intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:119

63
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở phân tích thực trạng của việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, luận văn cố gắng đề ra một số định hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ QUÁCH THỊ HÀ Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HÀ NỘI, 2006
  2. Mục lục Mở đầu……………………………………………………………………... 2 Chương 1. Lý luận chung về thể chế, thể chế kinh tế thị 7 trường………... 1.1. Khái niệm về thể chế kinh tế, thể chế kinh tế thị trường và các mô 7 hình.. 1.1.1. Khái niệm về thể chế kinh tế……………………………………… 7 1.1.2. Thể chế kinh tế thị 11 trường…………………………………………. 1.1.3. Các mô hình thể chế kinh tế thị trường tiêu 13 biểu………………….. 1.2. Kinh nghiệm xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã 19 hội…... 1.3. Quan niệm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 25 nghĩa…….. Chương 2. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 29 nghĩa……. 2.1. Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế…………………………………... 29 2.1.1. Về hệ thống chính sách, pháp luật………………………………... 29 2.1.2. Về công tác kế hoạch hoá………………………………………… 32 2.1.3. Thực trạng hệ thống pháp luật kinh tế ở Việt Nam……………….. 36 2.2. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã 37 hội... 2.3. Về phát triển thị trường…………………………………………………. 44 2.3.1. Thị trường hàng hoá dịch vụ……………………………………... 44 2.3.2. Thị trường 48 vốn……………………………………………………. 2.3.3. Thị trường lao 51 động………………………………………………. 2.3.4. Thị trường khoa học công nghệ………………………………….. 57 2.3.5. Thị trường bất động sản………………………………………….. 60 2.4. Cơ chế phân phối và các vấn đề về bình đẳng, công 66 bằng……………… 2.4.1. Cơ chế phân 66 phối………………………………………………… 2.4.2. Các vấn đề về bất bình đẳng và công bằng xã hội………………. 73 2.5. Một số bài học từ thực trạng xây dựng thể chế kinh tế thị trường……… 75 Chương 3. Giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế 79 thị…. 1
  3. 3.1. Bối cảnh xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 79 nghĩa…….. 3.1.1. Tình hình quốc tế…………………………………………………. 79 3.1.2. Tình hình trong 83 nước……………………………………………… 3.2. Những giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường 87 định……. 3.2.1. . Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn…….. 87 3.2.2. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, các 88 chính…. 3.2.3. Hệ thống giải pháp đối với các loại thị 90 trường…………………... 3.3.4. Hoàn thiện từng bước cơ chế thực thi thể chế kinh tế thị 97 trường… 3.2.5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý…. 99 Kết luận…………………………………………………………………….. 104 TàI liệu tham khảo………………………………………………………… 108 2
  4. Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Tăng trưởng và phát triển kinh tế là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của Việt Nam nói riêng và tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung. Để thực hiện được điều này, các quốc gia phải làm rất nhiều việc, trong đó xây dựng thể chế kinh tế phù hợp với quốc gia và với tình hình quốc tế đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trước đổi mới, Việt Nam áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ theo mô hình của Liên Xô và các nước Đông âu. Trong mô hình này, sở hữu tư nhân và cá nhân bị coi nhẹ, lấy mục tiêu phát triển quan hệ sản xuất là chủ yếu, xây dựng nền kinh tế hầu như khép kín, không tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, không coi trọng đúng mức ngành dịch vụ, không chú trọng phát triển quan hệ hàng hoá, tiền tệ, và các yếu tố thị trường trong nền kinh tế. Trong thời kỳ đổi mới, quan điểm, nhận thức về nền kinh tế thị trường dần được hoàn thiện, Việt Nam từng bước thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế đạt nhiều thành tựu bước đầu quan trọng làm thay đổi khá rõ tình hình kinh tế - xã hội của đất nước: ổn định và phát triển, đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, về cơ bản đã chuẩn bị xong các tiền để cần thiết cho công nghiệp hoá, để chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, trong thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại nhiều vấn đề: nhận thức lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm so với thực tiễn phát triển, nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra còn chưa kịp tổng kết, giải quyết kịp thời; mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và hoạt động của doanh nghiệp chưa được giải quyết hiệu quả, làm giảm hiệu lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội; mối quan hệ giữa vai trò của Nhà nước, doanh nghiệp và thị trường, nhất là về mặt lợi ích kinh tế chưa được xử lý tốt, chưa phát huy được 3
  5. tính năng động của Nhà nước cũng như vai trò thúc đẩy của thị trường; thể chế kinh tế thị trường kể cả hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà nước mặc dù dần được hình thành song còn chậm, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán và nhiều mặt chưa phù hợp; hiệu lực quản lý Nhà nước còn hạn chế, trong điều hành nền kinh tế còn nặng tính hành chính, quan liêu, phân định chưa rõ chức năng; chưa xây dựng được chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế; tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu tăng về lượng còn chất lượng và hiệu quả nền kinh tế chưa tương xứng với đầu tư, sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng chậm được cải thiện, một số yêu cầu của kinh tế thị trường như tự do hoá giá cả, cải tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế... chậm được đáp ứng; cải cách thể chế diễn ra còn chậm, nhất là thủ tục hành chính, cơ chế thị trường hoạt động kém hiệu quả, quá trình tự do hoá kinh tế diễn ra chậm; phát triển kinh tế chưa chú trọng đầy đủ đến giải quyết các vấn đề xã hội... Bước vào thế kỷ XXI Việt Nam đứng trước nhiều thách thức và cơ hội to lớn. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, để nền kinh tế ổn định và phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta cần giải quyết nhiều vấn đề, đặc biệt là xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu bức xúc, có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vấn đề nêu trên mang tính thời sự, được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách, do đó tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Do có vị trí hết sức quan trọng nên thể chế kinh tế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề được Đảng, Nhà nước, nhiều nhà khoa học quan tâm. Gần đây, các nhà khoa học đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết về vấn đề này. 4
  6. “Hoàn thiện môi trường thể chế và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới” của tác giả Nguyễn Đình Hương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2002. Tác giả Nguyễn Văn Thảo với cuốn: “Thể chế - Cải cách thể chế và phát triển - Lý luận và thực tiễn ở nước ngoài và Việt Nam”, Nhà xuất bản Thống kê, năm 2002. Tác giả Thái Văn Long và Cốc Thư Đường với cuốn: “Lý luận và cải cách thể chế kinh tế ở Trung Quốc”, Nhà xuất bản Sự thật, năm 1991. “Thể chế kinh tế thị trường có đặc sắc Trung Quốc” tác giả: Nguyễn Kim Bảo, Đỗ Tiến Sâm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2002. Tiến sỹ Lưu Đạt Thuyết với bài: “Giải quyết một số vấn đề xã hội trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” trên tạp chí Lý luận chính trị, số 11 năm 2004. Tiến sỹ khoa học Trần Nguyên Tuyên Ban Kinh tế Trung ương với bài viết: “Góp phần đổi mới tư duy về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” trên tạp chí Lý luận chính trị, số 11 năm 2004. “Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Tiến sỹ Đỗ Văn Thống trên tạp chí Lý luận chính trị, tháng 11 năm 2004. Giáo sư tiến sỹ Chu Văn Cấp đăng bài: “Phương pháp luận nghiên cứu thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” trên Tạp chí Lý luận chính trị, tháng 9 năm 2004. “Kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Hữu Tư trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 9 năm 2004. “Bản chất kinh tế thị trường hiện đại” của tác giả Nguyễn Bình Giang trên tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 313 tháng 6 năm 2004. Giáo sư, Tiến sỹ Hồ Văn Vĩnh với bài viết: “Quá trình chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung quan liêu sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” trên Tạp chí Lý luận Chính trị, số 7 năm 2004. 5
  7. Giáo sư, Tiến sỹ Trần Ngọc Hiên với bài: “Quản lý nhà nước trong quá trình tạo lập nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Lý luận Chính trị, số 7 năm 2004. Tiến sỹ Trần Văn Ngọc với bài viết: “Về phân phối kết quả sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đăng trên Tạp chí Lý luận Chính trị, số 7 năm 2004 . Còn rất nhiều cuốn sách, các bài viết khác nữa, nhìn chung, tuy khai thác ở những khía cạnh, những mảng khác nhau nhưng các tác giả đều đề cao việc xây dựng một thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khẳng định vai trò của nó đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, còn ít công trình khoa học nghiên cứu thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một cách hoàn chỉnh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích thực trạng của việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, luận văn cố gắng đề ra một số định hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. * Nhiệm vụ - Làm rõ khái niệm thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Nêu lên thực trạng của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. - Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc xây dựng thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 4. Đối tượng nghiên cứu Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận 6
  8. Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý của kinh tế chính trị, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam. * Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận văn chú trọng sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, thống kê, hệ thống hoá... 6. Đóng góp của luận văn - Về khoa học: Góp phần làm rõ các khái niệm thể chế kinh tế, thể chế kinh tế thị trường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu và giảng dạy môn kinh tế chính trị Mác-Lênin, có thể sử dụng tham khảo trong việc nghiên cứu các vấn đề về thể chế kinh tế nói chung và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng, làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định các chính sách kinh tế và dành cho những người quan tâm đến đề tài. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương. Chương 1. Khái niệm về thể chế kinh tế, thể chế kinh tế thị trường và các mô hình thể chế kinh tế tiêu biểu. Chương 2. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chương 3. Giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 7
  9. Chương 1 Lý luận chung về thể chế kinh tế, thể chế kinh tế thị trường 1.1. Khái niệm về thể chế kinh tế, thể chế kinh tế thị trường và các mô hình thể chế kinh tế tiêu biểu 1.1.1. Khái niệm về thể chế kinh tế 1.1.1.1. Các quan niệm về thể chế Lý luận về thể chế nói chung và thể chế kinh tế nói riêng rất phong phú và được phát triển dựa trên nhiều tư tưởng, nhiều học thuyết, nhiều ngành khoa học, trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau và đang trong quá trình bổ sung, hoàn thiện. Có nhiều quan niệm khác nhau về thể chế, theo A. Wagner, người theo thuyết thể chế Đức thì thể chế là các khế ước, các hợp đồng và các luật lệ thành văn đang cai quản đời sống và quan hệ con người [9, tr.43]. Theo Douglas C.North, nhà kinh tế học người Mỹ, người được giải Nobel về công trình nghiên cứu thể chế “Động thái kinh tế qua thời gian” thì thể chế là những luật lệ được hình thành trong đời sống xã hội hay đúng hơn, đó là những luật lệ do con người tạo ra để điều tiết và định hình các quan hệ con người, thể chế bao gồm những ràng buộc phi chính thức (điều thừa nhận, cấm đoán theo phong tục, tập quán, truyền thống và đạo lý), những quy tắc (giới hạn) chính thức (hiến pháp, luật, quyền sở hữu) [9, tr.44]. Sokolff cho rằng, thể chế là những khuôn khổ chính trị và pháp lý tạo ra những nguyên tắc và luật lệ cơ bản cho sự hoạt động của các cá nhân và tổ chức [9, tr.44]. Một số nhà kinh tế học Trung Quốc cho rằng, thể chế là các quy tắc về chuẩn mực hoá hành vi và các cơ chế nảy sinh từ các quy tắc đó “bản chất sâu xa nhất của thể chế là quy tắc về chuẩn mực hoá phương thức hành vi của mọi 8
  10. người để giải quyết xung đột lợi ích giữa người và người và các quy chế nảy sinh từ các quy tắc đó” [9, tr.44]. Tác giả Chu Hữu Quý, trong cuốn Phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn, nông nghiệp Việt Nam cho rằng thể chế là tổng hợp cơ chế, chính sách, quan hệ sản xuất, tổ chức sản xuất, thiết chế chính trị xã hội. Ông viết: “Ta đang nói đến cơ chế, chính sách, quan hệ sản xuất, thiết chế chính trị, xã hội. Mỗi khái niệm có một nội dung riêng nhưng chúng có quan hệ chồng chéo nhau. Đúng ra những nội dung này cần được quy tụ lại thành một khái niệm khoa học chung là thể chế ” [9, tr.45]. Theo giáo sư Nguyễn Đình Phan, khi đề cập đến môi trường thể chế cho rằng, môi trường thể chế là tổng hợp của các nhân tố và điều kiện pháp lý, luật lệ mà tại đó các cơ sở sản xuất kinh doanh tồn tại, hoạt động, phát triển. Môi trường thể chế bao gồm bốn bộ phận: một là, hệ thống văn bản pháp quy áp dụng trong phạm vi cả nước, đó là các luật, các văn bản dưới luật và các chính sách. Hai là, bộ máy quản lý đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực cụ thể. Ba là, cơ chế vận hành. Bốn là, những quy định, nội quy và quy chế, điều lệ, thoả ước của cộng đồng, của địa phương, của làng, của xã. Tác giả cho rằng, môi trường thể chế bao gồm hai phần “phần mềm” (phi hình thể), với các yếu tố sau: chính sách, cơ chế quản lý (cơ chế vận hành), các quy định, thoả ước của cộng đồng của địa phương. “Phần cứng” bao gồm: bộ máy tổ chức, quản lý (có hình thể) [9, tr.45]. Trong hội thảo bàn về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đã thảo luận, trình bày nhiều quan điểm liên quan đến thể chế, thể chế kinh tế… Giáo sư, Tiến sỹ Đỗ Thế Tùng cho rằng, thể chế gồm những đạo luật, luật lệ, điều lệ, quy tắc, thủ tục, tập quán được thừa nhận chung mà mọi người 9
  11. phải tuân theo; các tổ chức kinh tế và chính trị cùng với những định chế của nó và yếu tố văn hoá hình thành từ thực tiễn [42, tr.57]. Theo Tiến sỹ khoa học Trần Nguyễn Tuyên, thể chế bao gồm các quy định, quy tắc, luật pháp, điều lệ… và các chế tài xử lý vi phạm; bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến điạ phương; các yếu tố văn hoá, tâm lý, thói quen, trình độ tri thức [42, tr.57]. Tiến sỹ Lê Viết Thái hiểu thể chế gồm các nguyên tắc chính thức và phi chính thức (tập tục, thông lệ, truyền thống văn hoá…) hệ thống tổ chức (chính phủ, phi chính phủ, các tổ chức xã hội khác) và cơ chế vận hành xã hội [42, tr.57]. Còn theo Tiến sỹ Nguyễn Khắc Thanh thể chế là con đường, cách thức để đi đến mục tiêu [42, tr.57]. Qua các khái niệm trên ta thấy, có sự khác nhau trong quan niệm về thể chế giữa các tác giả. Song các khái niệm cũng có một số điểm chung thống nhất, đó là: Luật chơi, cơ chế thực thi, tổ chức. Như vậy, có thể nói, thể chế là những luật lệ, quy tắc, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm điều chỉnh hoạt động của con người. 1.1.1.2. Phân loại thể chế Tuỳ theo các tiêu chí khác nhau người ta phân thể chế ra làm các loại khác nhau. - Theo mức độ hợp thức hoá có thể chế chính thức và thể chế phi chính thức. Thể chế chính thức là những thể chế do Nhà nước đặt ra bao gồm Hiến pháp, các bộ Luật, Nghị định, Quy định từ Trung ương đến địa phương, các quy tắc được phê chuẩn và áp dụng bởi các tổ chức công cộng và tư nhân hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Còn thể chế phi chính thức là những quy tắc, quy định, chuẩn mực do nhân dân, cộng đồng dân cư đặt ra, đó là các phong tục, tập quán, thoả thuận… thường vận hành bên ngoài hệ thống pháp luật chính thức, là những quy phạm xã hội bất thành văn, ví dụ các chuẩn mực về 10
  12. thừa kế đất đai, các hương ước trong làng xã. Xã hội càng phát triển, thể chế chính thức càng đóng vai trò quan trọng, tác động đến hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. - Theo tính pháp lý có thể chế dưới dạng văn bản luật pháp (Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Chỉ thị) và các văn bản hành chính, các khế ước bất thành văn (thông lệ). - Theo lĩnh vực hoạt động thì có thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế xã hội, thể chế văn hoá, thể chế môi trường… Trong các lĩnh vực lại phân chia thành các thể chế ở các cấp độ thấp hơn. Đó là các quy định, quy chế được áp dụng trong các lĩnh vực mang tính chuyên ngành, phản ánh những đặc điểm của ngành nghề. 1.1.1.3. Phân biệt thể chế kinh tế với chế độ kinh tế Theo Tiến sỹ Đinh Văn Ân thể chế kinh tế là các quy định về kinh tế của Nhà nước và các quy chế xã hội được Nhà nước công nhận; hệ thống các tổ chức thực hiện và các cơ chế, phương pháp, thủ tục thực hiện các quy định và vận hành bộ máy đó [1, tr.14]. Theo Tiến sỹ Nguyễn Cúc thể chế kinh tế là những luật lệ, quy tắc, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành và nhằm điều chỉnh trong lĩnh vực kinh tế [9, tr.47]. Theo quan niệm của tác giả Lưu Hư Duyệt người Trung Quốc: thể chế kinh tế là hình thức tổ chức cụ thể và chế độ quản lý kinh tế của một chế độ kinh tế xã hội hoặc một quan hệ sản xuất [1, tr.14]. Qua các khái niệm về thể chế nêu trên thì theo cách hiểu thông thường thể chế kinh tế là một hệ thống quy định được thể hiện thành các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh. Chế độ kinh tế là tổng hoà của các mối quan hệ kinh tế chiếm địa vị thống trị trong xã hội, là tiêu chí căn bản của hình thái xã hội có tính ổn định. 11
  13. Thể chế kinh tế là hình thức thực hiện chế độ kinh tế xã hội có tính khả biến. Thể chế kinh tế và chế độ kinh tế là hai phạm trù kinh tế vừa liên kết với nhau, vừa tách rời nhau. Cùng một chế độ kinh tế, ở các nước khác nhau có thể áp dụng những thể chế kinh tế khác nhau do tình hình mỗi nước khác nhau. Trong một nước, ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau cũng có thể áp dụng các thể chế kinh tế khác nhau. Các chế độ kinh tế khác nhau cũng có thể áp dụng những thể chế kinh tế tương tự nhau. Vì là hình thức thực hiện chế độ kinh tế, thể chế kinh tế vừa phản ánh yêu cầu bản chất của chế độ kinh tế, vừa phản ánh yêu cầu khách quan của phát triển sức sản xuất xã hội. Do vậy, việc thay đổi thể chế kinh tế phù hợp với sức sản xuất phát triển có thể giải phóng sức sản xuất khiến cho kinh tế xã hội phát triển. 1.1.2. Thể chế kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường. Từ khi kinh tế thị trường xuất hiện đến nay có hai loại hình: kinh tế thị trường tự do cạnh tranh và kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong kinh tế thị trường tự do cạnh tranh Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế, mà chỉ tạo, mở rộng pháp lý thuận lợi cho tự do cạnh tranh hoạt động. Thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường ở các nước tư bản, các nhà kinh tế học cổ điển ủng hộ mạnh mẽ “tự do kinh tế ”, “tự do cạnh tranh”, nổi bật là A. Smith (1723 - 1790), người được coi là cha đẻ của học thuyết kinh tế cổ điển nói riêng và kinh tế thị trường nói chung. Ông đưa ra lý thuyết “bàn tay vô hình” và nguyên lý “Nhà nước không can thiệp” vào tổ chức nền kinh tế hàng hoá. Ông cho rằng, hoạt động kinh tế của con người là hoạt động tự do, do “bàn tay vô hình” hay quy luật kinh tế khách quan chi phối, hoạt động kinh tế phải do quan hệ cung - cầu và sự biến động tự phát của giá cả trên thị trường quyết định. Việc sản xuất cái gì, như thế nào và sản xuất cho ai 12
  14. đều do thị trường quyết định. Kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là mô hình kinh tế thị trường có sự kết hợp kinh tế thị trường tự do cạnh tranh với sự quản lý của Nhà nước. Cơ sở lý luận của nó là lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của Paul Samuelson. Ông cho rằng, điều hành một nền kinh tế không có chính phủ hoặc thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một tay và cả thị trường và chính phủ đều cần thiết cho một nền kinh tế vận hành lành mạnh. Có thể nói, kinh tế thị trường là một hệ thống được thiết lập trên những mối quan hệ kinh tế tất yếu khách quan giữa các yếu tố của thị trường (cung, cầu, giá cả, cạnh tranh…) đứng đằng sau nó là các chủ thể kinh tế như doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, đại diện cho những quan hệ và những lợi ích nhất định và vận động theo các quy luật kinh tế khách quan. Còn thể chế kinh tế thị trường là hệ thống các quy tắc, giới hạn, cơ chế thực thi và các tổ chức gắn liền với nó do con người đặt ra nhằm ràng buộc mối quan hệ kinh tế của con người thích ứng với các nguyên lý của hệ thống kinh tế thị trường, làm chuẩn mực cho mọi hoạt động kinh tế. Thể chế kinh tế thị trường là hệ thống các loại thể chế có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và đồng bộ với nhau, nó bao gồm rất nhiều thể chế: thể chế sở hữu, thể chế cạnh tranh, thể chế một số thị trường cơ bản, thể chế pháp lý, thể chế tài chính, thể chế lao động, thể chế văn hoá, thể chế giáo dục, thể chế môi trường… Trong đó, thể chế sở hữu là là yếu tố quan trọng nhất trong cấu trúc thể chế kinh tế thị trường. Bởi việc xác lập, duy trì, bảo hộ sở hữu tài sản của các chủ thể kinh tế là nền tảng, là điều cốt yếu cho nền kinh tế thị trường được xác lập và phát triển. Các chủ thể kinh tế độc lập được pháp luật bảo vệ quyền sở hữu là các pháp nhân, các cá nhân, các hộ gia đình. Hệ quả của việc xác lập và bảo vệ quyền sở hữu là xác lập các chủ thể kinh doanh và quyền tự do kinh doanh của họ. Kinh doanh là nội dung cơ bản của kinh tế thị trường và thể chế các chủ thể tự do kinh doanh là bộ phận cơ bản nhất cấu thành thể chế kinh tế thị trường. Cạnh tranh là động lực quan trọng đem lại sự phát triển 13
  15. kinh tế. Tự do cạnh tranh là thuộc tính cơ bản của nền kinh tế thị trường, nếu không có tự do cạnh tranh thì không có nền kinh tế thị trường theo nghĩa đích thực. Cạnh tranh bao gồm hai loại, cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh là cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật, tôn trọng lợi ích của người sản xuất, người tiêu dùng cũng như lợi ích của các đối thủ cạnh tranh. Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh trái với quy định pháp luật, đi ngược lại với những nguyên tắc, tập quán của xã hội, xâm phạm lợi ích của xã hội, của người tiêu dùng và lợi ích của các nhà kinh doanh khác. Do đó, cần tạo ra những thể chế, tạo ra môi trường pháp lý để bảo đảm cạnh tranh lành mạnh đồng thời ngặn chặn và loại trừ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Cùng với những thể chế nêu trên, thể chế thị trường tài chính, thể chế thị trường hàng hoá dịch vụ, thể chế thị trường vốn, thể chế thị trường khoa học, công nghệ, thể chế thị trường sức lao động, thể chế thị trường đất đai, sự can thiệp của Nhà nước nhằm sửa chữa các khuyết tật của thị trường, cấu thành nên cấu trúc hỗn hợp của thể chế kinh tế thị trường hiện đại. 1.1.3. Các mô hình thể chế kinh tế tiêu biểu 1.1.3.1. Mô hình thể chế kinh tế thị trường tự do (tiêu biểu là nền kinh tế thị trường của Mỹ) Mô hình này có đặc điểm là có một cơ chế thị trường tự do thuần khiết hơn so với những nền kinh tế khác. Trong mô hình kinh tế này các mối quan hệ kinh tế đều được giải quyết thông qua thị trường là chính, còn sự can thiệp của nhà nước là rất hữu hạn. Mọi sự bất cập và thất bại của nền kinh tế đều do nguyên nhân chủ yếu từ sự trục trặc hay sự phát triển thiếu đồng bộ của thị trường. Thị trường lao động có tính linh hoạt cao và các luật lệ về thị trường lao động đều thiên về bảo hộ người chủ tư bản hơn là người lao động làm thuê. 14
  16. Có thể nói, thể chế kinh tế thị trường tự do của Mỹ không phải là cố định mà nó luôn thay đổi cùng sự biến động của tình hình kinh tế - xã hội. Giai đoạn đầu từ khi thành lập quốc gia đến khoảng những năm 1930, còn được gọi là giai đoạn bị động. Trong giai đoạn này, các nhà lãnh đạo của Mỹ chấp nhận quan điểm: “Để tư nhân tự do kinh doanh” Nhà nước chỉ có chức năng là duy trì pháp luật và trật tự xã hội để cho thị trường hoạt động có hiệu quả. Giai đoạn từ 1933 đến nay còn được gọi là giai đoạn chủ động. Sau những cuộc suy thoái kinh tế, người Mỹ thấy rằng, thể chế kinh tế thị trường tự do cạnh tranh hoàn toàn thất bại, cần có sự can thiệp của Nhà nước để giảm bớt và ngăn chặn những cạnh tranh dẫn đến tàn phá lẫn nhau. Nhà nước Mỹ chủ động can thiệp vào thị trường, vai trò của Nhà nước ngày càng tăng: mở rộng quyền hạn của Liên bang trong các hoạt động của ngân hàng, nông nghiệp và phúc lợi công cộng, Uỷ ban chứng khoán và hối phiếu, hệ thống an sinh xã hội, các chuẩn mực về lương tối thiểu, các nghiệp đoàn lao động được mở rộng, chương trình trợ cấp cho người cao tuổi… Tuy nhiên, sự can thiệp quá sâu của nhà nước vào nền kinh tế cũng gây ra những hậu quả không tốt. Trong những năm 70, 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế Mỹ bị suy thoái nặng nề, số doanh nghiệp phá sản tăng, lạm phát cao, thất nghiệp, thâm hụt ngân sách, lãi suất tăng cao… xuất hiện xu hướng chỉ trích sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế. Hai thập kỷ gần đây, nước Mỹ chủ yếu sử dụng những chính sách: tư nhân hoá, tự do hóa và toàn cầu hoá, giảm điều tiết các ngành giao thông vận tải, viễn thông, tự do hoá thị trường lao động, giảm vai trò của các công đoàn và tư nhân hoá dần các cơ sở phúc lợi… Vai trò chủ yếu của Nhà nước là duy trì một môi trường ổn định để các thị trường tư do hoạt động, nhưng tự do trên khuôn khổ của các quy định của pháp luật, luật lệ của chính quyền liên bang, của bang và địa phương. 15
  17. 1.1.3.2. Mô hình thể chế kinh tế thị trường xã hội * Mô hình cộng hòa liên bang Đức Lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội ra đời sau chiến tranh thế giới lần hai và được Chính phủ Cộng hoà liên bang Đức vận dụng để hoạch định các chính sách kinh tế suốt từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai tới nay. Những người đề ra mô hình này coi hai vấn đề cơ bản dưới đây không được tách rời, biệt lâp với nhau: - Một là, phát triển kinh tế mang lại hiệu quả cao. - Hai là, thực hiện chính sách phúc lợi xã hội, xã hội đảm bảo, xã hội công bằng, tiến bộ. Lý thuyết về kinh tế thị trường xã hội dựa trên những nguyên tắc về quyền tự do cá nhân, sở hữu tư nhân, cạnh tranh, coi sự vận hành trơn tru của các thị trường là tiền đề cho thịnh vượng xã hội. Cạnh tranh hiệu quả là tiến trình hợp lý nhất để nâng cao chất lượng hoạt động kinh tế. Hoạt động kinh tế hiệu quả đến lượt mình là điều kiện tiên quyết cho chính sách xã hội thoả đáng. Cạnh tranh là nhân tố không thể thiếu của hệ thống kinh tế - xã hội, bên cạnh đó luật pháp, nhà nước, đạo đức, các chuẩn mực và giá trị thừa nhận chung... đều phải được tôn trọng. Chính những điều này đã tạo cho Đức một hệ thống phúc lợi phát triển tốt. ở Đức, ít khi xảy ra các cuộc bãi công lớn, các doanh nghiệp yên tâm hơn trong việc đầu tư dài hạn vào đào tạo và nâng cao năng lực của người lao động. Một trong những đặc điểm thể chế quan trọng của kinh tế thị trường xã hội ở Đức là mạng lưới gắn kết, cộng tác và điều phối chặt chẽ giữa Nhà nước, các đảng chính trị, các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và các công đoàn lao động. Cạnh tranh luôn đi liền với hợp tác và những cuộc thương lượng tập thể giữa các nhóm xã hội để quyết định các vấn đề kinh tế như tiền lương, điều kiện làm việc. Trong các cuộc thương lượng này thì Nhà nước đóng vai trò trung lập. Các tổ chức công đoàn lao động không chỉ có vai 16
  18. trò quan trọng ở tầm vĩ mô mà còn ở cả từng doanh nghiệp thông qua hội đồng công nhân và nguyên tắc tham quyết trong các doanh nghiệp. Hệ thống này cho phép phối hợp, tập trung nguồn lực trong xã hội để thực hiện mục tiêu phát triển lâu dài. Người lao động thông qua sức mạnh tập thể, được bảo vệ tốt hơn, khó bị sa thải. Các công ty và các ngành công nghiệp gặp khó khăn, dù ít được nhận trợ cấp trực tiếp từ Nhà nước, vẫn dễ nhận được sự giúp đỡ từ các hiệp hội công nghiệp và ngân hàng. Người lao động Đức được nhận lợi ích từ hệ thống đào tạo dạy nghề. Nhờ thể chế như trên, Đức có một thị trường lao động tương đối ổn định với mức lương và chi phí lao động cao, năng suất lao động và trình độ kỹ năng của người lao động cao hàng đầu thế giới. * Mô hình Thuỵ Điển Ngay từ thập niên 30 của thế kỷ trước, ở Thuỵ Điển đã hình thành mô hình đặc biệt “phúc lợi xã hội”. Mô hình này đã phát triển hoàn toàn đầy đủ sau chiến tranh thế giới thứ hai và bắt đầu mang tên “mô hình Thuỵ Điển”. Mô hình này có đặc trưng kết hợp chính sách kinh tế Keynes với hệ thống đảm bảo xã hội và điều tiết các điều kiện lao động, tiền lương nhờ những cuộc thương lượng tập thể giữa các công đoàn và giới chủ. Nói cách khác đặc trưng của mô hình Thuỵ Điển là “kết hợp nền kinh tế thị trường tư nhân với mở rộng phúc lợi xã hội”. Với mô hình này, Thuỵ Điển từ một nước nghèo nhất Châu Âu đã trở thành một nước trong những nước giàu nhất châu lục này. Tuy nhiên, việc đạt và giữ được mức bảo đảm xã hội cao cho mọi công dân đã trở thành gánh nặng đối với nền kinh tế Thuỵ Điển. Do đó, sự trì trệ của “mô hình Thuỵ Điển” đã thể hiện rất rõ ràng từ đầu thập niên 90 của thế kỷ 20. Chính phủ Thuỵ Điển đã phải điều chỉnh các mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội để đảm bảo sự phát triển của đất nước. 1.1.3.3. Thể chế kinh tế của mô hình nhà nước phát triển (tiêu biểu là Nhật Bản) 17
  19. Chức năng chủ yếu của Nhà nước trong mô hình nay là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế dài hạn. Do đó, Nhà nước phải chủ động thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ trên cơ sở những thành tựu của công nghiệp hoá và tái công nghiệp hoá dựa vào tri thức nhằm thích ứng với sự biến động nhanh chóng của nhu cầu của thị trường để luôn tạo ra được lợi thế so sánh mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh, không thụ động chấp nhận sự phân công lao động quốc tế dựa trên những lợi thế so sánh có sẵn. Nhà nước không chỉ quan tâm đến luật chơi của nền kinh tế thị trường mà còn đi sâu hướng dẫn, chỉ đạo, điều tiết cả phương hướng, nội dung của hoạt động kinh tế nhằm thực hiện chức năng phát triển của đất nước. Cơ sở lý thuyết về chức năng phát triển của nhà nước là những phân tích “lợi thế so sánh” của một nền kinh tế dựa vào tri thức. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước luôn chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Đặc trưng của nó là coi trọng sự hiệp đồng, phối hợp hài hoà các quan hệ kinh tế - xã hội, đặc biệt là quan hệ nhà nước - các doanh nghiệp - người tiêu dùng và quan hệ giữa giới quản lý, người lao động, nhằm tạo nên sự nỗ lực chung mang tính cộng đồng từ thấp đến cao. Dưới tiền đề phát huy tác dụng của thị trường, nỗ lực giải quyết sự phối hợp với nhau, ràng buộc nhau vào thể chế kinh tế vĩ mô, phát huy tác dụng chỉ đạo của các chính sách sản xuất. 1.1.3.4. Mô hình thể chế kinh tế ở một số nước Đông á và Đông Nam á Mô hình thể chế kinh tế tại nhiều nước ở Đông á và Đông Nam á thường được các nhà kinh tế gọi là “chủ nghĩa phát triển độc đoán”. Đặc điểm quan trọng nhất của mô hình này là sự hiện diện của một Nhà nước mạnh, có năng lực kinh tế cao và hoạt động theo kiểu độc đoán. Mô hình này đã được chứng minh là đã đem lại thành công lớn trong việc giải quyết các vấn đề về tăng trưởng, đói nghèo và bất ổn định. ở các nước theo mô hình này, nhà nước thực hiện việc tập trung các nguồn lực vào một số ít các kênh có khả năng gia 18
  20. tăng tốc độ tăng trưởng. Nhà nước cần có trong tay một thủ lĩnh chính trị mạnh mẽ, có hiểu biết về kinh tế, cần có một đội ngũ cán bộ có năng lực cao đủ hỗ trợ vị thủ lĩnh này, cần có một hệ thống ra quyết định linh hoạt, nhưng chặt chẽ theo kiểu từ trên xuống, cần có một ý thức hệ cho phép khẳng định vai trò của tiến bộ vật chất với tư cách là mục tiêu ưu tiên của quốc gia và đặc biệt cần có sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân và được hậu thuẫn bởi mức độ tăng trưởng cao của thu nhập. Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông đã đạt được những thành công đáng kể khi thực hiện mô hình này. Nhưng, nhiều ý kiến cho rằng, mô hình thể chế kinh tế “phát triển độc đoán” không phải là mô hình thể chế kinh tế lý tưởng cho mọi thời đại, không mang tính lâu dài, nó chỉ được áp dụng với tư cách là một mô hình nhà nước nhất thời, năng động, cần thiết cho mục tiêu duy nhất là thúc đẩy tăng trưởng và thúc đẩy công nghiệp hoá. 1.1.3.5. Mô hình “cải cách thể chế kinh tế” ở một số nước Đông âu. Đặc trưng lớn nhất của cải cách thể chế kinh tế ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi ở Đông âu là việc xoá bỏ các thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung và hình thành thể chế kinh tế mới, theo các mô hình thể chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Các cải cách của các nước tập trung vào những nội dung chủ yếu sau: cải cách chế độ sở hữu, chế độ phân phối; cải cách doanh nghiệp nhà nước, hệ thống thương mại, tài chính; phát triển khu vực tư nhân; cải cách hệ thống hành chính và hệ thống an sinh xã hội. Phương pháp tiến hành cải cách thể chế kinh tế chủ yếu ở các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông âu là sử dụng “liệu pháp sốc”. Mọi nỗ lực được tập trung vào ổn định hoá vĩ mô, thông qua các biện pháp được hoạch định sẵn: thắt chặt chính sách tài khoá, tiền tệ, tự do hoá giá cả, nhanh chóng mở của thương mại quốc tế, tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, xoá bỏ rào cản thành lập các doanh nghiệp, thực hiện tư nhân hoá, nỗ lực xây dựng một số yếu tố của mạng an sinh xã hội… Những cải cách này đã giúp 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2