghiệp không phải là công cụ tốt nhất, dựa trên phát hiện rằng các nước có ngân hàng tương đối nhỏ phải đối mặt với chi phí cứu trợ lớn; ngoài ra, bài nghiên cứu này còn cảnh báo rằng việc giới hạn quy mô có thể có các tác động không mong muốn, chẳng hạn như thiếu đa dạng rủi ro tín dụng. Theo họ, quy mô không phải là yếu tố tác động đến việc chấp nhận rủi ro của những tổ chức tài chính, ngân hàng lớn. Việc kiểm soát quy mô và sự phát triển của các doanh nghiệp là hoàn toàn phi lý. Sau khủng hoảng 2008, câu chuyện về việc các tổ chức “Too big to fail” lại đưa ra một cái nhìn khác về việc quy mô ảnh hưởng đến rủi ro doanh nghiệp. Cụm từ SIFI được thay thế và các doanh nghiệp không còn muốn khuyếch đại quy mô. Các tập đoàn với quy mô lớn không còn nhận được đặc quyền từ chính phủ, và nếu đã đạt ở trạng thái “too big” sẽ được chính phủ thêm vào danh sách SIFI, đây là danh sách các tổ chức tài chính có quy mô lớn mà chính phủ cần giám sát cứng rắn và chặt chẽ hơn so với các tổ chức quy mô nhỏ. Với quy mô lớn và sức ảnh hưởng với nền kinh tế, khi các tổ chức tài chính đạt đến ngưỡng có thể vào SIFI, họ sẽ dừng lại xem phương án nào sẽ có lợi cho công ty. Tuỳ vào chiến lược công ty, một số sẽ vẫn tiếp tục gia tăng đầu tư khuyếch đại tài sản và doanh thu để được vào nhóm SIFI để nhận được sự cứu trợ của chính phủ khi khủng hoảng. New York Community Bancorp là tập đoàn tài chính nắm giữ lượng tiền gửi tiết kiệm lớn thứ 4 tại Mỹ, thực hiện kế hoạch nhằm thu mua công ty tài chính Astoria – công ty mẹ của Astoria Bank, nhằm mục đích mở rộng mạng lưới ngân hàng của hãng. Các công ty trong nhóm SIFI dù họ phải chịu nhiều quy định kiểm soát nghiêm ngặt và yêu cầu minh bạch tài chính của chính phủ hơn các công ty khác, thường xuyên báo cáo tình hình tài chính và kiểm soát rủi ro chặt chẽ nhưng đổi lại họ sẽ đảm bảo nhận được sự ưu ái của chính phủ khi nền kinh tế bị khủng hoảng Một số công ty khác lại có lối đi riêng tránh gia nhập vào SIFI bằng cách chia tách các bộ phận hoạt động, thu nhỏ quy mô. Họ cho rằng việc bị chính phủ kiểm soát sẽ
  14. 5 cản trở sự phát triển của công ty. Các dự án với lợi nhuận khổng lồ nhưng đi kèm rủi ro cao sẽ khó để vượt qua các quy định của chính phủ. First Niagara Bank - với giá trị tài sản là 39 tỷ USD, nhưng họ không muốn trở thành một SIFI, thay vào đó họ lại đang đàm phán để tự bán mình cho Ohio Keycorp vì họ cho rằng gia nhập SIFI sẽ làm cản trở sự phát triển. Sau khủng hoảng 2009, không còn có thể khẳng định theo “Too big to fail” rằng các công ty càng lớn thì mức độ chấp nhận rủi ro càng cao, mà các công ty này chấp nhận sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ. Ngược lại các công ty đang trên đà tăng trưởng mạnh lại kiểm soát chặt chẽ quy mô để không gia nhập nhóm SIFI, để có thể được tự do phát triển, chấp nhận các dự án rủi ro để thu về được lợi nhuận khủng, câu chuyện về quy mô lớn với mức độ chấp nhận rủi ro cao không còn đúng tại thời điểm hiện tại. Tại Việt Nam, những ngân hàng nhỏ lại là những ngân hàng gây ra rủi ro lan truyền trong nền kinh tế. Nhiều sự kiện từ ba ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước mua giá 0 đồng đã cho thấy khủng hoảng bắt đầu từ những ngân hàng nhỏ lẻ gồm Ngân hàng Xây dựng (VNCB), Ngân hàng Đại Dương (OceanBank), Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu (GPBank). Từ thời điểm Ngân hàng xây dựng - VNCB là ngân hàng đầu tiên bị NHNN mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần với giá 0 đồng cho đến nay. Những ngân hàng 0 đồng này sau khi tái cấu trúc vẫn không cho thấy kết quả khả quan. Cuối năm 2017, kiểm toán nhà nước cho thấy kết quả tái cơ cấu đều không mấy khả quan, tài chính của cả ba ngân hàng vẫn không được cải thiện, hoạt động kinh doanh tiếp tục thua lỗ lớn, việc âm vốn chủ sở hữu ngày càng tăng. Từ ngày 15/1/2018, Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi đã chính thức có hiệu lực thi hành cho phép các ngân hàng yếu kém được phép phá sản. Và bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam, cả gốc và lãi của một cá nhân tối đa là 75 triệu đồng, tăng từ 25 triệu đồng lên 75 triệu đồng. Con số 75 triệu này là khá thấp và vô lý dù số tiền gửi của người dân có thể trên vài trăm triệu hoặc vài tỷ đồng. Khi ngân hàng thực sự phá
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
17=>2