intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển tài trợ xuất khẩu tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

25
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài có cấu trúc gồm 3 chương trình bày những vấn đề cơ bản về hoạt động tài trợ XK của NHTM; thực trạng họat động tài trợ XK tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; giải pháp đa dạng hóa hình thức tài trợ XK tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển tài trợ xuất khẩu tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

  1. 0 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ------------------- PHẠM THỊ NHÀN PHÁT TRIỂN TÀI TRỢ XUẤT KHẨU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH TP. Hồ Chí Minh - Năm 2008 GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  2. 1 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT 1. Bao thanh toán : BTT 2. Ngân Hàng : NH 3. Ngân Hàng Nhà Nước : NHNN 4. Ngân Hàng Thương Mại : NHTM 5. Ngân Hàng Thương Mại cổ phẩn : NHTMCP 6. Nhập khẩu : NK 7. Phòng giao dịch : PGD 8. Trung tâm tín dụng : TTTD 9. Xuất khẩu : XK 10. Xuất nhập khẩu : XNK GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  3. 2 DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU. BẢNG 2.1. Dư nợ tài trợ XK tại các NHTM trên địa bàn Đồng Nai BẢNG 2.2. Doanh số thanh toán XK tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Đồng Nai BẢNG 2.3. Dư nợ tài trợ XK theo hình thức (B) tại các NHTM trên địa bàn Đồng Nai. BẢNG 2.4. Tỷ trọng dư nợ của hình thức (B) so với dư nợ tài trợ XK. BẢNG 2.5. Dư nợ tài trợ XK theo hình thức (C) tại các NHTM trên địa bàn Đồng Nai. BẢNG 2.6. Tỷ trọng dư nợ của hình thức (C) so với dư nợ tài trợ XK. BẢNG 2.7. Dư nợ tài trợ XK theo hình thức (D) tại các NHTM trên địa bàn Đồng Nai. BẢNG 2.8. Tỷ trọng dư nợ của hình thức (D) so với dư nợ tài trợ XK GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  4. 3 LỜI MỞ ĐẦU * Mục đích nghiên cứu của đề tài. XK là một trong những lĩnh vực quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Ngày 1- 2/03/2006, Hội nghị thương mại toàn quốc đã diễn ra ở Hà Nội. Tại đây, vai trò của XK tiếp tục được khẳng định là một động lực quan trọng nhất cho phát triển kinh tế trong 5 năm tới, góp phần quan trọng vào tốc độc tăng trưởng kinh tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tác động tích cực đến thị trường trong nước, kích thích sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần tích cực cải thiện cán cân thanh toán, nâng cao uy thế của Việt Nam trên trường quốc tế… Việt Nam đang mong muốn đẩy mạnh XK, giảm nhập siêu và vươn lên xuất siêu vào năm 2010. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, sự cọ xát trong cạnh tranh của các DN Việt Nam và của cả nền kinh tế ngày càng khốc liệt hơn trong sân chơi toàn cầu. Đã có những bộ phận DN phải trả giá và có những bộ phận DN bứt phá vì đã thích nghi được với luật chơi. Để DN có thể thích nghi từ đó đứng vững và phát triển được trên thị trường trong điều kiện hội nhập, các DN không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải chuyển mạnh sang hướng cải thiện khâu nghiên cứu và phát triển (R&D), marketing và phân phối, tăng cường phát triển các loại hình dịch vụ để tạo thêm các giá trị mới. Điều này đòi hỏi DN phải biết ứng dụng tiến bộ công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời phải có được nguồn nhân lực phục vụ cho quản trị DN, chuyên môn kỹ thuật và cả những lao động có tay nghề cao. Tất cả những điều đó cần phải có nguồn vốn để hỗ trợ. Chính điều đó làm phát sinh nhu cầu cần có công cụ tài trợ hiệu quả và linh hoạt. Một trong những công cụ tài trợ thì hoạt động tài trợ XK của các NHTM là hình thức tín dụng an toàn mang lại hiệu quả, lợi nhuận cao, tạo nguồn thu ngoại tệ đáp ứng cho nhu cầu thanh toán NK tại NH, thúc đẩy phát triển các dịch vụ NH khác. Hiện nay, các NHTM Việt Nam đã và đang chú trọng vào việc mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ tài trợ XK. Tính đến năm 2007 hệ thống NH trên địa bàn tỉnh Đồng Nai gồm 22 NHTM tiếp tục phát triển nhanh và ổn định, góp phần tạo thêm sinh khí cho thị trường tài chính tiền tệ trong tỉnh, các NHTM trên địa bàn Đồng Nai giữ vững vị thế "top 3" trên bản GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  5. 4 Để có thể giữ vững được vị thế của mình trong lĩnh vực tài trợ XK, một yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với các NHTM trên địa bàn Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay là phải phát triển đa dạng hóa các loại hình tài trợ XK để gia tăng khả năng tiếp cận nguồn tài trợ XK, thỏa mãn tốt hơn nhu cầu tài trợ của các DN XK về cả số lượng và chất lượng. Đó là lý do tôi chọn đề tài : " Phát triển tài trợ XK tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Đồng Nai" làm luận văn tốt nghiệp của mình. * Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Luận văn đề cập thực trạng hoạt động tài trợ XK tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Phân tích số liệu thực tế về hoạt động tài trợ XK tại một số NHTM có hoạt động tài trợ XK tiêu biểu trong thời gian 3 năm gần đây. Từ việc phân tích thực trạng, tham khảo, trao đổi ý kiến với người hướng dẫn khoa học cũng như trao đổi trực tiếp với cán bộ phụ trách nghiệp vụ tại NH để đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện các hình thức tài trợ XK hiện có và triển khai các hình thức tài trợ XK mới nhằm đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động tài trợ XK tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. * Phương pháp nghiên cứu. Trong suốt quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp tổng hợp, phân tích thống kê, so sánh và đối chiếu nhằm chọn số liệu thực tế đáng tin cậy, xử lý đúng đắn và khoa học. Bên cạnh các phương pháp đó luận văn còn chú trọng đến việc kết hợp với việc quan sát các hoạt động thực GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  6. 5 * Kết cấu của đề tài. Nội dung của Luận văn được thể hiện qua 3 chương như sau : Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về hoạt động tài trợ XK của NHTM. Chương 2 : Thực trạng họat động tài trợ XK tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Chương 3 : Giải pháp đa dạng hóa hình thức tài trợ XK tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Để hoàn thành tốt cuốn luận văn này, học viên xin chân thành cám ơn các Giảng Viên khoa sau Đại Học trường Đại Học Kinh Tế TP.Hồ Chí Minh, đã đem lại cho toàn thể học viên cao học khóa 15 kiến thức chuyên sâu về ngành Tài Chính NH, xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của GS.TS Dương Thị Bình Minh, và sự ủng hộ động viên của các đồng nghiệp, bạn bè. GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  7. 6 CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ XK CỦA NHTM. 1.1. Hoạt động tài trợ XK của NHTM. 1.1.1.XK và vai trò của hoạt động XK trong nền kinh tế. Trong bối cảnh kinh tế hiện đại với tiến trình toàn cầu hóa và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, một quốc gia muốn phát triển kinh tế không thể chỉ dựa vào sản xuất trong nước mà còn phải mở rộng quan hệ giao dịch trên thị trường thế giới. Trên cơ sở khai thác tiềm năng và những lợi thế kinh tế vốn có, nền kinh tế ngoài việc sản xuất hàng hóa dịch vụ phục vụ nhu cầu nội địa còn có thể tạo nên những thặng dư có thể XK sang các nước khác. XK giúp cho các quốc gia mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần tạo nguồn ngoại tệ phục vụ nhu cầu NK máy móc thiết bị phục vụ sản xuất và các hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, nâng cao mức sống người dân. XK và NK là hai mặt chính của hoạt động ngoại thương, nhưng hầu hết các quốc gia đều tìm mọi biện pháp khuyến khích mạnh mẽ XK đồng thời cố gắng hạn chế NK nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. XK thường được xem là một trong những mũi nhọn then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế quốc gia. Vai trò của hoạt động XK đối với phát triển kinh tế của một quốc gia được thể hiện ở những mặt sau: - Phát huy và khai thác những tiềm năng và lợi thế nền kinh tế - Thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo công ăn việc làm, thực hiện phân công lại lao động hợp lý. - Góp phần cơ cấu lại các ngành sản xuất trong nước từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển. - Tạo nguồn thu ngoại tệ và tích lũy vốn cho nhu cầu đầu tư. - Mở rộng thị trường, tham gia ngày càng sâu rộng vào các quá trình phân công lao động quốc tế. Thực tiễn kinh tế thế giới cũng đã cho thấy giữa mức tăng tưởng ngoại thương và nhịp độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ. Những nước có mức phát triển XK nhanh sẽ có nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao. Những nước áp GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  8. 7 1.1.2. Khái niệm tài trợ XK. Tài trợ XK là một mảng trong hoạt động tài trợ XNK của NHTM. Tài trợ XNK của NHTM bao hàm các hoạt động mang tính chất tài trợ của NHTM nhằm đáp ứng những nhu cầu đặc thù về tài chính và uy tín trong kinh doanh của các DN XNK trong quá trình giao dịch ngoại thương. Quá trình giao dịch ngoại thương đối với nhà XK là toàn bộ diễn biến của thương vụ XK từ lúc tìm kiếm đối tác, chào hàng, thiết lập hợp đồng, thu gom, chuẩn bị hàng hóa đến khi giao hàng, lập chứng từ để được thanh toán…. và hoàn tất hợp đồng ngoại thương. Trong suốt quá trình này, nhà XK cần đến tài trợ của NH để cho hoạt động được liên tục, không bị gián đoạn trong thời gian chờ tiền thanh toán từ mỗi thương vụ. Tài trợ XK của NHTM là một khoản tín dụng được cấp bởi NH. Tuy nhiên, NH chỉ tham gia tài trợ với một số vốn chiếm tỷ lệ nhất định trong tổng số vốn cần thiết cho thương vụ, phần còn lại phải là vốn của DN. Với bản chất là một khoản tín dụng của NHTM nên tài trợ XK cũng phải tuân theo các nguyên tắc, quy định tín dụng và các giới hạn tín dụng. Tuy nhiên tài trợ XK cũng có những đặc thù riêng biệt so với hình thức cho vay thông thường : - Đối tượng tài trợ phải mang tính chất thương mại và vì mục tiêu thương mại. Thông thường đối tượng này là hàng hóa, dịch vụ hoặc các dự án do vậy chủ thể được tài trợ phải là các pháp nhân có đăng ký kinh doanh. - Khi thực hiện tài trợ XK, NH thường quy định tất cả doanh số bán hàng của thương vụ XK đó phải được giao cho NH để thu hồi nợ vay trước khi hoàn trả phần còn lại cho nhà XK. Do đặc tính ấy mà tài trợ XK được xem là loại tài trợ tự giải, nghĩa là một khoản tín dụng mà nợ vay được thanh toán tự động bằng nguồn tiền bán hàng của chính hàng hóa mà nó tài trợ. - Trong tài trợ XK, đối tượng tài trợ và đối tượng trả nợ có thể khác nhau, NH tài trợ nhà XK nhưng lại thu nợ từ nhà NK hoặc từ NH của người NK. Do vậy, không nhất thiết phải đảm bảo các điều kiện về tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà XK, miễn là khoản tài trợ có cơ sở thu nợ vững chắc từ phía người mua GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  9. 8 - Cùng với việc áp dụng các phương thức TTQT trong giao dịch ngoại thương, NH có thể giám sát và nắm quyền kiểm soát chặt chẽ đối với quá trình lưu chuyển chứng từ, hàng hóa và tiền thanh toán. Do vậy, tài trợ xuất khẩu có thể ít rủi ro hơn so với hình thức tài trợ vốn hoạt động thông thường. 1.1.3. Cơ sở tồn tại và phát triển của hoạt động tài trợ XK. Sự ra đời tồn tại và phát triển của hoạt động tài trợ ngoại thương gắn liền với quá trình hành thành và lớn mạnh của nền thương mại quốc tế. Ngoài những khó khăn thông thường như trong kinh doanh thương mại nội địa, các DN tham gia ngoại thương còn phải đương đầu với những nguy cơ dẫn đến rủi ro và thất bại. Những nguy cơ này xuất phát từ nhiều yếu tố đặc thù trong giao thương quốc tế về thời gian thực hiện giao dịch và khoảng cách địa lý, về loại tiền thanh toán và những biến động tỷ giá hối đoái, về sự khác biệt luật lệ, tập quán kinh doanh và các quy định điều tiết của Chính phủ…Chính những khó khăn và phức tạp nảy sinh trong quá trình giao thương đòi hỏi có sự tham gia của NHTM, NH đem lại cho khách hàng sự hiểu biết về mặt kỹ thuật và là chỗ dựa tài chính cho các DN. Có thể nói, hoạt động tài trợ ngoại thương là một yêu cầu tất yếu khách quan, gắn liền với quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước với nhau. Qua các hoạt động tài trợ ngoại thương, NH cung cấp giải pháp và kỹ thuật tài trợ phong phú, hữu hiệu, giải quyết những khó khăn về tài chính và uy tín kinh doanh ngoại thương của DN. Trong hoạt động kinh doanh XK, mỗi nhà XK không những phải đối đầu với các DN bản xứ mà còn phải cạnh tranh với vô số DN XK khác trên toàn cầu. Người mua nước ngoài cũng ngày càng khắt khe hơn về uy tín, chất lượng hàng hóa dịch vụ cung ứng, và bao giờ cũng lựa chọn nhà cung cấp nào mời chào nhiều ưu đãi nhất, mà chủ yếu là ưu đãi về điều khoản thanh toán. Trong khi đó, nhà XK nào cũng muốn được thanh toán tiền hàng càng sớm càng tốt, hoặc nhiều trường hợp nhà XK không có đủ vốn để thu mua, chuẩn bị hàng hóa XK. Do đó họ cần tài trợ của NH để vừa có thể đảm bảo dòng ngân lưu của mình được điều hòa, vừa thực GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  10. 9 Đối với NHTM, tài trợ XK là hình thức cho vay mang lại hiệu quả cao, an toàn, hoạt động tài trợ XK bên cạnh việc đem lại một nguồn thu nhập lãi và phí dịch vụ còn tạo nguồn thu ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu tài trợ NK. Với trình độ kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán ngày càng phát triển, các phương thức TTQT ngày càng đa dạng và hoàn thiện, hoạt động tài trợ XK phát triển dưới nhiều hình thức ngày càng phong phú, phục vụ một cách hiệu quả cho hoạt động XK. Ngoài ra, thông qua hoạt động tài trợ XK NH còn mở rộng các mối quan hệ với các DN và NH nước ngoài, nâng cao uy tín trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, các chính sách và biện pháp khuyến khích XK của Chính phủ cũng là một trong những nhân tố quyết định mức độ tham gia tài trợ XK của các NHTM. Nhờ vào các chương trình tín dụng XK, bảo hiểm tín dụng XK, các quy định pháp lý ràng buộc các NHTM vào mục tiêu phát triển ngoại thương…Chính phủ các nước đã tạo điều kiện cho hoạt động tài trợ XK của các NH ngày càng mở rộng và phong phú hơn. 1.1.4. Các cam kết quốc tế trong lĩnh vực NH đối với tài trợ XK. * Về cho vay XK Đối tượng cho vay là nhà XK có hợp đồng XK và nhà NK có hợp đồng NK hàng hoá thuộc Danh mục mặt hàng vay vốn tín dụng XK. Mức vốn cho vay bằng tối đa bằng 85% giá trị hợp đồng XK, NK đã ký hoặc giá trị L/C đối với cho vay trước khi giao hàng hoặc giá trị giá hối phiếu hợp lệ đối với cho vay sau khi giao hàng. Thời hạn cho vay được xác định theo khả năng thu hồi vốn phù hợp với đặc điểm của từng hợp đồng XK và khả năng trả nợ của nhà XK hoặc nhà NK nhưng không quá GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  11. 10 * Về bảo lãnh tín dụng XK Đối tượng bảo lãnh là nhà XK có hợp đồng XK hàng hoá thuộc Danh mục mặt hàng vay vốn tín dụng XK. nhưng không vay vốn tín dụng XK của nhà nước. Mức bảo lãnh cho nhà XK vay vốn không quá 85% giá trị hợp đồng XK hoặc giá trị L/C. Nhà XK được bảo lãnh phải trả phí bảo lãnh bằng 1%/năm trên số dư tín dụng được bảo lãnh. * Về bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng Đối tượng bảo lãnh là nhà XK tham gia dự thầu thực hiện hợp đồng XK hàng hoá thuộc Danh mục mặt hàng vay vốn tín dụng XK. Mức bảo lãnh tối đa không quá 3% giá dự thầu đối với bảo lãnh dự thầu và tối đa không quá 15% giá trị hợp đồng XK đối với bảo lãnh thực hiện hợp đồng XK. Nhà XK được bảo lãnh phải trả phí bảo lãnh là 0,5%/năm trên giá trị bảo lãnh nhưng tối đa bằng 100 triệu đồng/1 hợp đồng bảo lãnh. 1.1.5. Mối quan hệ giữa hoạt động tài trợ XK và TTQT của NHTM. Hoạt động tài trợ ngoại thương nói chung, hoạt động tài trợ XK nói riêng và TTQT của NHTM mối quan hệ hữu cơ gắn bó với nhau cũng như mối quan hệ chặt chẽ giữa hai hoạt động thanh toán và tín dụng. Có thể nói rằng hai hoạt động này vừa là tiền đề vừa là nền tảng, điều kiện hoặc bổ sung cho sự tồn tại, phát triển của nhau. Đó là vì buôn bán quốc tế luôn gắn liền với việc thanh toán và để thỏa mãn cao nhất nhu cầu của hai bên mua bán, làm cho hai nhu cầu này gặp nhau thì TTQT thường phát sinh quan hệ bảo lãnh, tín dụng. Chẳng hạn như trong một hợp đồng XK có giá trị lớn, do thiếu vốn lưu động, bên cạnh vai trò trung gian thanh toán phải có của NH trong giao dịch ngoại thương, nhà XK cần đến sự tài trợ vốn của NH. Mặt khác, NH tham gia tài trợ cũng đòi hỏi việc tham gia vào quá trình TTQT với tư cách là NH thương lượng, hay NH thu hộ…để giám sát, quản lý, đảm bảo hạn chế rủi ro đối với đồng vốn tài trợ. Việc tài trợ ngoại thương và TTQT của NHTM như vậy là bao hàm sự chuẩn bị sẵn sàng các phương tiện tài chính và thay thế về mặt tài chính ( vay tín dụng ) để hoàn tất nghĩa vụ thanh toán và sản xuất trong quan hệ kinh tế đối ngoại cũng như đảm bảo các quá trình thanh toán có liên quan. GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  12. 11 Với tư cách là một thành viên tham gia tài trợ XK và cung cấp các dịch vụ TTQT, NHTM đã có đóng góp đáng kể đối với nền kinh tế đất nước, vào cán cân thanh toán quốc gia bằng việc cung cấp các dịch vụ ở nước ngoài. Các dịch vụ này được gọi là " XK vô hình " đóng góp ngày càng lớn vào thu nhập quốc gia. Điều đó nói lên vai trò ngày càng quan trọng của hoạt động tài trợ XK và TTQT của NHTM. 1.2. Các hình thức tài trợ XK của NHTM. Dựa trên cơ sở cấp tín dụng trực tiếp hay gián tiếp cũng như độ dài của thời gian cấp tín dụng, tài trợ XK của NHTM gồm các hình thức sau : 1.2.1 Tài trợ vốn lưu động phục vụ sản xuất, thu mua, chế biến chuẩn bị hàng XK. Theo hình thức này, NH tài trợ vốn lưu động cho nhà XK trong thời gian chuẩn bị hàng xuất theo các phương thức cổ điển dựa trên yêu cầu và đặc thù kinh doanh của họ. Phương thức tài trợ có thể là tín dụng từng lần hoặc tín dụng theo hạn mức. Khách hàng có thể được tài trợ bằng đồng bản tệ hay ngoại tệ, tùy theo nhu cầu và thỏa thuận giữa khách hàng và NH. Khi có nhu cầu vay vốn, DN XK có thể yêu cầu và được NH quyết định cho vay sau khi NH đã xem xét tình hành tài chính của DN, tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh, các biện pháp bảo đảm tín dụng ….như các khoản cho vay bình thường khác. NH có thể yêu cầu DN phải ký hoặc điều chỉnh hợp đồng ngoại thương với những nội dung về phương thức thanh toán, NH phục vụ…theo hướng đảm bảo cho NH tài trợ. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ ( L/C ) sẽ được ưu thích hơn, NH tài trợ có thể sẽ đòi hỏi L/C phải có một số điều kiện nhất định, đảm bảo an toàn và có lợi cho NH như : L/C phải thông báo qua NH, L/C phải hạn chế chỉ được thương lượng đòi tiền tại NH. L/C cho phép đòi tiền hoàn trả bằng điện, L/C có xác nhận…Thời gian cho vay kết thúc khi nhà XK được NH cho vay ứng trước hoặc chiết khấu chứng từ XK, tiền ứng trước/chiết khấu sẽ dùng để tất toán dư nợ và lãi vay làm hàng XK. Nhằm kiểm soát rủi ro trong suốt quá trình tài trợ để hành động kịp thời giúp giảm thiểu hậu quả tác hại, NH phải liên tục bám sát khách hàng và tập hợp thông tin chi tiết về từng giai đoạn trong thương vụ XK, từ lúc thu mua vật tư đến khi giao hàng cho nhà XK. Công việc này có thể yêu cầu khách hàng phải thường xuyên báo GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  13. 12 1.2.2. Tài trợ trên cơ sở hối phiếu. Do đặc điểm riêng biệt của mình, hối phiếu là công cụ tài chính hữu hiệu không chỉ trong thanh toán thương mại mà còn hữu hiệu cho việc cầm cố, thế chấp và cho tài trợ thương mại. Hối phiếu là một công cụ thanh toán được sử dụng rất phổ biến trong ngoại thương và thường xuất hiện trong các phương thức TTQT thông dụng hiện nay. Tính đa năng và phổ biến của hối phiếu khiến cho việc phân loại và xác định các loại hình tài trợ dựa theo nó rất khó khăn và chỉ mang tính chất tương đối. Có 3 loại tài trợ ngoại thương trên cơ sở hối phiếu của NHTM là chiết khấu hối phiếu, chấp nhận hối phiếu và bảo lãnh hối phiếu. Trong đó, chiết khấu hối phiếu là hình thức được sử dụng phổ biến nhất trong tài trợ XK. Chiếu khấu hối phiếu là một dạng tài trợ ngắn hạn của NH cho người thụ hưởng hối phiếu, theo đó người thụ hưởng chuyển nhượng hối phiếu hay hối phiếu tự nhận nợ ( Promissory Note ) chưa đáo hạn cho NH để nhận lại một số tiền bằng mệnh giá của hối phiếu trừ đi phần lãi chiết khấu và hoa hồng phí. Trong giao dịch ngoại thương, người thụ hưởng giá trị hối phiếu thường là nhà XK. Loại tài trợ này giúp cho nhà XK có điều kiện thu hồi vốn nhanh để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, thay vì phải chờ hối phiếu đến hạn thanh toán. Đối với NH tài trợ, việc chiết khấu hối phiếu tuy đơn giản song lại chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, đặc biệt là rủi ro liên quan đến uy tín và khả năng thanh toán của con nợ hối phiếu. Chính vì vậy, NH thường bảo lưu quyền truy đòi đối với nhà XK trong trường hợp không thu hồi được giá trị hối phiếu khi đến hạn. Trong một số giao dịch quốc tế, nhà NK có khi yêu cầu NH của họ ký chấp nhận trên hối phiếu, nhờ vậy làm tăng uy tín thanh toán của hối phiếu. Các hối phiếu này được gọi là chấp nhận NH, khi nhà XK mang đến yêu cầu NH tài trợ thì điều kiện tài trợ ưu đãi hơn nhiều và đôi lúc NH có thể chiết khấu miễn truy đòi. Tài trợ trên cơ sở hối phiếu chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của các nguồn luật về hối phiếu ở trong nước, hoặc nước ngoài, hoặc cả hai, với những quy định pháp lý về quyền, nghĩa vụ và những hành vi liên quan đến việc chuyển nhượng quyền thụ hưởng hối phiếu, quyền truy đòi, hành vi chấp nhận hối phiếu, bảo lãnh hối phiếu, GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  14. 13 1.2.3. Tài trợ trên cơ sở phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ. Dựa trên phương thức thanh toán nhờ thu, NH có thể tài trợ cho nhà XK bằng các hình thức : tài trợ ứng trước giá trị nhờ thu và chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu. - Tài trợ ứng trước giá trị nhờ thu : Là việc NH ứng trước giá trị nhờ thu cho nhà XK khi họ xuất trình tại NH hối phiếu và bộ chứng từ theo phương thức nhờ thu. Mức tài trợ ứng trước giá trị nhờ thu của NH không nhất định mà tùy thuộc vào mức độ an toàn trong giao dịch và thỏa thuận với khách hàng, thông thường nằm trong biên độ 80 - 90% giá trị nhờ thu. Khi tiền thanh toán về, NH sẽ thanh toán phần chêng lệch giữa giá trị thu được và giá trị đã ứng trước cho nhà XK sau khi đã thu lãi cho số tiền ứng trước đó. Khi tài trợ theo hình thức này, NH tuy không được chuyển quyền sở hữu và thụ hưởng giá trị hối phiếu song vẫn có quyền truy đòi nhà XK nếu nhà NK từ chối thanh toán hối phiếu. - Chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu : Là hình thức tài trợ của NH cho nhà XK bằng cách mua lại trọn bộ chứng từ ngoại thương của nhà XK gửi NH thu hộ để thu tiền từ nhà NK. NH tài trợ thông thường sẽ thanh toán cho nhà XK toàn bộ giá trị của bộ chứng từ nhờ thu với điều kiện bảo lưu " quyền truy đòi ". Tiếp theo NH sẽ nhân danh chính mình gửi bộ chứng từ này để thu nợ tiền hàng từ nhà NK thông qua NH thu hộ. Số tiền khi được nhà NK thanh toán sẽ được xem như nguồn hoàn trả vốn tài trợ đã ứng trước, phần lãi tài trợ sẽ được tính đúng theo kỳ hạn thực tế. Chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu cũng gần giống như hình thức tài trợ ứng trước giá trị nhờ thu. Tuy nhiên hai hình thức này cũng có những điểm khác biệt cơ bản : - Khác biệt trong mức giá trị tài trợ : Mức tài trợ ứng trước giá trị nhờ thu thường từ khoảng 80-90%, hoặc có thể thấp hơn, còn mức chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu là 100% trị giá bộ chứng từ. - Khác biệt trong quyền hạn của NH đối với việc thụ hưởng giá trị hối phiếu, kéo theo các quyền hạn khác liên quan đến việc xử lý bộ chứng từ nhờ thu. Trong tài trợ chiết khấu, NH có toàn quyền ra chỉ thị nhờ thu yêu cầu NH thu hộ thực hiện, còn GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  15. 14 Khi xem xét tài trợ theo phương thức thanh toán nhờ thu, NH thường đặc biệt quan tâm đến các yếu tố : uy tín của nhà XK và NK, quy chế quản lý hối đoái ở nước NK, điều kiện thanh toán là D/P hay D/A ( D/P ít bị rủi ro hơn ), khả năng thanh lý hàng hóa nếu bị từ chối nhận hàng và thanh toán, việc chấp nhận thanh toán hối phiếu của nhà NK trong trường hợp điều kiện thanh toán là D/A có được bảo lãnh hay không, bộ chứng từ có xác lập quyền sở hữu đối với hàng hóa hay không….Nếu nhà NK không thanh toán, NH có thể truy đòi từ nhà XK giá trị đã tài trợ, hoặc tố tụng nhà NK dựa trên chữ ký chấp nhận thanh toán của người này. 1.2.4. Tài trợ trên cơ sở phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. - Cho vay ứng trước hoặc chiết khấu bộ chứng từ theo L/C : Cũng tương tự như cho vay ứng trước hoặc chiết khấu giá trị nhờ thu trong trường hợp thanh toán bằng phương thức nhờ thu chứng từ. Tuy nhiên, trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ thì các NH sẵn sàng tài trợ hơn và với mức lãi suất ưu đãi hơn vì trong phương thức này, hối phiếu được ký phát cho NH phát hành nên rủi ro trong hình thức tài trợ này có thể được xem là rất thấp. NH có thể chiết khấu chứng từ theo L/C bằng một trong hai hình thức : chiết khấu bảo lưu quyền truy đòi hoặc chiết khấu miễn truy đòi. Đối với hình thức chiết khấu có bảo lưu quyền truy đòi, NH chỉ có thể thực hiện truy đòi từ nhà XK nếu NH phát hành không chấp nhận hoặc không thanh toán trên cơ sở bộ chứng từ hoàn hảo. Trong trường hợp NH chiết khấu không phát hiện ra ngay những sai sót, bất hợp lệ của bộ chứng từ trước khi chiết khấu, NH sẽ mất quyền truy đòi nhà XK và phải tự gánh lấy rủi ro. Nếu NH phát hành có uy tín, NH có thể chiết khấu theo hình thức miễn truy đòi, tức là mua đứt bộ chứng từ theo L/C bất kể kết quả thanh toán bộ chứng từ như thế nào. Mọi rủi ro quốc gia và rủi ro NH phát hành chuyển qua cho NH tài trợ. Ngược lại NH tài trợ chấp nhận rủi ro trong khuôn khổ hạn mức tín dụng chung mà NH xét duyệt cho NH phát hành. - Xác nhận L/C đã được mở cho nhà XK : GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  16. 15 Thực chất là tài trợ liên NH trong đó NH xác nhận bảo lãnh cho uy tín thanh toán của NH phát hành L/C theo yêu cầu của nhà XK để họ hoàn toàn an tâm về tính an toàn trong thanh toán tiền hàng khi họ thực hiện đúng theo các quy định trong L/C đã mở. Nghiệp vụ xác nhận L/C tạo nên một cam kết thanh toán độc lập của NH xác nhận có hiệu lực tương đương cam kết của NH phát hành nên mức phí xác nhận cũng ngang bằng với phí cam kết phát hành L/C. Khi thực hiện hình thức tài trợ này, NH đã đảm nhận trước nhà XK tất cả rủi ro liên quan đến uy tín và khả năng thanh toán của nhà NK, NH phát hành và cả rủi ro của quốc gia NK. NH xác nhận chỉ thực hiện việc xác nhận L/C trên cơ sở xem xét : uy tín của NH phát hành L/C; uy tín và mức độ giao dịch thường xuyên của hai bên mua bán; nội dung L/C; mặt hàng của L/C; quy định về hoàn trả tiền thanh toán của L/C; L/C thường hạn chế thương lượng tại NH xác nhận…Trong thực tế, NH xác nhận thường có mối quan hệ NH đại lý với NH phát hành và có thể cấp cho NH phát hành một hạn mức tín dụng nhất định, làm cơ sở để NH quyết định có nên tham gia tài trợ xác nhận L/C không. Bên cạnh đó, NH xác nhận cũng áp dụng những biện pháp đảm bảo an toàn khác khi xác nhận L/C như đòi hỏi các quy định về hoàn tiền có lợi cho NH xác nhận, hoặc yêu cầu NH phát hành phải ký quỹ một phần hoặc toàn bộ trị giá L/C. 1.2.5. Bao thanh toán ( Factoring ) BTT ( Factoring ) là một dạng kỹ thuật tài trợ cổ điển và đã phát triển mạnh trong giai đoạn nền thương mại quốc tế bùng nổ nhanh chóng hiện nay. Đây là một hình thức tài trợ đặc biệt giúp nhà XK có thể bán hàng theo phương thức ghi sổ, không phải bận tâm về rủi ro thương mại phía bên mua, vừa tiết giảm khối lượng công việc ghi chép sổ sách và theo dõi quá trình thu nợ người mua nước ngoài. - Hợp đồng Factoring là một hợp đồng được kết lập giữa bên cung ứng và tổ chức tài trợ theo đó : - Bên cung ứng có thể và sẽ nhượng cho tổ chức tài trợ các khoản phải thu phát sinh từ những hợp đồng thương mại. - Tổ chức tài trợ thực hiện tối thiểu 2 trong số các chức năng sau đây : + Tài trợ bên cung ứng, gồm cho vay và ứng trước tiền. + Quản lý sổ sách liên quan đến các khoản phải thu. GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  17. 16 + Thu nợ các khoản phải thu. + Bảo đảm rủi ro không thanh toán của con nợ. - Con nợ phải được thông báo về việc nhượng bán khoản phải thu này Ba chức năng cơ bản của Factoring quốc tế là : - Theo dõi và quản lý việc thu nợ tiền hàng. - Chức năng tài trợ thuần túy. - Chức năng đảm nhận rủi ro thương mại của người mua. Dịch vụ Factoring là dịch vụ cho phép nhà XK bán hàng theo lối ghi sổ, nghĩa là cấp tín dụng cung ứng cho người mua nước ngoài với mức bảo đảm rủi ro 100%, với việc thu nợ được thực hiện thông qua mạng lưới quốc tế các tổ chức factor. Bằng việc sử dụng Factoring, nhà XK có thể có những lợi ích mà các loại hình tài trợ khác không cung cấp được. Đó là : - Cung ứng sự hỗ trợ tài chính cho DN bằng cách gia tăng vốn lưu động mà họ đang bị ứ đọng trong các hóa đơn chưa thanh toán ( các DN có thể có những khoản ứng trước từ 70 - 80% giá trị hóa đơn ). Qua đó, họ cũng rút ngắn chu kỳ vốn lưu động một cách hữu hiệu, làm tăng lãi gộp. - Nhờ Factoring, các tỉ số tài chính trong bảng cân đối được cải thiện. Do đó, DN có được đánh giá tốt của NH khi muốn vay vốn. - Tổ chức Factoring quản lý tín dụng thay cho DN. Nếu là thanh toán miễn truy đòi, toàn bộ rủi ro tín dụng do tổ chức Factoring chịu. Tổ chức Factoring cũng giúp DN trong việc đánh giá tình trạng tài chính, khả năng kinh doanh, uy tín… của người mua để định ra những hạn mức tín dụng khi họ có yêu cầu. - Tổ chức Factoring làm công việc hạch toán bán hàng thay cho DN XK, giúp DN giảm chi phí hành chính và thủ tục có liên quan trong vấn đề quản lý theo dõi thu nợ tiền hàng từ nhà NK - Công việc thu nợ được tiến hành chuyên nghiệp, khéo léo, không gây phiền hoặc đánh mất mối quan hệ giữa nhà XK và người mua của họ. - Bằng cách sử dụng Factoring, nhà XK sẽ nâng cao được sức cạnh tranh trong kinh doanh nhờ vào khả năng cấp tín dụng cung ứng cho người mua nước ngoài dưới dạng thanh toán ghi sổ - một phương thức TTQT đơn giản. GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  18. 17 Ngoài ra, bên cạnh việc đảm nhận rủi ro thương mại của bên mua, tổ chức Factoring có thể đảm nhận thêm rủi ro tỉ giá, rủi ro chuyển tiền, rủi ro chính trị…Để đổi lại lợi ích này, nhà XK phải trả một khoản phí khá cao. Để chống đỡ rủi ro trong tài trợ Factoring, các tổ chức Factoring thường sử dụng các biệnh pháp sau : - Sử dụng mối quan hệ factor đại lý trong hệ thống hiệp hội các tổ chức Factoring quốc tế. - Factor XK có thể yêu cầu nhà XK hoặc tự mình thu xếp để giao dịch tài trợ Factoring được bảo hiểm tín dụng XK. - Factoring với điều kiện có truy đòi. 1.2.6. Forfaiting. Forfaiting cũng là một dạng nghiệp vụ mua nợ, BTT như nghiệp vụ Factoring song có một số điểm khác biệt. Nếu factoring chủ yếu thực hiện với các khoản phải thu giá trị nhỏ và ngắn hạn thì forfaiting giao dịch với các khoản phải thu có giá trị cao và trung, dài hạn. Do đó, nếu factoring thường thực hiện với một loạt hóa đơn nhỏ thì forfaiting thực hiện với một giao dịch đơn lẻ, độc lập, và forfaiting không cung cấp các dịch vụ bảo vệ tín dụng hoặc kế toán sổ sách như factoring. Về cơ bản, có thể nói forfaiting là việc các forfaiter (người mua các khoản phải thu) mua không truy đòi các chứng từ tài chính (như hối phiếu, lệnh phiếu), các công cụ nợ (debt instrument) chưa tới hạn. Đặc điểm của forfaiting là kể từ khi chuyển giao quyền thu nợ cho NH, người bán được miễn truy đòi trong trường hợp người mua không trả được nợ. Forfaiting là mua lại quyền thu nợ từ người bán và tài trợ trực tiếp cho người bán nhưng thông qua nghiệp vụ này, người mua là người nhận được khoản tín dụng cuối cùng. Forfaiting cung cấp cho nhà XK các lợi ích sau : - Nhận được khoản thanh toán nhanh, vào thời điểm đã biết và do đó, ngân lưu được đảm bảo, cải thiện và nâng cao thanh khoản. - Khoản thanh toán được đảm bảo (không bị truy đòi) - Forfaiter chịu tất cả rủi ro thương mại lẫn rủi ro chính trị và có thể cả rủi ro về lãi suất, tỉ giá. GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  19. 18 - Giúp nhà XK nâng cao sức cạnh tranh trong kinh doanh nhờ vào khả năng cung cấp tín dụng trung dài hạn cho nhà NK, đặc biệt là đối với những người mua có uy tín nhưng ở các nước mà các tổ chức tín dụng XK không muốn cung cấp tín dụng. - Do dự tồn tại rộng rãi của thị trường thứ cấp giao dịch các chứng từ tài chính, chi phí cho tài trợ forfaiting thấp. 1.2.7. Bảo lãnh NH. Trong giao thương quốc tế, các bên XK và NK thường cần đến các hình thức bảo lãnh NH nhằm dự phòng và chống đỡ những rủi ro tiềm ẩn xuyên suốt trong quá trình thực hiện các thương vụ ngoại thương. Trong những thương vụ XK lớn hoặc khi nhà XK có nhận khoản thanh toán ứng trước từ nhà NK, nhà XK sẽ cần đến các loại bảo lãnh của NH nhằm khẳng định uy tín kinh doanh của mình như khả năng hoàn thành thương vụ, khả năng cung ứng hàng hóa đúng tiến độ đúng chất lượng cam kết… Khi cung cấp dịch vụ bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng ( "người được bảo lãnh" ), "NH bảo lãnh" bảo đảm với "người thụ hưởng bảo lãnh" rằng "người được bảo lãnh" sẽ hoàn thành những nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu các nghĩa vụ này không được hoàn thành, "NH bảo lãnh" cam kết thanh toán đền bù cho "người thụ hưởng bảo lãnh". Mức đền bù dựa theo thỏa thuận bảo lãnh NH đã phát hành, có thể từ 1% đến 100% giá trị hợp đồng. Tóm lại, hoạt động tài trợ XK với bản chất là hoạt động tín dụng của các NHTM trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với các phương tiện và phương thức TTQT mang những đặc điểm rất riêng biệt so với các hình thức tín dụng thông thường khác. Cùng với sự phát triển của nền thương mại và tài chính quốc tế, các loại hình tài trợ XK của NH ngày càng phát triển và đa dạng hơn. Các NHTM trong hoạt động tài trợ XK phải đặc biệt lưu tâm đến những khác biệt trong cơ chế giao dịch của từng thương vụ, phải nắm vững những yếu tố đặc thù của từng hình thức tài trợ và kỹ thuật tài trợ. Từ đó, các NH mới có thể lựa chọn giải pháp tài trợ tối ưu cũng như thiết kế các dạng thức tài trợ mới phục vụ hữu hiệu cho nhu cầu tài trợ của khách hàng, mang lại hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận và nâng cao năng lực cạnh tranh của các NH. GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
  20. 19 1.3.Các phương thức TTQT thông dụng. Phương thức TTQT là toàn bộ quá trình, cách thức nhận trả tiền hàng trong giao dịch mua bán ngoại thương giữa người NK và người XK. Về cơ bản, có các phương thức TTQT sau thường được sử dụng : phương thức ghi sổ, phương thức chuyển tiền, phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ và phương thức giao chứng từ trả tiền. Tùy theo những điều kiện, các bên đối tác trong quan hệ thương mại quốc tế sẽ thỏa thuận và lựa chọn phương thức thanh toán thích hợp. Một hợp đồng ngoại thương có thể sử dụng một hoặc kết hợp vài trong số các phương thức thanh toán trên. 1.3.1. Phương thức ghi sổ ( Open Account ) Là phương thức thanh toán mà trong đó người XK sau khi thực hiện giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho người NK, thì mở một tài khoản (hoặc 1 cuốn sổ) ghi nợ cho người mua và việc thanh toán các khoản nợ này được thực hiện sau một thời hạn nhất định do 2 bên mua và bán thỏa thuận trước (tháng, quý, năm…) Thực chất của phương thức thanh toán ghi sổ là người XK (người bán) thực hiện tín dụng thương mại cho người mua. 1.3.2. Phương thức chuyển tiền ( Remittance) Phương thức chuyển tiền là một phương thức trong đó một khách hàng ( người trả tiền, người mua, người NK…) yêu cầu NH phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho người hưởng lợi (người cung ứng dịch vụ, người bán, người XK…) ở một địa điểm nhất định. NH chuyển tiền phải thông qua đại lý của mình ở nước ngoài hưởng lợi để thực hiện nghiệp vụ chuyển tiền. Chuyển tiền có thể thực hiện trước ( thanh toán ứng trước ) hoặc sau khi nhà XK giao hàng. Việc chuyển tiền có thể thực hiện bằng các hình thức chủ yếu sau đây : Hình thức điện báo ( T/T : Telegraphic Transfer ) : NH chuyển tiền thực hiện việc chuyển tiền theo cách ra lệnh bằng điện cho NH đại lý ở nước ngoài trả tiền cho người hưởng lợi. Hình thức thư chuyển tiền ( M/T : Mail Transfer ) : NH chuyển tiền thực hiện việc chuyển tiền theo cách gửi thư ra lệnh cho NH đại lý ở nước ngoài trả tiền cho người hưởng lợi. GVHD : GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH HVTH : PHẠM THỊ NHÀN – NH NGÀY 2 – K15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2