intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Thực hiện pháp luật về công chứng - từ thực tiễn các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội

Chia sẻ: Tuhai999 Tuhai999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:80

14
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích khung lý thuyết và thực tiễn thực hiện pháp luật về công chứng từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về công chứng của các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Thực hiện pháp luật về công chứng - từ thực tiễn các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA VŨ DUY THÁI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG – TỪ THỰC TIỄN CÁC VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI – 2018
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA VŨ DUY THÁI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG – TỪ THỰC TIỄN CÁC VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ THANH THÚY HÀ NỘI – 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2018 Ngƣời cam đoan Vũ Duy Thái
  4. LỜI CẢM ƠN Trước tiên, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến người hướng dẫn khoa học –TS. Bùi Thị Thanh Thuý đã dành thời gian, tâm sức và đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho tôi trong suốt quá trình tôi nghiên cứu đề tài luận văn này. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia, Khoa Sau đại học cùng toàn thể các Thầy, Cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình. Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn động viên, khích lệ để tôi có thêm động lực trong học tập, nghiên cứu. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2018 Học viên Vũ Duy Thái
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG CỦA CÁC VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG ...... 8 1.1. Công chứng và pháp luật về công chứng ....................................................... 8 1.2. Thực hiện pháp luật về công chứng ............................................................. 18 Tiểu kết chương 1................................................................................................ 33 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG CỦA CÁC VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................................................... 34 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội thành phố Hà Nội có ảnh hưởng tới hoạt động thực hiện pháp luật về công chứng của các Văn phòng công chứng ......... 34 2.2. Đánh giá về thực trạng thực hiện pháp luật về công chứng của các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội ............................................. 36 Tiểu kết chương 2 ............................................................................................... 50 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG – TỪ THỰC TIỄN VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................... 51 3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về công chứng ............................. 51 3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về công chứng – từ thực tiễn Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội ............................................. 53 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 72
  6. DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Bảng: Bảng 2.1: Số liệu thực hiện pháp luật về công chứng tại một số Văn phòng công chứng trên địa thành phố Hà Nội từ năm 2012 – 2016 ................................... 38 Biểu đồ: Biểu đồ 2.1: Số lượng việc yêu cầu công chứng hợp đồng và các văn bản giao dịch của tổ chức và cá nhân từ 2012 – 2016 ................................................... 38
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân do dân và vì dân, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Một trong những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam đó là nhà nước mà trong đó các quyền tự do dân chủ và lợi ích chính đáng của con người được pháp luật bảo đảm, mọi hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền tự do, lợi ích chính đáng của người dân đều bị nghiêm trị. Để xây dựng nhà nước pháp quyền ngoài việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ thì một số vấn đề đặt ra là phải xây dựng cho được những cơ chế an toàn và hiệu quả, ngăn chặn mọi hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quyền công dân. Chính vì thế, từ lâu Nhà nước ta đã tồn tại một chế định pháp luật, cho phép ngăn ngừa những vi phạm pháp luật, phòng ngừa tranh chấp, khiếu kiện trong giao dịch dân sự, kinh tế và thương mại đó là chế định công chứng thuộc lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Với chức năng mang lại tính xác thực, tính hợp pháp cho các giao dịch, hợp đồng, pháp luật công chứng được coi là công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên tham gia giao dịch, mặt khác thông qua hoạt động công chứng, nhà nước thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát của mình đối với các giao dịch dân sự, nhằm bảo đảm sự ổn định trong xã hội, đồng thời tạo ra sự cân bằng giữa nhu cầu tự do giao kết hợp đồng, giao dịch của các cá nhân, tổ chức và chức năng quản lý của Nhà nước. Bên cạnh đó, trong quá trình tố tụng (khi có tranh chấp xảy ra), hoạt động công chứng còn đóng góp vai trò hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xét xử của Tòa án, thông qua việc cung cấp chứng cứ không thể phản bác, bảo đảm cho hoạt động này được khách quan, nhanh chóng, chính xác, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 1
  8. Xuất phát từ việc nhận thức rõ được vai trò quan trọng của pháp luật công chứng trong việc bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế và thương mại góp phần phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến việc phát triển hoạt động công chứng và xây dựng pháp luật về công chứng ngày một hoàn thiện hơn. Cụ thể, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực công chứng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động công chứng, trong đó có Luật công chứng số 53/2014/QH13 được Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20 tháng 06 năm 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. Trong những năm qua, tại thành phố Hà Nội, việc thực hiện pháp luật công chứng đã được đông đảo người dân quan tâm khi thực hiện các giao dịch dân sự. Là một thành phố lớn, với mật độ dân số đông đúc nên có rất nhiều các công việc giao dịch liên quan đến hoạt động công chứng. Do vậy, việc ra đời các Văn phòng công chứng đã góp phần không nhỏ trong việc đảm bảo sự chặt chẽ trong các giao dịch có tính pháp lý đối với người dân trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động công chứng ở thành phố Hà Nội vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế nảy sinh như: Trình độ năng lực chuyên môn của đội ngũ Công chứng viên, chuyên viên nghiệp vụ còn nhiều hạn chế; Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật công chứng chưa được chú trọng, sự hiểu biết về công chứng cũng như ý thức pháp luật của người dân, đặc biệt là người dân lao động hiểu biết về công chứng còn nhiều hạn chế. Hệ thống các văn bản pháp lý liên quan đến lĩnh vực công chứng còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo gây ra nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện hoạt động công chứng. Xuất phát từ những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về công chứng - từ thực tiễn các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. 2
  9. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hoạt động công chứng với tư cách là một chế định bổ trợ Tư pháp trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.Đồng thời hoạt động công chứng cũng có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do vậy, trong thời gian qua đã có nhiều đề tài tập trung nghiên cứu và tìm hiểu về lĩnh vực này với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Cụ thể là một số công trình sau: “Những điều cần thiết về công chứng nhà nước”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1992 của tác giả Nguyễn Văn Yểu và Dương Đình Thành; “Giới thiệu vài nét xây dựng và hoàn thiện công chứng nhà nước ở thành phố Hà Nội”,Tạpchí thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, năm 1995.Đây là hai công trình rất có giá trị và được coi như là cuốn cẩm nang đối với những người nghiên cứu về công chứng cũng như những người trực tiếp làm việc trong lĩnh vực hoạt động công chứng. Ngoài ra, cũng cần đề cập đến một số công trình khác như: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng, chứng thực và giá trị pháp lý của văn bản công chứng, chứng thực ở nước ta hiện nay”, của tác giả Đặng Văn Khanh, luận án tiến sỹ Luật học, (Hà Nội, năm 2000) [27]. Nội dung của đề tài luận án, tác giả đã tập trung luận giải một cách tường minh về bản chất và sự khác nhau của hai hoạt động công chứng và chứng thực xuất phát từ thẩm quyền thực hiện các hoạt động này. Tác giả cũng đã tập trung đề cập đến phạm vi của mỗi hoạt động và các giá trị pháp lý của văn bản công chứng; chứng thực, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện về quy định pháp luật trong hoạt động công chứng. Đề cập về vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng, chứng thực, tác giả Trần Ngọc Nga với đề tài “Quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực; công chứng nhà nước, những vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta” luận văn thạc sĩ Luật học,Hà Nội, năm 1996 [30]. Công trình đã nghiên cứu một cách có hệ thống về quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng và chứng thực dưới góc độ luật học. Trong nội dung đề tài luận văn nàytác giả đã luận giải về sự khác nhau mang tính bản chất giữa hai hoạt động công chứng và chứng 3
  10. thực theo thẩm quyền thực hiện và tính chất pháp lý của mỗi sự kiện. Tác giả cũng đã trình bày những nội dung cơ bản về quản lý nhà nước dưới góc độ lý luận và quản lý nhà nước trong một lĩnh vực cụ thể đó là công chứng và chứng thực. Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu về công chứng và chứng thực như:Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công “Xây dựng nội dung cơ bản quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng, chứng thực từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của Tác giả Nguyễn Minh Hợi, Tp. Hồ Chí Minh, năm 2006 [25]. Nội dung luận văn, tác giả đã nêu những vấn đề lý luận về công chứng, chứng thực,đưa ra khái niệm về công chứng, nguồn gốc ra đời hoạt động công chứng, chứng thực, nhu cầu công chứng, chứng thực của người dân; sự cần thiết khách quan phải quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng. Từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của hệ thống cung ứng dịch vụ công chứng, chứng thực trên địa bàn tỉnh Bình Phước, tác giả đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm xây dựng những mô hình cung ứng dịch vụ công chứng trên phạm vi toàn quốc. Tiếp đến, luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công với đề tài “Quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực trên địa bàn cấp quận” của tác giả Phan Hùng Nam, Học viện hành chính, Hà Nội, năm 2008 [29]. Ở đề tài này, tác giả đã tiếp cận vấn đề theo giác độ của hoạt động quản lý nhà nước, luận văn lấy thực tiễn từ hoạt động công chứng, chứng thực ở cấp quận, huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội làm không gian tham khảo về công chứng, chứng thực. Tác giả Phan Hùng Nam đã rất thành công trong việc đề cập những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực với tư cách là một hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực hành chính – Tư pháp. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đó thì luận văn cũng có những hạn chế đó là luận văn mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, tìm hiểu về thực trạng hoạt động công chứng ở cấp Quận trong khi đó vào thời điểm này, việc chứng thực đã được chuyển phần lớn nội dung về cho cấp xã, còn công chứng được chuyển giao cho các Phòng công chứng, Văn phòng công chứng (trực thuộc Sở Tư pháp). 4
  11. Bên cạnh các công trình kể trên còn có các công trình nghiên cứu về công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ở địa phương cụ thể đó là đề tài về “Thực hiện pháp luật về công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay” - luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Đoàn Xuân Sơn, Học viện chính trị hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2011. Nội dung luận văn đã tập trung tìm hiểu về thực trạng, đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật về công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ở tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay. Có thể nói, nhìn nhận một cách tổng quan cho thấy, hầu hết các công trình nghiên cứu về hoạt động công chứng và chứng thực đã có nhiều cách tiếp cận khác nhautrên cơ sở những lý luận về hoạt động công chứng và chứng thực.Các công trình cũng đã đưa ra những góc nhìn đa chiều về công tác công chứng.Đồng thời, việc nghiên cứu thực trạng về hoạt động công chứng ở một số địa phương cũng đã cho những người trực tiếp tham gia hoạt động công chứng có những kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình tác nghiệp. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích khung lý thuyết và thực tiễn thực hiện pháp luật về công chứng từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về công chứng của các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của pháp luật về công chứng và thực hiện pháp luật về công chứng trong đó nêu lên khái niệm, phân tích đặc điểm, vai trò, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện pháp luật công chứng; Phân tích đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật công chứng của các Văn phòng công chứng ở thành phố Hà Nội, làm rõ những thành tựu đạt được, những hạn chế yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế yếu kém đó; Trên cơ sở lý luận thực hiện pháp luật về công chứng, thực trạng thực 5
  12. hiện pháp luật về công chứng của các Văn phòng công chứng ở thành phố Hà Nội, cùng với những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, luận văn bước đầu đề xuất các giải pháp nhằm góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật về công chứng ở thành phố Hà Nội. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1.Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu về thực hiện pháp luật công chứng – từ thực tiễn của Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi vấn đề nghiên cứu - Phạm vi thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến năm 2016, - Phạm vi không gian: thành phố Hà Nội. - Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu thực hiện pháp luật công chứng ở ba góc độ về tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên và thủ tục, hoạt động công chứng của các Văn phòng công chứng trên địa bàn Hà Nội. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, cũng như quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp luật nói chung và về thực hiện pháp luật công chứng nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin theo quan điểm phát triển toàn diện, lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng kết hợp các phương pháp như phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, so sánh…nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài. 6
  13. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về công chứng; Nâng cao nhận thức của công dân đối với hoạt động công chứng; Đề cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện pháp luật về công chứng của các cơ quan, tổ chức liên quan đến hoạt động công chứng hợp đồng giao dịch. Luận văn chỉ ra những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của việc thực hiện pháp luật về công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay. Luận văn cũng nêu ra những yêu cầu khách quan của nhiệm vụ hoàn thiện pháp luật công chứng, qua đó đề ra các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật công chứng ở Việt Nam trong tiến trình cải cách thủ tục hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào lý luận về công chứng nói chung và thực tiễn hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng nhằm thống nhất nhận thức về bản chất, nội dung của thực hiện pháp luật về công chứng và làm phong phú lý luật chung về Nhà nước và pháp luật. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo của các tổ chức hành nghề công chứng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục nghiên cứu về công chứng của các cơ quan liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương bao gồm: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật công chứng của các văn phòng công chứng Chƣơng 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về công chứng củacác Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội Chƣơng 3: Quan điểm và các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về công chứng- từ thực tiễn Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội 7
  14. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG CỦA CÁC VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG 1.1.Công chứng và pháp luật về công chứng 1.1.1. Khái niệm công chứng Công chứng do người Pháp đưa vào Việt Nam trong những năm 30 của thế kỉ XX. Nhưng mãi đến năm 1987, công chứng mới được đề cập đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tại thời điểm này công chứng được hiểu là “Công quyền đứng ra làm chứng”, cụ thể là Nhà nước trao thẩm quyền cho một tổ chức hành nghề công chứng của Nhà nước được phép nhân danh Nhà nước để xác định các quan hệ giao dịch dân sự và thương mại. Trước Luật Công chứng 2014, công chứng có nhiều định nghĩa được ghi nhận trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như: Thông tư 574/QLTPK ngày 10 tháng 10 năm 1987 của Bộ Tư pháp là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên của nhà nước ta quy định về lĩnh vực công như sau: “Công chứng nhà nước là một hoạt động của nhà nước với mục đích giúp công dân, cơ quan tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản sự kiện đó, làm cho văn bản sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản sự kiện đó làm cho các văn bản sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Khái niệm này cũng có những hạn chế như: Thứ nhất, là chưa xác định được chủ thể công chứng, đối tượng hoạt động của công chứng cũng như nội dung việc công chứng. Thứ hai, là chưa phân biệt rõ hoạt động công chứng với hoạt động của cơ quan nhà nước khác. Ngày 27 tháng 02 năm 1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) đã ban hành Nghị định số 45/HĐBT đưa ra khái niệm Công chứng là: “Công chứng nhà nước là việc xác nhận tính xác thực của các Hợp đồng, giấy tờ theo quy định của Pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan 8
  15. nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ được công chứng có giá trị chứng cứ”. So với Thông tư 574/QLTPK ngày 10 tháng 10 năm 1987 của Bộ Tư pháp, thì khái niệm công chứng được quy định ở Nghị định số 45/HĐBT ngày 27 tháng 02 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng được xác định cụ thể rõ ràng hơn tuy nhiên vẫn còn những hạn chế như sau: Chưa xác định được chủ thể của hoạt động công chứng. Quy định “chứng nhận tính xác thực của hợp đồng, giấy tờ” ở Nghị định này còn nói quá chung chung, khó hiểu, dễ gây nên sự tùy tiện và các hệ quả khác nhau trong thực tiễn hoạt động công chứng. Ngày 18 tháng 05 năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công chứng theo đó, khái niệm công chứng đã được những sửa đổi và được hiểu như sau: “Công chứng là việc xác nhận tính xác thực về các hợp đồng, giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, Nghị định số 31/NĐ-CP Ngày 18 tháng 05 năm 1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công chứng nhà nước, bước đầu có sự phân biệt hành vi công chứng và hành vi chứng thực. Tuy nhiên, ý nghĩa pháp lý của hành vi công chứng và hành vi chứng thực chưa được phân biệt. Quy định “chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng, giấy tờ” ở Nghị định này còn quá chung, khó hiểu, dễ gây nên sự tùy tiện và các hệ quả khác nhau trong thực tiễn hoạt động công chứng. Chỉ đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, khái niệm công chứng mới được tách bạch khỏi khái niệm chứng thực. Khái niệm công chứng ở Nghị định này đã được xác định khoa học hơn. Theo Nghị định này, “Công chứng là việc Phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của Hợp đồng được giao kết hoặc của giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và các quan hệ 9
  16. giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này” (Khoản 1 Điều 2). Cùng với việc xác định khái niệm công chứng như trên, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã xác định được khái niệm chứng thực “là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y các giấy tờ hợp đông giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này” (Khoản 2 Điều 2). Điểm mới quan trọng nữa của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã thay đổi tên gọi từ “Phòng công chứng nhà nước” ở các văn bản pháp lý trước đó thành “Phòng công chứng” đã xác định được chủ thể của hoạt động của công chứng là Phòng công chứng. Công chứng là việc Phòng công chứng chứng nhận…” (Điều 2). Tuy nhiên, việc xác định như vậy cũng chưa chính xác vì thực chất hành vi chứng nhận trong hoạt động công chứng chính là hành vi của Công chứng viên, người Công chứng viên phải chịu trách nhiệm về hành vi công chứng của mình trước pháp luật cũng như trước tổ chức cá nhân có yêu cầu công chứng. Vì vậy, quy định chủ thể của hoạt động công chứng là Phòng công chứng là chưa làm rõ được bản chất của vấn đề, chưa xác định một cách đúng đắn vai trò, vị trí và trách nhiệm của người Công chứng viên trọng hoạt động nghề nghiệp. Cùng với thời gian, khái niệm công chứng được các văn bản quy phạm pháp luật trên đưa ra ngày càng một hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, các khái niệm này vẫn chưa làm rõ được bản chất của công chứng do pháp luật công chứng ở nước ta là một ngành luật non trẻ, chưa tiếp cận nhiều và chưa hội nhập được với nền công chứng thế giới, các khái niệm công chứng nêu trên đều chưa trả lời thấu đáo vấn đề: Ai là chủ thể có thẩm quyền công chứng? Công chứng cho ai? hình thức công chứng là gì? Công chứng mang tính bắt buộc hay tự nguyện? phạm vi giới hạn của việc công chứng đến đâu?...Vì vậy, việc hoàn thiện về pháp luật công chứng một yêu cầu cấp thiết trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế Quốc tế. Trước yêu cầu đó Luật công chứng đã được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 10
  17. năm 2006 tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XI và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2007 theo đó khái niệm công chứng được xác định như sau: Điều 2 Luật công chứng 2006 quy định: “Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. Với khái niệm trên cho thấy, công chứng là hoạt động mang tính bắt buộc để áp dụng đối với cá nhân, tổ chức thực hiện các giao dịch có tính chất quan trọng, phức tạp hoặc những giao dịch có giá trị lớn mà nhà nước đòi hỏi cần phải có sự định hướng và kiểm soát các giao dịch đó nhằm mục đích phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra cho các bên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các giao dịch dân sự thương mại, những lợi ích vật chất và phi vật chất được thể hiện trong những cam kết thỏa thuận diễn ra trong đời sống hàng ngày, là yêu cầu chính đáng và là mong muốn của người tham gia giao dịch. Vì vậy, công chứng còn được đặt ra nhằm phục vụ rộng rãi cho các đối tượng có nhu cầu tự nguyện công chứng các hợp đồng giao dịch. Luật công chứng ra đời là một bước tiến mới của công chứng Việt Nam, làm thay đổi nhiều vấn đề về công chứng Việt Nam. Tuy về mặt nội dung của Luật Công chứng vẫn còn nhiều điều cần giải quyết cho phù hợp với tình hình thực tiễn của hoạt động công chứng ở nước ta và theo sát được những mặt tiến bộ của công chứng thế giới, song cũng phải công nhận rằng Luật công chứng năm 2006 đã đưa ra khái niệm về công chứng tương đối hoàn thiện, thể hiện được bản chất của một nền công chứng đang trên con đường hoàn thiện và hội nhập quốc tế. Khái niệm công chứng trong Luật công chứng đã chỉ ra được chủ thể của hoạt động công chứng là Công chứng viên, điều đó thể hiện đúng bản chất của hoạt động công chứng. Vì vậy, ngay trong khái niệm này đã chỉ rõ nghĩa vụ của người Công chứng viên là phải chứng nhận tính xác thực tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch điều này có ý nghĩa khi ký tên vào văn bản công chứng việc giao kết các hợp đồng, giao dịch đó người Công chứng viên phải chịu trách nhiệm bảo đảm 11
  18. rằng sự giao kết đó là xác thực về thời gian và địa điểm giao kết, chủ thể giao kết và nội dung của hợp đồng, giaodịch được giao kết đó là hợp pháp. Đứng trên phương diện lập pháp, Luật công chứng là đạo luật đầu tiên của nước ta về công chứng, sự ra đời của Luật công chứng đã đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về chất lượng công tác xây dựng pháp luật đối với lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Đặc biệt Luật công chứng năm 2006 đã thể hiện một số quan điểm mới, tiến bộ khi xây dựng và hoàn thiện chế định công chứng, tương thích với chế định khác trong hệ thống pháp luật nói chung và phù hợp với thông lệ quốc tế nói riêng như xây dựng mô hình công chứng hành nghề tự do. Ngày 20/06/2014, Quốc hội đã ban hành Luật Công chứng số 53/2014/QH13 (Luật công chứng 2014) với 10 chương, 81 điều, quy định về công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, việc hành nghề công chứng, thủ tục công chứng và quản lý nhà nước về công chứng. Luật Công chứng 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Trong đó tại Khoản 1, Điều 2 quy định “Công chứng là việc Công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực hợp pháp của hợp đồng giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng giao dịch), tính xác thực hợp pháp không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ Văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc ngược lại từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. Khác với khái niệm công chứng được quy định trong Luật Công chứng năm 2006, Luật Công chứng năm 2014 đã quy định cụ thể hơn về khái niệm công chứng “công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng”. Như vậy, qua nghiên cứu khái niệm công chứng trong các văn bản quy phạm pháp luật quy định về công chứng thì có thể hiểu khái niệm công chứng như sau: “Công chứng là hoạt động nhà nước, được ủy quyền cho một tổ chức, đó là tổ chức hành nghề công chứng; Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng, giấy tờ của công chứng viên theo quy định của pháp luật. Các hoạt động công 12
  19. chứng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân các tổ chức khác; Các loại giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ” 1.1.2. Pháp luật về công chứng Từ khái niệm công chứng, chúng ta có thể tiếp cận khái niệm pháp luật về công chứng như sau: Pháp luật về công chứng là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa Nhà nước với tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên khi quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện hành nghề; giữa tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên với các cá nhân, tổ chức trong xã hội khi tiến hành hoạt động công chứng. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, pháp luật về công chứng được tiếp cận ở một số nội dung cơ bản như sau: Thứ nhất, về tổ chức hành nghề công chứng Tổ chức hành nghề công chứng theo quy định tại Khoản 5, Điều 2 Luật Công chứng 2014 quy định “Tổ chức hành nghề công chứng bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan”. Pháp luật về công chứng quy định về nguyên tắc thành lập tổ chức hành nghề công chứng, phòng công chứng, thành lập phòng công chứng, chuyển đổi, giải thể phòng công chứng; văn phòng công chứng, thành lập và đăng ký hoạt động văn phòng công chứng, thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của văn phòng công chứng, cung cấp thông tin về nội dung đăng ký hoạt động của văn phòng công chứng, đăng báo nội dung đăng ký hoạt động của văn phòng công chứng, thay đổi thành viên hợp danh của văn phòng công chứng, hợp nhất sát nhập văn phòng công chứng, chuyển nhượng văn phòng công chứng, thu hồi quyết định cho phép thành lập, chấm dứt hoạt động văn phòng công chứng; quyền của tổ chức hành nghề công chứng, nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng. Nội dung về tổ chức hành nghề công chứng được quy định từ Điều 18 đến Điều 33 trong Chương III của Luật Công chứng số 53/2014/QH13. Luật quy định khuyến khích phát triển Văn phòng công chứng theo định hướng xã hội hóa, quy định 13
  20. việc chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng, trong trường hợp không chuyển đổi được thì mới giải thể Phòng công chứng. Văn phòng công chứng phải do hai công chứng viên trở lên thành lập, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đối với loại hình công ty hợp danh. Tên gọi của Văn phòng được đặt theo họ, tên của công chứng viên Thứ hai, về công chứng viên.Luật Công chứng 2014 quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn công chứng viên, quy định thời gian đào tạo nghề công chứng là mười hai tháng; quy định người được miễn đào tạo nghề công chứng phải tham gia khóa bồi dưỡng trước khi đề nghị bổ nhiệm, được giảm một nửa thời gian tập sự và cũng phải tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng; bổ sung quy định về bổ nhiệm lại; bổ sung một số quyền và nghĩa vụ đối với công chứng viên. Nội dung pháp luật quy định về công chứng viên bao gồm: Về tiêu chuẩn công chứng viên: Theo Điều 8 Luật Công chứng 2014: “Tiêu chuẩn công chứng viên. Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm công chứng viên: 1. Có bằng cử nhân luật; 2. Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật; 3. Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng quy định tại Điều 9 của Luật này hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật này; 4. Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng; 5. Bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng” Về thời gian đào tạo công chứng:Luật Công chứng năm 2014 tăng thời gian đào tạo công chứng từ 06 tháng lên 12 tháng. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1