Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên
lượt xem 7
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM VĂN NAM TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI - NĂM 2017
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM VĂN NAM TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Mã số: 60 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS Trần Thị Diệu Oanh HÀ NỘI - NĂM 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan các nội dung được trình bày trong Luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi. Nội dung, số liệu trong Luận văn là chính xác trung thực, phản ánh tính khách quan trong quá trình nghiên cứu. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành chính quốc gia. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Hành chính quốc gia xem xét cho tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn Điện Biên, tháng 7 năm 2017 Học viên Phạm Văn Nam
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.2: Số lượng các vụ Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử từ năm 2012 đến năm 2016 Bảng 2.2: Đặc điểm nhân thân bị cáo bị xét xử trong năm 2016 Bảng 3.2: Cơ cấu loại tội phạm do Tòa án nhân tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm trong năm 2016 Bảng 4.2: Tỷ lệ các vụ án được xét xử lưu động so với tổng số vụ án được giải quyết từ năm 2012 - 2016 Bảng 5.2: Thống kê các vụ án xét xử lưu động của các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên năm 2016
- MỤC LỤC Trang MỤC LỤC ................................................................................................................... 1 MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 3 1. Tính cấp thiết của đề tài. ......................................................................................... 3 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài: ............................................................. 5 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ....................................................................... 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn: ................................................... 8 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 8 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ............................................................... 8 7. Cơ cấu của Luận văn ............................................................................................... 9 Chương 1. LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN ......................................... 10 1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật............................................................................10 1.2. Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân nhân .................................................................................................................. 14 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân....................................................................... .......30 Kết luận chương 1 ..................................................................................................... 34 Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN TỈNH ĐIỆN BIÊN.......... 35 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và văn hóa, xã hội của tỉnh Điện Biên có ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt xét xử.. .............................. 35 2.2. Tình hình tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên ................................................................................ 38 2.3. Đánh giá chung về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên .............................................................. 54 Kết luận chương 2 ..................................................................................................... 61 1
- Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN .............................................................................. 62 3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên .............................................................. 62 3.2 Giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên .............................................................. 69 Kết luận chương 3 ..................................................................................................... 87 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 92 2
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến công tác này. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đề cập đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật; huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cơ quan nhà nước và trong xã hội’’. Nghị quyết số 08–NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ cần: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên toà xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân”. Hiến pháp năm 1992 giao Chính phủ nhiệm vụ: “Tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân”. Nhiều văn bản của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật như: Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật… Đặc biệt, Chỉ thị số 32- CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Chỉ thị số 32-CT/TW khẳng định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”. 3
- Thực hiện các chủ trương của Đảng về công tác giáo dục pháp luật nhà nước ta đã ban hành Luật phổ biến, giáo dục pháp luật số 14/2012/QH13 ngày 20/6/2012 tại khoản 5 Điều 14 qui định về các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật: “Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở”. Luật tổ chức TAND năm 2014 qui định “...bằng hoạt động của mình: Toà án giáo dục cho mọi người ý thức tôn trọng pháp luật, rèn luyện thói quen tuân thủ pháp luật, cần làm cho mọi người tin rằng bất cứ sự vi phạm pháp luật nào cũng sẽ bị Toà án và xã hội lên án, giáo dục mọi công dân ý thức tham gia vào hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm” . Như vậy ngoài chức năng hiến định và nhiệm vụ chính trị được giao là xét xử, giải quyết các loại án thì một nhiệm vụ quan trọng khác của Tòa án nhân dân là thực hiện giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động của mình nói chung và hoạt động xét xử nói riêng. Xét xử có vai trò quyết định đối với việc giữ gìn, bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật, bởi hoạt động xét xử bao giờ cũng gắn với việc nhân danh Nhà nước ra một quyết định, một bản án bảo vệ lợi ích Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; giáo dục cho công dân có ý thức tuân thủ pháp luật. Toà án có thể thực hiện hoạt động giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, nhưng tập trung nhất và quan trọng nhất vẫn là giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử. Thông qua hoạt động xét xử, các chủ thể tác động đến các bên tham gia tố tụng; những người tham dự phiên toà, làm hình thành ở họ ý thức pháp luật, chỉ ra cho họ con đường đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật, hay các biện pháp để tự bảo vệ quyền các quyền và lợi ích chính đáng của mình; có thể giúp họ hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn về những quy định của pháp luật được áp dụng để giải quyết vụ án. Từ đó họ có thể tự đánh giá về trách nhiệm pháp lý của mình, giúp hình thành ở họ những cảm xúc về sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, giúp họ định hướng hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật, giúp định hướng dư luận xã hội, nhờ đó mà phát huy tác dụng phòng, chống các vi phạm pháp luật. 4
- Điện Biên là một tỉnh miền núi phía Tây Bắc, dân cư chủ yếu là đồng bào dân tộc, trình độ văn hóa thấp, điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn... Trong những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Điện Biên, tình hình các vi phạm pháp nói chung đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Các vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, các tranh chấp về dân sự, hành chính, kiếu kiện, kiếu nại kéo dài vượt cấp gây ảnh hưởng không nhỏ đến trất tự, trị an trên địa bàn, cán trở sự phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội của tỉnh. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân còn rất nhiều hạn chế. Trong thời gian qua Hoạt động giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên từ thực tiễn cho thấy công tác trên vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập, đôi lúc, có nơi chưa dựa trên những cơ sở khoa học đúng đắn dẫn đến hiệu quả của công tác trên vẫn chưa đáp ứng được với đỏi hỏi trong tình hình hiện nay. Từ những thực tế nếu trên, việc nghiên cứu lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân nói chung, ở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên nói riêng, nhằm đánh giá thực trạng, nêu ra nguyên nhân, chỉ ra những nét đặc thù của công tác này, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Điện Biên có tính cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Do đó học viên chọn đề tài “Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên" làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài: Giáo dục pháp luật luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay việc giáo dục pháp luật càng có vai trò quan trọng. Do đó, giáo dục pháp luật là một trong những nội dung mà các nhà khoa học pháp lý quan tâm, là vấn đề mang tính cấp thiết ở nước ta hiện nay. Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ, nhiều đối tượng khác nhau như: - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong thời kỳ đổi 5
- mới. Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92 - 98 - 223 - ĐT của viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp. - Xây dựng ý thức và lối sống pháp luật, do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên,1995. - Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội ở nước ta, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hoàng Thị Kim Quế chủ nhiệm, năm 2002. - Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách, Nguyễn Đặng Đình Lục, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2005. - Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật, Trần Thị Sáu, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, năm 2008 - Trần Công Lý (2009), Giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Quản lý hành chính công, Hà Nội. Cũng đã có một số công trình liên quan đến giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. - Dương Thanh Mai (1996), Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp (bằng thực tiễn của tòa án và luật sư), Luận án Phó tiến sĩ luật học, Hà Nội. - Nguyễn Thị Tĩnh (2013), Giáo dục pháp luật trong hoạt động thu thập chứng cứ tại Tòa án, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 4/2013 - Nguyễn Xuân Hòa (2016), Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội Đánh giá chung: Các công trình trên được các tác giả nghiên cứu ở những góc độ và phương diện, đối tượng khác nhau, trên phạm vi cả nước hoặc trên một số địa bàn nhất định. Các công trình đã góp phần làm sáng tỏ lý luận về công tác tổ chức giáo dục pháp luật, chỉ ra thực trạng và nguyên nhân, giải pháp nâng cao công tác trên trong mỗi một giai đoạn hoạc một phạm vi địa lý hoạc đối với đối tượng nhất định. Tuy nhiên, mỗi địa phương khác nhau luôn có những đặc thù riêng về kinh tế, văn hoá, xã hội, phong tục lối sống...mặt khác phương thức giáo dục pháp luật của mỗi một chủ thể cũng khác nhau do chức năng, nhiệm vụ của chủ thể qui định. Từ đó dẫn đến cơ sở lý luận, thực trạng, nguyên nhân, giải pháp nâng cao 6
- hoạt động giáo dục pháp luật ngoài những đặc điểm chung thì vẫn có những nét riêng biệt. Hơn nữa từ trước đến nay, chưa có đề tài nào nghiên cứu về công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên. Luận văn kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu trên, đồng thời đi sâu nghiên cứu về công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu: Phân tích cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ: - Phân tích làm rõ khái niệm, đặc trưng, vai trò của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân; chủ thể, nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. - Phân tích, đánh giá các yếu tố có ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật của Tòa án nói chung và Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên nói riêng; thực trạng công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên. - Trên cơ sở thực trạng tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, cùng với những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên trong những năm tiếp theo. 7
- 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn: 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên giai đoạn từ năm 2011 đến nay. Năm 2011 là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết Đảng Bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XII nên kinh tế, văn hóa, xã hội, dân cư có sự thay đổi so với thời gian trước. Đặc biệt năm 2011 cũng là năm đánh giá kết quả thực hiện chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân theo Kết luận số 04- KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, hệ thống các chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục pháp luật. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Với đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn để đạt được mục đích nghiên cứu tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng để nêu, phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn. Phương pháp so sánh, thống kê được sử dụng để cung cấp các số liệu cần thiết , đối chiếu, so sánh, làm rõ các nội dung liên quan đến vấn đề tổ chức giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử Phương pháp mô tả để làm rõ những vần đề về hình thức tổ chức giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên. 8
- Phương pháp lịch sử dùng để phân tích, đánh giá, bình luận về thực trạng của công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên nói riêng. Phương pháp khái quát hóa được dùng để nêu ra và phân tích, đánh giá những thành tựu chung của công tác tổ chức giao dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử trên địa bàn trong thời gian vưa qua. Quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng kết hợp với các phương pháp, như khảo sát thực tiễn, nghiên cứu các báo cáo tổng kết, hồ sơ, bản án các vụ án đã được xét xử từ năm 2011 đến năm 2016. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Là công trình nghiên cứu toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án, luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận và cơ sở của các chính sách xã hội, chính sách pháp luật đối với tỉnh Điện Biên. Đề tài cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập, trong việc lập kế hoạch, thực hiện việc chỉ đạo điều hành công tác tổ chức giáo dục pháp luật thông qua hoạt động của Tòa án nhân dân. Góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật và đấu tranh phòng, chống có hiệu quả các vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Điện Biên. 7. Cơ cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm có 3 chương. Chương 1: Lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên 9
- Chương 1 LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN 1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật Khái niệm giáo dục pháp luật hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau. Để làm rõ khái niệm giáo dục pháp luật chúng ta bắt đầu phân tích từ các cụm từ cấu thành nên khái niêm trên. Cụm từ “ giáo dục” được hiểu là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội. Cụm từ “ pháp luật” được hiểu là điều khoản do cơ quan lập pháp đề ra để qui định mọi hành vi của mọi công dân, trong quan hệ giữa người với người, giữa người với xã hội và bắt buộc mọi người phải tuân theo. Khái niệm giáo dục pháp luật hiện nay có các quan điểm sau: Quan điểm thứ nhất: Giáo dục pháp luật là một trong những yếu tố cấu thành của giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức. Chỉ cần thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức là mọi người có ý thức pháp luật cao, có sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Quan điểm thứ hai: Coi giáo dục pháp luật là sự tuyên truyền, phổ biến, hay giải thích pháp luật. Theo quan điểm này, việc giáo dục pháp luật thực chất chỉ là các đợt tuyên truyền, phổ biến khi có các văn bản pháp luật mới được ban hành. Quan điểm thứ ba: Không có khái niệm giáo dục pháp luật vì pháp luật là những qui tắc xử sự do nhà nước đặt ra, có tính bắt buộc chung, tất cả mọi người đều phải có nghĩa vụ thực hiện, vì thế không đặt ra vấn đề giáo dục pháp luật, chỉ cần ban hành, phổ biến pháp luật và mọi người đều phải thực hiện. Các quan niệm nói trên đều mang tính phiến diện, một chiều, chưa thấy hết đặc thù, sự tác động của giáo dục pháp luật, nên đã vô tình hoặc cố ý hạ thấp vai trò, giá trị xã hội của giáo dục pháp luật. Bởi vì, bản thân pháp luật mới chỉ là văn bản qui phạm pháp luật, là mô hình ở dạng "tiềm năng". Pháp luật chỉ thực sự đi vào cuộc sống thông qua cơ chế điều chỉnh bao gồm các giai đoạn: Ban hành, tuyên 10
- truyền giáo dục, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát. Trong cơ chế đó yếu tố con người là cơ bản. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, con người phải suy nghĩ, lựa chọn cách xử sự thể hiện qua hành vi. Đây là một quá trình tâm lý phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Ở giai đoạn này, qui phạm pháp luật có khả năng tác động lên ý thức của cá nhân như khuyến khích hành vi hợp pháp hoặc kìm chế hành vi bất hợp pháp. Do đó, việc phổ biến văn bản pháp luật mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để cá nhân hành động phù hợp theo yêu cầu của pháp luật. Điều kiện đủ ở đây là cá nhân phải có ý thức pháp luật đúng đắn, ý thức đó phải được hình thành dưới sự tác động liên tục, thường xuyên của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan dẫn đến hành vi hợp pháp của cá nhân. Cho nên xây dựng luật, công bố luật chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn phải tuyên truyền, giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt. Để xác định đúng đắn khái niệm giáo dục pháp luật, cần xuất phát từ khái niệm giáo dục ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp: Giáo dục pháp luật là hoạt động có ý thức, có mục đích và định hướng của con người tác động lên khách thể giáo dục. Theo cách hiểu này thì sự tác động hay ảnh hưởng của các nhân tố không phải do con người thực hiện không thuộc nội hàm của giáo dục pháp luật. Theo nghĩa rộng: Giáo dục pháp luật là quá trình ảnh hưởng của những điều kiện khách quan (chế độ xã hội, môi trường sống, điều kiện kinh tế...) và sự tác động của nhân tố chủ quan (tác động có định hướng của con người như giáo dục của gia đình, thầy cô, bố mẹ...) lên đối tượng giáo dục. Trong thực tiễn, tuy thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách quan là to lớn đối với việc hình thành ý thức cá nhân con người, các nhà lý luận, các nhà khoa học vẫn nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu, cực kỳ quan trọng, thậm chí mang yếu tố quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Từ những quan niệm trên, giáo dục pháp luật trước hết là một hoạt động mang đầy đủ tính chất chung của giáo dục, nhưng nó cũng có những nét đặc thù riêng, phạm vi riêng để tác động lên ý thức con người. Theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp của giáo dục pháp luật được 11
- hiểu là: Con người nói chung là khách thể (hay đối tượng) chịu ảnh hưởng và tác động của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành nên ý thức, tình cảm và hành vi pháp luật. Hoạt động giáo dục pháp luật, đó chính là sự tác động của nhân tố chủ quan mà trước hết là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định thành một hệ thống của nhiều chủ thể. Còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm của điều kiện khách quan. Sự phân biệt hai phạm trù này có ý nghĩa quan trọng ở chỗ tạo ra khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn của hoạt động giáo dục pháp luật. Thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu buông trôi, thả lỏng việc giáo dục pháp luật thì các nhân tố tiêu cực như: hiện tượng vi phạm pháp luật, phạm tội chưa được xử lý nghiêm minh; hiện tượng nhận hối lộ, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, công chức sẽ có điều kiện tác động phản giáo dục rất mạnh lên nhận thức, tình cảm, lòng tin vào pháp luật của công dân. Từ đó, có thể hình thành loại ý thức pháp luật ngược với mục tiêu của nền pháp chế và là cơ sở cho các hành vi vi phạm pháp luật tăng lên. Ngược lại, nếu xác định đúng đắn các yếu tố của giáo dục pháp luật như nội dung, hình thức, phương pháp... và định hướng chúng ngay trong các hoạt động của thực tiễn pháp luật phù hợp với yêu cầu từng giai đoạn, từng thời kỳ thì sẽ giảm bớt được tác động của các tiêu cực, giúp cho đối tượng được giáo dục có ý thức pháp luật vững vàng, có khả năng phân tích, phê phán một cách đúng đắn về hiện thực pháp luật trong quá trình vận động của nó. Từ đó có thái độ và hành động phù hợp với pháp luật. Từ đó cho ta thấy rõ hơn mối quan hệ giữa cái riêng, cái đặc thù của giáo dục pháp luật với cái chung, cái phổ biến của giáo dục. Giáo dục pháp luật vừa mang những đặc điểm chung của giáo dục, sử dụng các hình thức phương pháp của giáo dục nói chung, vừa thể hiện những nét đặc thù riêng có của mình trong mối liên hệ chặt chẽ với các loại hình giáo dục khác như giáo dục chính trị, đạo đức... Tính đặc thù của giáo dục pháp luật thể hiện ở cả mục đích, nội dung và ở cả hình thức, phương pháp. Nét đặc thù của giáo dục pháp luật khác tương đối với các dạng giáo dục khác 12
- ở chỗ: + Giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình, đó là hoạt động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. + Giáo dục pháp luật có nội dung riêng, đó là sự tác động định hướng với nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói chung, của một nhà nước nói riêng về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật. Trong đó, pháp luật thực định hiện hành của Nhà nước là bộ phận vô cùng quan trọng. + Xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương pháp giáo dục cũng có thể chỉ ra các nét đặc thù của giáo dục pháp luật. Chẳng hạn, giáo dục pháp luật so với các dạng giáo dục khác, đó là quá trình tác động liên tục, thường xuyên, lâu dài chứ không phải là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Vì thế, giáo dục pháp luật trở thành sợi chỉ đỏ xuyên nối qua gia đình, nhà trường, các tập thể lao động, các tổ chức Đảng, Nhà nước, các đoàn thể xã hội. Nhân tố con người với hành vi hợp pháp đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động qua lại giữa người giáo dục (chủ thể) với người được giáo dục (đối tượng). Người được giáo dục là người chịu sự tác động có tổ chức, có định hướng các thông tin pháp luật. Vì vậy, sự hiểu biết về trình độ, đặc điểm nhân thân của người được giáo dục là đòi hỏi hàng đầu đối với người giáo dục. Đồng thời, người giáo dục pháp luật cần phải nắm vững tri thức pháp luật, biết cách chuyển tải nó và hơn thế nữa phải là tấm gương, phải là hình mẫu trong việc tuân theo pháp luật. Bởi vì, trong giáo dục pháp luật thì nguyên tắc "làm gương", "làm mẫu", có ảnh hưởng to lớn đối với người được giáo dục. Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng có thể hiểu Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ đích nhằm đạt mục đích hình thành ở đối tượng được tác động tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội và nâng cao trình độ pháp luật của nhân dân. Với khái niệm giáo dục pháp luật như đã nêu trên: Giáo dục pháp luật trước hết là một hoạt động giáo dục có mục đích, có tổ chức, có định hướng nhằm tác 13
- động đến đối tượng giáo dục tri thức pháp luật, tình cảm, ý thức tuân thủ pháp luật hiện hành. Giáo dục pháp luật được tiến hành bởi nhiều chủ thể khác nhau do vai trò chức năng nhiệm vụ của các chủ thể qui định, các chủ thể có thể là cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân và được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương pháp, cách thức khác nhau. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, việc trang bị tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm và thói quen pháp luật cho mọi công dân là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Trong đó trước hết thuộc về hệ thống các cơ quan có chức năng giáo dục đào tạo nói chung và các cơ quan có chức năng giáo dục pháp luật của Nhà nước nói riêng. Giáo dục pháp luật là một trong những mắt xích quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công dân, nhằm phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ là tiếp tục "xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" {9}, chúng ta đang từng bước phấn đấu nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong phương hướng đó, giáo dục pháp luật giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, vì đó là khâu đầu tiên để tạo ra tiền đề ý thức cho phương hướng có khả năng trở thành hiện thực trong đời sống xã hội. Thực tế trong thời gian qua cho thấy, sự coi nhẹ và thiếu năng động trong công tác giáo dục pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ý thức pháp luật của cán bộ công chức và nhân dân còn thấp, pháp luật và kỷ cương của Nhà nước bị vi phạm ngày càng phổ biến. Điều đó đặt ra cho chúng ta sự cần thiết phải nhận thức ý nghĩa mang tầm chiến lược của công tác giáo dục pháp luật trong suốt cả quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nó là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. 14
- 1.2. Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân 1.2.1. Khái niệm tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân Tổ chức giáo dục pháp luật là hoạt động có sắp sếp, định hướng một cách có tổ chức, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và thường xuyên do các cơ quan, tổ chức nhà nước, đoàn thể hoạc cá nhân thực hiện hướng tới nhận thức của con người, nhằm hình thành ở họ ý thức pháp luật, thái độ chấp hành pháp luật, thói quen tuân thủ pháp luật, phù hợp với các quy định của pháp luật và đòi hỏi của nền pháp luật xã hội chủ nghĩa. Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc thực tế đã xảy ra nhằm đưa ra một phán xét đúng đắn về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc; từ đó, nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc. Xét xử cũng được hiểu theo nghĩa là một giai đoạn tố tụng quan trọng được tiến hành dưới hình thức phiên tòa nhằm xem xét, phán xét, nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết theo trình tự luật định về vụ, việc thuộc thẩm quyền của Toà án. Hoạt động xét xử tại phiên tòa gần như là khâu cuối của hoạt động tố tụng. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 tại khoản 1 Điều 2 qui định Bằng hoạt động của mình Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác {23, tr. 6} . Chức năng chính của Toà án là thực hiện hoạt động xét xử. Thông qua hoạt động xét xử nói chung, cùng với việc đưa ra phán quyết, Toà án có thể thực hiện hoạt động giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, như thông qua các hoạt động xét xử tại phiên toà, thông qua hoạt động thông tin, báo chí hoặc các hoạt động khác (tuyên truyền, phổ biến pháp luật tại trường học, địa phương...); hoạt động giáo dục pháp luật của Tòa án không chỉ bó gọn ở phiên tòa xét xử mà được thực hiện ở các hoạt động khác có thể là trong hoạt động tố tụng hoạc các hoạt động của mình. Trong hoạt động tố tụng cũng không chỉ ở tại phiên 15
- tòa mà còn được thực hiện ở các giai đoạn tố tụng của một vụ án, vụ việc như hoạt động hòa giải, đối thoại, lấy lời khai đương sự... Xong hình thức tập trung nhất và mang tính đặc thù nhất vẫn là giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử tại phiên toà. Trên thực tế việc tổ chức giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử được tiến hành song song với việc tổ chức công tác xét xử ở mỗi tòa án, đó là việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết, các thủ tục tố tụng để giải quyết hoạc đưa một vụ án ra xét xử. Để các vụ án được xét xử một cách khách quan toàn diện, triệt để, đúng thời hạn do pháp luật quy định và thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật hướng tới mục đích giáo dục ý thức pháp luật, tuyên truyền phổ biến pháp luật đến các đối tượng là những người tham gia tố tụng: bị cáo, bị hại, nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng...và những người tham dự theo dõi phiên tòa trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua phương tiện truyền thông thì việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch xét xử đối từng vụ án cụ thể là hết sức quan trọng. Việc xây dựng kế hoạch tổ chức xét xử đối với các vụ án sẽ giúp Tòa án sắp xếp, bố trí, sử dụng nguồn lực một cách khoa học nhất đem lại hiệu quả của việc xét xử cao nhất. Chẳng hạn để đưa một vụ án hình sự đưa đi xét xử lưu động thì thẩm phán được phân công xét xử phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, xem xét về tính chất, hành vi, nhân thân của bị cáo, bị hại nếu có để quyết định vụ án đó có xét xử lưu động được hay không để báo cáo xin ý kiến lãnh đạo tòa án, nếu được đồng ý thì Tòa án phải lên lịch xét xử và kế hoạch xét xử cụ thể đối với vụ án, được giao cho chính quyền địa phương nơi xét xử vụ án thông báo công khai để nhân dân biết tham dự phiên tòa. Đồng thời Tòa án cũng phải phối hợp với Viện kiểm sát, lực lượng bảo vệ phiên tòa, đảm bảo sự có mặt của những người tiến hành tố tụng, sự có mặt của những người tham gia tố tụng, chuẩn bị đề cương xét hỏi, tranh tụng và những nội dụng cần tuyên truyên phổ biến tại phiên tòa, dự kiến mức hình phạt để đưa ra thảo luận trong hội đồng xét xử... Một vụ án được xét xử công khai, nghiêm minh, thấu tình, đạt lý, đúng trình tự thủ tục theo quy định, đảm bảo áp dụng đầy đủ các căn cứ pháp lý được đại đa số mọi người đồng tình là cách tuyên truyền giáo 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 267 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và luật hành chính: Quản lý nhà nước về cư trú từ thực tiễn quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
78 p | 109 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đổi mới hoạt động giám sát của HĐND quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
110 p | 69 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Kiểm soát thủ tục hành chính từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
87 p | 74 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình
109 p | 80 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình
94 p | 82 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 105 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
86 p | 70 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đánh giá viên chức ngành Y tế từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
83 p | 56 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Y tế Hà Nội
94 p | 71 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
91 p | 42 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tuyển dụng viên chức ngành y tế từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
75 p | 50 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế - từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
82 p | 55 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo đảm quyền vui chơi, giải trí của trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội
91 p | 45 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn