intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Công ty INVESCO

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:75

20
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực, đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại công ty INVESCO. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Công ty INVESCO

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  DƯƠNG HOÀNG NHẬT BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG  NGUỒN NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY INVESCO LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC 
  2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  DƯƠNG HOÀNG NHẬT BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG  NGUỒN NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY INVESCO LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC  Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC Mã số:     60 14 01 14                         NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGÔ MINH TUẤN
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương  CƠ  SỞ  LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG  17 1 QUẢN   LÝ   BỒI   DƯỠNG   NGUỒN   NHÂN   LỰC   TẠI   CÔNG TY INVESCO 1.1 Một số khái niệm cơ bản 17 1.2 Nội dung quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân  lực 30 1.3 Tiêu chí đánh giá thực trạng quản lý hoạt động bồi  dưỡng nguồn nhân lực tại Công ty Invesco 32 1.4 Thực trạng và nguyên nhân của quản lý hoạt động  bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Công ty Invesco 34 Chương  TÁC ĐỘNG, YÊU CẦU, BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT  2 ĐỘNG BỒI DƯỠNG NGUỒN NHÂN LỰC TẠI CÔNG  TY INVESCO 48 2.1  Tác động và yêu cầu quản lý hoạt động bồi dưỡng  nguồn nhân lực tại Công ty Invesco 48 2.2 Các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn   nhân lực tại công ty Invesco  60 2.3 Khảo nghiệm tính khả  thi của biện pháp quản lý  hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực 75 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ                                                                  80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO                                                 83 PHỤ LỤC                                                                                                   87
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bước vào thế kỷ XXI cùng với sự bùng nổ của khoa học, công nghệ,  sự phát triển nhanh về kinh tế, xã hội và xu thế hội nhập của thế giới, hoạt  động bồi dưỡng nguồn nhân lực thực sự trở thành vấn đề cấp thiết. Trong   mỗi nhà trường hay doanh nghiệp đều cần có nhiều nguồn lực để  duy trì  hoạt động và phát triển theo mục tiêu, nhưng nguồn nhân lực bao giờ cũng  giữ vị trí quan trọng nhất. Với các kiến thức, kỹ năng, kỹ  xảo, kinh nghiệm có được, nhân lực  sẽ sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra   sản phẩm đạt năng suất, chất lượng và mục đích tốt nhất. Tổ chức nào có  nguồn nhân lực có tri thức cao, kiến thức sâu rộng về chuyên môn và sáng  tạo thì chất lượng sản phẩm, chất lượng của quá trình quản trị, chất lượng  các nguồn lực sẽ  luôn mạnh hơn trước các đối thủ  cạnh tranh. Vì vậy,   nhiều tổ  chức đã xem hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực là một chiến   lược cần phải được thực hiện thường xuyên. Nghị  quyết Đại hội lần thứ  XI của Đảng chỉ  rõ: “Phát triển nguồn   nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi;   đội ngũ cán bộ  khoa học, công nghệ, văn hóa đầu đàn...”[37, tr216] được   coi   là   một   trong   những   động   lực   quan   trọng   thúc   đẩy   sự   nghiệp   công  nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để  phát huy nguồn lực con người,   yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.   Đảng cũng nhấn mạnh phải đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ  các cấp đáp  ứng yêu cầu phát triển của đất nước: “Thực hiện tốt chiến   lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”[37, tr216].              Đội ngũ cán bộ  ­ nhân viên  ở  công ty INVESCO là nguồn lực chủ  yếu, là người xây dựng kế  hoạch, chương trình, thực hiện nhiệm vụ  của  công ty. Cấp  ủy, Ban Tổng Giám đốc đã thường xuyên quan tâm đào tạo 
  5. bồi dưỡng cán bộ ­ nhân viên. Trong Đại hội cổ đông thường niên 2012 và  Nghị quyết Hội đồng quản trị đề cập vấn đề “Đào tạo, bồi dưỡng để nâng  cao kiến thức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ thuộc lĩnh vực được phân  công của cán bộ ­ nhân viên trong công ty INVESCO là tạo cơ hội, cũng là   vấn đề  quan trọng chiến lược phát triển của Công ty”[3, tr1]. Thông qua   đào tạo, bồi dưỡng sẽ  góp phần nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả  lao động, xây dựng đội ngũ ngày càng chuyên nghiệp, đủ năng lực đáp ứng  được yêu cầu phát triển của công ty. Trong những năm gần đây, công tác  đào tạo, bồi dưỡng tại công ty ngày càng đa dạng, phong phú về  chương   trình, hình thức, nội dung nhưng vấn đề quản lý hoạt động bồi dưỡng, đào   tạo trước, trong và sau đào tạo hiệu quả chưa cao, phát sinh nhiều vấn đề,  dẫn tới nhiều hạn chế, bất cập mà hoạt động quản lý cần giải quyết. Xuất phát từ  lý do trên tác giả  đã lựa chọn vấn  đề:  “Biện pháp  quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Công ty INVESCO”  để  nghiên cứu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả  quản lý hoạt động bồi  dưỡng nguồn nhân lực của công ty INVESCO. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Nghiên   cứu   ở   nước   ngoài   về   quản   lý   hoạt   động   bồi   dưỡng   nguồn nhân lực   Các tư tưởng nghiên cứu về con người và bồi dưỡng, phát triển con  người  đã có từ  thời  cổ   đại gắn liền với tên tuổi của triết gia Hi Lạp   Socrate (470­399 TCN) với châm ngôn nổi tiếng “Hãy nhận thức chính bản  thân mình”. Theophrastos (372­287 TCN), nhà nghiên cứu tự  nhiên cố  đại  Hi Lạp đã sử dụng các thành tựu khoa học to lớn trong nhiều thế kỉ để  mô  tả các kiểu người khác nhau trong luận văn “Các tính cách đạo đức”. Thời  trung cổ, các nghiên cứu về con người gắn liền với tên tuổi của Guillaume  d Occam (cuối thế kỉ XIII­1349), nhà thần học và triết học kinh viện người  Anh. Thời kì Phục hưng cơ L. de Vinci (1452­1519), người Ý và K. Huarte 
  6. (1529­1592),   người   Tây   Ban   Nha.   Tiếp   sau   đó   là   các   nghiên   cứu   của  Montesquieu   (1689­1755),   F.   M.   Voltaire   (1694­1778),   D.   Diderot   (1713­ 1784), J. J. Rousseau (1712­1778)… Quản lý đào tạo, bồi dưỡng trong doanh nghiệp đã được nhiều tác  giả đề cập đến trong tài liệu quản trị nguồn nhân lực, lồng ghép trong môn  học quản trị  nhân sự. Trong tài liệu quản trị  nguồn nhân lực của tác giả  John M. Ivancevich, hình  ảnh của công tác đào tạo, bồi dưỡng, là “các  chuyên gia nhân sự tư vấn, giúp đỡ và hỗ trợ các giám đốc và những người   lao   động   không   thuộc   cấp   quản   lý   trong   công   việc   của   họ”.   Hay   theo   Robert L.Mathis và John H.Jackson, quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn   nhân lực là “tiến hành mà thông qua đó nhân viên có được khả năng giúp đỡ  trong việc đạt được mục tiêu của tổ chức”.  Theo Cenzo and Robbins, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng là tiến trình  bao gồm những phương pháp được sử  dụng nhằm tác động lên quá trình  đào tạo bồi dưỡng để nâng cao kiến thức và kỹ năng thực hành. Các công trình của L. Nadler và Z. Nadeler (1990 và 1992) cho rằng,  phát triển nguồn nhân lực bao gồm 3 loại chương trình  ở  3 mức độ  quan  tâm khác nhau: đào tạo, giáo dục và phát triển. Nghiên cứu của Marquardt và Engel (1993) đã xác định phát triển  nguồn nhân lực bao gồm 3 lĩnh vực: đào tạo và phát triển; phát triển tổ  chức và phát triển sự nghiệp để tăng cường kết quả của cá nhân, nhóm và  tổ  chức. Họ  đã đưa ra danh mục 35 năng lực được xếp thành 4 nhóm cần   được phát triển  ở nguồn nhân lực là năng lực kĩ thuật, năng lực thực hiện  công việc theo chuyên môn phụ  trách, năng lực liên nhân cách và năng lực  trí tuệ Ở nhiều quốc gia trên thế giới, vấn đề quản lý hoạt động bồi dưỡng  nguồn nhân lực rất được chú trọng. Tại Mỹ, với một chiến lược dài hạn, kinh phí cho giáo dục đại học   của Mỹ  đến từ  các nguồn khác nhau như  các công ty, tổ  chức Nhà nước,  
  7. các tổ chức phi chính phủ, tổ chức tôn giáo, nhà từ thiện,…Nguồn kinh phí  dồi dào mang lại cho các trường khả  năng xây dựng cơ  sở  vật chất hiện  đại, thuê giảng viên giỏi, xây dựng quỹ  hỗ  trợ  sinh viên. Để  phát triển   nguồn nhân lực, Mỹ  rất coi trọng môi trường sáng tạo và khuyến khích  phát triển nhân tài, bồi dưỡng và thu hút nhân tài trong nhiều lĩnh vực. Ở  Châu Á, Nhật Bản là một trong những nước đi đầu trong phát triển nguồn  nhân lực. Chính phủ  Nhật đặc biệt coi trọng giáo dục đào tạo, thực sự  coi đó là quốc  sách hàng đầu. Theo đó, chương trình giáo dục đối với cấp tiểu học và trung học cơ sở  là bắt buộc. Tất cả học sinh trong độ tuổi từ  6­15 tuổi được học miễn phí. Kết quả  là  tỷ  lệ  học sinh thi đỗ  các trường đại học, cao đẳng ngày càng nhiều. Nhật Bản đã trở  thành một trong những cường quốc giáo dục của thế  giới. Nhật Bản sử  dụng chế  độ  lên lương, tăng thưởng theo thâm niên để quản lý nhân lực. Ở Hàn Quốc, chính sách giáo dục được xây dựng phù hợp với đòi hỏi của nền  kinh tế. Năm 1982, Hàn Quốc thực hiện cải cách giáo dục với mục tiêu tái cấu trúc hệ  thống giáo dục hiện có thành hệ thống giáo dục mới, bảo đảm cho người dân được học  suốt đời. Tháng 12 năm 2001, Hàn Quốc công bố  chiến lược quốc gia lần thứ  nhất và  phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001­2005. Tiếp theo, chiến lược quốc gia lần thứ  hai về phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2006­2010 được xây dựng và thực hiện hiệu  quả. Nội dung chính của các chiến lược này đề cập đến sự tăng cường hợp tác giữa các   doanh nghiệp, trường đại học và các cơ  sở  nghiên cứu, nâng cao trình độ  sử  dụng và   quản lý nguồn nhân lực, nâng cao trình độ chuyên nghiệp của nguồn nhân lực trong khu  vực công, xây dựng hệ thống đánh giá và quản lý kiến thức, kỹ năng và công việc, xây   dựng kết cấu hạ tầng thông tin cho phát triển nguồn nhân lực, xây dựng và phát triển thị  trường trí thức. Tại Singapore, quan niệm “công chức là chìa khóa thành công” nên luôn coi trọng  yếu tố con người, trọng dụng nhân tài. Singapore quan niệm người tài không đồng nghĩa  là người thông minh nhất, người có nhiều bằng cấp, học vị  cao mà là người phù hợp  với công việc và đạt hiệu quả  tốt nhất trong công việc được giao. Singapore quản lý  hoạt động đào tạo, bồi dưỡng thông qua đầu tư rất lớn cho đào tạo (xây dựng cơ sở vật  chất, đội ngũ giáo viên; có chính sách  ưu đãi như  giáo dục phổ  thông được miễn phí,   bao gồm cả  học phí, sách giáo khoa, máy tính, phí giao thông...). Việc đào tạo, bồi   dưỡng công chức theo hướng mỗi người đều cần được phát triển tài năng riêng; tạo  thói quen học tập suốt đời, liên tục học hỏi để  mỗi công chức đều có đầy đủ  phẩm  
  8. chất, năng lực, trình độ  phục vụ  tốt cho nền công vụ. Singapore xây dựng chiến lược  cán bộ thể hiện bằng kế hoạch đào tạo ngắn hạn, dài hạn, đào tạo kế nhiệm, bài bản,   từ  xa, 60% nội dung đào tạo về chuyên môn, 40% nội dung đào tạo liên quan đến phát   triển. Có nhiều khóa học khác nhau dành cho các đối tượng, công chức được đi học sau   đại học bằng học bổng của Chính phủ  với điều kiện sau khi học phải phục vụ Chính  phủ từ 3 đến 5 năm, nếu không thực hiện cam kết như vậy thì phải trả lại tiền đào tạo.   Trước khi đi học, người học ký cam kết và phải có hai người có đủ  khả năng tài chính   bảo lãnh để đảm bảo tiền của Chính phủ không bị thất thoát [11]. Trung Quốc hết sức quan tâm đến việc đào tạo và sử dụng hiệu quả nguồn lực  có trong nước nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khi chuyển sang kinh tế  tri   thức. Năm 2003, Trung Quốc đã đề  ra chiến lược tăng cường hơn nữa công tác bồi   dưỡng, đào tạo nhân tài nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả  được đề  ra trong Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nội dung của chiến   lược là lấy nhân tài chấn hưng đất nước, xây dựng đội ngũ đông đảo nhân tài có chất  lượng cao, kiên quyết quán triệt phương châm tôn trọng lao động, tri thức, tôn trọng  nhân tài và sự sáng tạo, lấy thúc đẩy phát triển làm xuất phát điểm cơ bản của công tác   nhân tài, điều chỉnh nhân tài một cách hợp lý, lấy xây dựng năng lực làm điều cốt lõi, ra  sức đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nhân tài, kiên trì đổi mới sáng tạo, nỗ lực hình thành  cơ chế đánh giá và sử dụng nhân tài một cách khoa học. Trung Quốc đặc biệt chú trọng nâng cao trình độ chính trị, phẩm chất, năng lực   chuyên môn cho đội ngũ công chức nhằm xây dựng một đội ngũ công chức chuyên   nghiệp và có chất lượng cao. Nội dung chương trình đào tạo chủ  yếu được xây dựng   dựa vào vị trí của từng công chức để  đào tạo, bồi dưỡng. Thông thường một khóa học   của công chức bao gồm khóa học cơ bản và khóa học chuyên môn, gọi là mô hình "cơ  bản + chuyên môn"… Tỷ  lệ của các khóa học thường được sắp xếp là 30% cơ  bản và   70% chuyên môn. Cấu trúc và thời lượng bài học có thể  được sắp xếp: bài giảng là  70%, thảo luận và trao đổi là 10%, điều tra là 10%, giấy tờ và văn bản là 5%, các khóa   học kinh nghiệm là 5%”9, công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức của Trung Quốc khá  linh hoạt song vẫn theo đúng nguyên tắc: công khai, công bằng, cạnh tranh, chọn được  người giỏi; lý luận gắn với thực tế, học tập gắn liền với  ứng dụng, coi trọng hiệu quả  thiết thực; không bồi dưỡng đủ thì không đề bạt…Có hai cách thức đánh giá chủ yếu là  đánh giá thái độ học tập và kết quả học tập. Việc đánh giá thái độ học tập dựa vào việc   học viên tham gia đầy đủ  thời gian đào tạo theo quy định và việc chấp hành kỷ  luật 
  9. nghiêm túc. Nội dung đánh giá bao gồm cả tỷ lệ tham gia các giờ học trên lớp, các sáng   kiến hội thảo và các quan điểm đúng đắn. Kết quả học tập được đánh giá dựa trên số  điểm của các bài kiểm tra, tiểu luận, đề tài. Việc đánh giá học viên trong trường được   thực hiện dưới hình thức "Mẫu đăng ký đánh giá đào tạo công chức", đó là những thông  tin phản hồi tới cơ quan, đơn vị mà học viên đang công tác. Đây là một trong những cơ  sở cho quy trình kiểm tra và đánh giá hàng năm của các bộ phận tổ chức nhân sự [11]. Có thể  thấy, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực  ở  nước   ngoài có nhiều hình thức, chương trình, nội dung, phương pháp phong phú, qua đó đã  tạo ra những tác động có hiệu quả  tới việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy   nhiên, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực  ở  nước ngoài được tập   trung vào 3 vấn đề chính sau: ­ Xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng Là bước đầu tiên được đánh giá quan trọng, trên cơ  sở  phân tích tổ  chức như  mục tiêu và điều kiện môi trường; phân tích tác nghiệp là phân tích các thói quen, kỹ  năng cần có của nhân viên để  thực hiện công việc nhanh và tốt nhất với mức hao phí  thời gian, thao tác ít nhất; phân tích nhân viên để xác định khả năng, tình cảm, mục tiêu,   uy tính, sở trường cá nhân…nhằm bồi dưỡng có mục tiêu, theo thứ tự ưu tiên. ­ Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng Xác định nội dung chương trình, phương pháp đào tạo bồi dưỡng như  tại nơi   làm việc theo hình thức hướng dẫn, giao việc; ngoài nơi làm việc thông qua các trường,   các trung tâm, các công ty đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện theo mô hình mẫu, trò chơi  quản trị. ­ Kiểm tra, đánh giá hiệu quả sau khi đào tạo, bồi dưỡng  Kiểm tra, đánh giá hiệu quả được thông qua sự thay đổi hành vi tác nghiệp, chất  lượng và năng suất, cam kết thời gian phục vụ (Singapore), tỷ lệ tham gia các giờ  học   trên lớp, các sáng kiến hội thảo và các quan điểm đúng đắn (Trung Quốc). Nghiên cứu trong nước về quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực Việt Nam là đất nước có nguồn nhân lực đang phát triển dồi dào. Nguồn nhân   lực của đất nước ta được cấu thành chủ  yếu là nông dân, công nhân, trí thức, doanh   nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành nghề.               Trong đó, nguồn nhân lực nông   dân có gần 62 triệu người (chiếm hơn 70% dân số), nguồn nhân lực công nhân là 9.5  triệu người (chiếm gần 10% dân số), nguồn nhân lực trí thức, tốt nghiệp từ  đại học,  cao đẳng trở  lên là hơn 2.5 triệu người (chiếm khoảng 2.15% dân số), nguồn nhân lực  
  10. từ các doanh nghiệp khoảng 2.0 triệu người. Hiện nay, ở nước ta đang hình thành 2 loại  hình nhân lực: Nhân lực phổ thông và nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông vẫn   chiếm số đông, trong khi đó tỷ lệ nhân lực chất lượng cao chiếm tỷ lệ rất thấp. Số liệu   thống kê năm 2010 cho thấy, trong số  20.1 triệu lao động đã qua đào tạo trên tổng số  48.8 triệu lao động đang làm việc thì chỉ  có 8.4 triệu người có bằng cấp, chứng chỉ do   các cơ  sở  đào tạo trong và ngoài nước cấp. Số  người từ  15 tuổi trở  lên được đào tạo   nghề  và chuyên môn kỹ  thuật rất thấp, chỉ  chiếm khoảng 40%. Cơ  cấu đào tạo hiện  còn bất hợp lý, tỷ  lệ  đại học và sau đại học là 1.0, trung học chuyên nghiệp là 1.3 và   công nhân kỹ thuật là 0.92, trong khi trên thế giới tỷ lệ này là 1­4­10. Theo đánh giá của  Ngân hàng thế giới (WB) Việt Nam đang thiếu rất nhiều lao động có trình độ tay nghề,  công nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn so   với nhiều nước khác. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực Việt Nam đạt   3.79 điểm (xuống thứ 11/12 nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB), trong khi đó Hàn  Quốc là 6.91, Ấn Độ là 5.76, Malaysia là 5.59, Thái Lan là 4.94,… Từ  thực trạng trên của nguồn nhân lực, vấn đề  đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao   chất lượng nguồn nhân lực được Đảng, Nhà nước, các tổ chức và nhiều nhà nghiên cứu  hết sức quan tâm. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng được Đảng Cộng sản Việt Nam đề  cập trong  Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII): Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả  về  lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ  chuyên môn và năng lực thực tiễn.   Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, các nhà doanh nghiệp   và các chuyên gia, trước hết là đội ngũ cán bộ  chủ  chốt trong hệ  thống chính trị; coi  trọng cả đức và tài, đức là gốc. Việc học tập của cán bộ phải được quy định thành chế  độ và phải được thực hiện nghiêm ngặt. Mọi cán bộ phải thường xuyên nâng cao trình  độ  mọi mặt…. Tại một số   địa phương tùy điều kiện thực tiễn đã triển khai nhiều  chương trình liên quan đến quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng như tại 2 thành phố  lớn thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Thành phố Hồ Chí Minh có chương trình “Vườn   ươm tài năng”, tại Thành phố  Hà Nội có “Quy định tạm thời về   ưu đãi, khuyến khích  các nhà khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi, người có cống hiến cho sự  nghiệp xây  dựng và phát triển Thủ  đô” và “Quy định tạm thời về  thu hút, sử  dụng, đào tạo, bồi  dưỡng tài năng trẻ và nguồn nhân lực chất lượng cao”… Theo các kết quả nghiên cứu, để phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trước mắt   và lâu dài cần phải tính đến các yếu tố  chất lượng sinh đẻ  và yếu tố  bồi dưỡng sức  
  11. dân. Không thể nói đến phát triển nguồn nhân lực khi sinh ra những đứa trẻ còi cọc, ốm   yếu. Không thể nói đến phát triển nguồn nhân lực khi sức dân không được bồi dưỡng.   Điều này liên quan đến hàng loạt các yếu tố khác như chính sách xã hội, chính sách y tế,   chính sách tiền lương, xây dựng cơ sở hạ tầng. Cũng không thể nói đến nguồn nhân lực   chất lượng cao khi chất lượng giáo dục đại học còn thấp, kết cấu hạ  tầng thấp kém,  trình độ ngoại ngữ, tin học hạn chế… Tác giả  Trần Kim Dung đã đề  cập đến vấn đề  đào tạo và phát triển, trong đó   đánh giá đào tạo và phát triển có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội và khả  năng cạnh tranh quốc tế  của doanh nghiệp. Khái niệm giáo dục, đào tạo, phát triển   được tác giả cho đó là “một quá trình tương tự”[9, tr173] vì quá trình này cho con người  biết kỹ năng mới, nâng cao kiến thức và nâng cao khả năng thực hiện công việc của các   cá nhân, tác giả  cũng đồng ý rằng “thực tế  lại có nhiều quan điểm khác nhau về  khái  niệm giáo dục, đào tạo, phát triển và về sự tương đồng hoặc khác biệt giữa đào tạo và   phát triển” [9, tr173 ].    Tác giả  Nguyễn Thế  Phong chỉ  rõ: “Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, tất cả  các doanh nghiệp đều có nhân viên quản lý phụ  trách công tác đào tạo. Hàng năm các   doanh nghiệp đều có kế  hoạch và tổ  chức thực hiện kế  hoạch đào tạo và bồi dưỡng.  Công tác đào tạo và bồi dưỡng được các nhà quản lý cấp trên khuyến khích. Chỉ  tiêu   đào tạo và bồi dưỡng được coi là một chỉ  tiêu chủ  yếu của phong trào thi đua. Tuy  nhiên, công tác đào tạo còn mang tính hình thức, không đồng bộ, thiếu tính chiến lược.   Do vậy, các chương trình đào tạo mang nặng mục tiêu bổ  khuyết kiến thức thiếu hụt;   chủ  yếu phục vụ  công việc hiện tại và nhất thời; đối tượng thụ  hưởng tập trung  ở  nhân viên quản trị nằm  ở cấp quản trị trung gian; một số nội dung và chương trình đào  tạo không phù hợp với nhu cầu của học viên; chương trình đào tạo mang nặng tính lý   thuyết; nhân viên phụ  trách đào tạo thực hiện chức năng quản lý hành chính công tác   đào tạo là chủ yếu” [13]. Tác giả Nguyễn Anh Tuấn với vấn đề “Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhân  tài chất lượng cao trong quá trình hội nhập quốc tế ” trên cơ sở đánh giá, thực trạng nguồn  nhân lực, nhân tài của nước ta trong giai đoạn hiện nay; phân tích tác động của hội nhập   quốc tế đến đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhân tài chất lượng cao đã đưa ra những   giải pháp để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhân tài chất lượng cao như: Xây dựng   chiến lược kế hoạch hoá mục tiêu đào tạo một cách đồng bộ, hợp tác về  đào tạo nguồn   nhân lực…[22]
  12. Tác giả  Nguyễn Ngọc Sơn quan tâm tới “Vai trò của giáo dục trong việc nâng   cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của nước nhà trong điều kiện hiện nay” cho   rằng cần tiến hành đồng bộ  các giải pháp như: Nâng cao hiệu quả  quản lý giáo dục  trong tình hình mới, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo các cấp, mở rộng quan  hệ và   giao lưu quốc tế trong lĩnh vực giáo dục, bám sát đối tượng con người Việt Nam để có  giải pháp phù hợp…[35]          Tác giả Nguyễn Ngọc Phú trong đề tài cấp Nhà nước về “Nguồn nhân lực và nhân   tài cho phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội  ở  Việt Nam trong tiến trình đổi   mới” đã đề xuất phải có các quan điểm chiến lược, cơ chế, chính sách phát triển nguồn   nhân lực và nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội  ở  Việt Nam từ  nay đến năm 2020 [20]. Quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ở  trong nước về mặt lý   thuyết được các tác giả trong nước đề cập gần giống với các tác giả  nước ngoài được   tập trung vào các vấn đề: ­ Xác định nhu cầu đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực dựa trên nhu cầu của tổ  chức, của công việc và nhiệm vụ, nhu cầu của bản thân nhân viên nhằm thực hiện, đáp   ứng ngay được nhu cầu công việc thực tế. ­ Nội dung, phương pháp và hình thức của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn   nhân lực: trực tiếp (nhân viên giỏi bồi dưỡng hướng dẫn nhân viên viên kém hơn; mời   giảng viên trực tiếp bồi dưỡng theo chuyên đề…), Đào tạo từ xa thông qua các trường,   các trung tâm bên ngoài tổ chức bồi dưỡng, đào tạo, hội thảo cho nhân viên. ­ Đánh giá hiệu quả hoạt động bồi dưỡng, đào tạo: Đánh giá kết quả bồi dưỡng   của học viên thông qua xếp loại kết quả  học tập, thời gian tham gia lớp bồi d ưỡng;   đánh giá chất lượng công việc thực hiện; đánh giá qua sự thay đổi về  hành vi, kỹ năng   và hướng giải quyết vấn đề, lý luận của nhân viên. Qua vấn đề nghiên cứu tổng quan trên và so sánh với thực tiễn, vấn đề quản lý   hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực trên thực tế hiện nay còn có nhiều khoảng cách và  nhiều lỗ hổng, hiệu quả quản lý hoạt động bồi dưỡng không đạt mục tiêu, còn chắp vá,  chụp giật và không theo kịp với sự  phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, quản lý hoạt  động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp nói chung là vấn đề  mang tính  cấp thiết, cần phải được hết sức coi trọng. Quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân  lực nhằm bồi dưỡng năng lực, bồi dưỡng kiến thức, hoàn thiện kỹ năng và chuyên môn   không chỉ có trong các nhà trường, các viện nghiên cứu, các tổ chức giáo dục đào tạo mà 
  13. quản lý hoạt động bồi dưỡng còn cần có trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội trong đó có   doanh nghiệp. Trong ngành quản lý giáo dục, có không ít tác giả  đã nghiên cứu quản lý hoạt   động này trong phạm vi nhà trường, nhưng còn ít nghiên cứu quản lý hoạt động bồi  dưỡng trong doanh nghiệp và xã hội. Việc lựa chọn đề  tài “ Biện pháp quản lý hoạt   động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại công ty INVESCO” dưới góc độ chuyên ngành quản  lý giáo dục sẽ  không trùng lặp với công trình nghiên cứu nào trước đó, các công trình   quản lý hoạt động giáo dục, đào tạo trong nhà trường từ đó để tác giả kế thừa xây dựng   đề tài nghiên cứu phù hợp với thực tiễn, phù hợp với chủ thể và khách thể nghiên cứu. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý hoạt động bồi  dưỡng nguồn nhân lực, đề  xuất những biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn   nhân lực tại công ty INVESCO. Nhiệm vụ nghiên cứu  Làm rõ một số cơ  sở lý luận về  quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực   tại công ty INVESCO. Đánh giá đúng thực trạng, làm rõ nguyên nhân quản lý hoạt động bồi dưỡng   nguồn nhân lực tại công ty INVESCO.  Đề  xuất biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại công ty   INVESCO để góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng nguồn nhân lực.  4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu  Khách thể nghiên cứu  Hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực tại công ty INVESCO Đối tượng nghiên cứu  Biện   pháp   quản   lý   hoạt   động   bồi   dưỡng   nguồn   nhân   lực   tại   công   ty  INVESCO.     Phạm vi nghiên cứu   Không gian: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về biện pháp quản lý hoạt động bồi   dưỡng nguồn nhân lực tại công ty INVESCO. Thời gian: Các số  liệu thống kê, sử  dụng trong luận văn tính từ  năm 2008 đến  năm 2012. 5. Giả thuyết khoa học 
  14. Hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực gắn bó mật thiết với hoạt động đầu tư,  kinh doanh và chiến lược phát triển của công ty INVESCO. Nếu nắm vững nhu cầu sử  dụng nhân lực, hiểu rõ hiện trạng nhân lực của công ty, trên cơ sở đó xác lập kế hoạch,  tổ chức hợp lý lực lượng tiến hành việc bồi dưỡng nguồn nhân lực, thường xuyên kiểm   định chất lượng của nguồn nhân lực thì hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực sẽ được  quản lý tốt và tạo điều kiện nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, nhân viên, đáp ứng   được đòi hỏi thực tiễn hoạt động của công ty INVESCO. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu  Phương pháp luận         Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ  sở  phương pháp luận duy vật biện chứng  của chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt  Nam về  nguồn nhân lực trong sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;  nghiên cứu của các nhà quản lý giáo dục về  biện  pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng  nguồn nhân lực. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lý luận Tham khảo các tài liệu, sách báo có liên quan, đường lối chỉ  đạo của Đảng và   văn bản pháp luật của Nhà nước, Bộ  Giáo dục và đào tạo, Bộ  Nội vụ, Bộ  Lao động   Thương binh và Xã hội.  Phân tích, khái quát hoá các tài liệu khoa học có liên quan để xác định hệ  thống  khái niệm công cụ và khung lý thuyết phục vụ cho việc triển khai quá trình nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn  Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi nhằm thu thập các thông tin cần thiết về  đối tượng khảo sát, điều tra cán bộ, nhân viên của công ty Invesco thông qua phiếu điều   tra. Tiến hành toạ đàm, trao đổi trực tiếp với các cán bộ quản lý, nhân viên của công   ty Invesco. Phân tích các chương trình bồi dưỡng; phương pháp phân tích hệ  thống xem và  phân tích kết quả  bồi dưỡng, các hồ  sơ  lưu trữ  của công ty: kế  hoạch năm, kế  hoạch  tháng, báo cáo tổng kết hàng năm, biên bản họp, báo cáo; xin ý kiến của các chuyên gia  về  các vấn đề  đánh giá thực trạng, tính hợp lý, khả  thi của các biện pháp được đề  xuất ... Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê
  15. Sử dụng toán thống kê nhằm xử lý các số liệu đã thu thập được trong quá trình  nghiên cứu làm căn cứ cho các luận chứng khoa học. 7. Ý nghĩa của đề tài Luận văn sẽ đóng góp về những biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn   nhân lực tại công ty INVESCO, góp phần làm cho quản lý hoạt động bồi dưỡng nguồn   nhân lực tại công ty có hiệu quả hơn. Đề tài luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho lãnh đạo, quản lý doanh  nghiệp trong hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực, đặc biệt xây dựng đội ngũ nguồn  nhân lực tri thức tại công ty INVESCO. 8. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, một số kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và   phụ lục, luận văn được kết cấu 2 chương 6 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG NGUỒN NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY INVESCO 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Bồi dưỡng nguồn nhân lực  Theo Từ điển bách khoa toàn thư năm 1995: Bồi dưỡng là quá trình cập nhật, bổ  sung kiến thức, kỹ năng, thái độ nhằm nâng cao năng lực trình độ nghề nghiệp. Theo Tổ  chức UNESCO   định nghĩa: "Bồi dưỡng với  ý nghĩa nâng cao nghề  nghiệp. Quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức   hoặc kỹ năng, chuyên môn của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp”          Khái niệm nguồn nhân lực có liên quan chặt chẽ với các khái niệm con người, yếu  tố con người, nhân tố con người. Các khái niệm này có cùng mục đích là nghiên cứu về  con người, có nội dung liên quan với nhau nhưng không đồng nhất. Tuỳ  mục đích,  phạm vi nghiên cứu và mối quan hệ xác định mà người ta sử dụng các khái niệm đó một   cách phù hợp nhằm thể hiện rõ các phương diện khác nhau của con người và vai trò của  con người với sự  phát triển xã hội. Để  hiểu rõ khái niệm nguồn nhân lực, cần thiết  phải tìm hiểu các khái niệm con người, yếu tố con người, nhân tố con người.          Con người là víi t c¸ch lµ tét ®Ønh tiÕn ho¸ cña thÕ giíi sinh vËt, thực thể sinh vật,   thực thể  xã hội có ý thức, có ngôn ngữ, là chủ  thể  của hoạt động lịch sử, hoạt động  nhận thức, mang những đặc tính chung của các cá thể thuộc chủng loại người và có sự 
  16. khác biệt so với con vật. Con người, đó là khái niệm bao gồm tổng hoà mặt tự nhiên và  mặt xã hội, là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học tự  nhiên, khoa học xã  hội và nhân văn.            Yếu tố  con người  là muốn nói tới con người với tất cả  các tiêu chí của nó đặt   trong quan hệ với “yếu tố vật” của một quá trình phát triển. Yếu tố con người bao gồm   con người với tư cách là thành tố tự nhiên ­ vật chất và thành tố xã hội ­ tinh thần, đồng   thời cả  cơ cấu tổ  chức xã hội của con người. Khi con người tham gia với tính cách là  một “yếu tố người”, một điều kiện, tiềm năng cần phát huy tạo động lực phát triển cho   một quá trình xã hội thì được coi là nguồn lực con người.          Nhân tố con người là một khái niệm rộng, bao gồm những yếu tố, những tiêu chí  nói lên vai trò của con người với tư  cách là chủ  thể  của các quan hệ  xã hội trong sự  nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.          Nhân tố con người là cái cốt lõi, cái đặc trưng xã hội, thuộc tính xã hội giữ vị trí   trung tâm trong tiềm năng của nguồn lực con người. Nội dung của nhân tố con người đó   là một chỉnh thể các giai cấp, tầng lớp xã hội liên kết với nhau chặt chẽ. Sự tác động  qua lại giữa chúng và hoạt động của chúng bảo đảm cho sự  phát triển tiến bộ  của xã  hội. Nội dung này phản ánh qua các tiêu chí về ý thức giai cấp, ý thức trách nhiệm trước  cộng đồng, ý thức về nghĩa vụ và quyền lợi công dân         Chỉ tiêu về số lượng, chất lượng nói lên khả năng của con người, của cộng đồng   người như  những khả  năng tiềm tàng cần khai thác, bồi dưỡng và phát huy. Đó là các   tiêu chí về  số  lượng lao động, tình hình sức khoẻ, trình độ  học vấn, tuổi thọ, mức   sống…Đó còn là những tiêu chí về  nhân cách và chức năng xã hội của con người.  Những tiêu chí này nói lên khả năng sáng tạo của cá nhân trong hệ thống các quan hệ xã  hội, bao gồm năng lực chuyên môn kĩ thuật được đào tạo lẫn thái độ lao động.         Trong khi đó, khái niệm  nguồn nhân lực ( Human resources, nguồn lực con người,   nguồn lực cho lao động) chỉ  thực sự mới xuất hiện khoảng vài chục năm gần đây. Từ  năm 1990, UNDP lần đầu tiên đưa ra chỉ  số  phát triển con người để  đánh giá sự  phát   triển (gọi là HDI). Chỉ số HDI bao gồm các yếu tố  cơ bản : Tuổi thọ bình quân, thành  tựu giáo dục và mức thu nhập. Nội dung 3 yếu tố này hiện nay có được phát triển, chi   tiết hơn nhưng về cơ bản vẫn giữ nguyên vị trí và ý nghĩa của nó trên cơ sở được chính   xác hoá và chi tiết bằng các chỉ  số  khác. Chỉ  số  này cho phép các nước thấy được   khoảng cách mà mình đã đạt được trên con đường tiến tới giá trị lý tưởng là 1. 
  17.          Khái niệm nguồn nhân lực có mặt trong hầu hết các lý thuyết kinh tế học, được  coi là một thành tố  cơ  bản của nền sản xuất xã hội và gần như  mọi quan điểm đều   thừa nhận rằng khi nguồn lực này kết hợp với nguồn lực tự  nhiên thì của cải xã hội   xuất hiện và đó là cơ sở của phát triển xã hội, tiến bộ xã hội. Nguồn nhân lực là muốn  nói tới tổng thể các yếu tố thuộc về con người và cộng đồng người, bao gồm số  dân,  cơ cấu số dân, chất lượng con người với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó đối với  sự  phát triển xã hội. Nguồn nhân lực bao gồm tất cả  các tiêu chí về  con người và tổ  chức, tiềm năng và sức mạnh về  vật chất và tinh thần, có thể  phát huy trong quá trình   phát triển xã hội. Xã hội ngày càng phát triển thì khái niệm nguồn nhân lực cũng được   bổ  sung những tư  tưởng mới. Người ta đã coi con người là một loại “vốn” đặc biệt,   “vốn người” (human capital), là “lực lượng sản xuất hàng đầu”, là “nguồn lực cơ bản”,   là “nguồn lực có khả năng tái sinh”, là “nguồn lực của mọi nguồn lực”…          Gần đây, quan điểm phát triển con người được UNDP sử dụng lại có bước phát   triển tiếp tục. Con người được quan niệm không chỉ  là nguồn vốn, là “vốn” ­ những  yếu tố  đầu vào của sự  phát triển, cho dù đó là những yếu tố  quan trọng và có ý nghĩa   quyết định mà con người còn là mục đích, mục tiêu, chiếm vị  trí trung tâm trong suốt  quá trình phát triển xã hội. Chất lượng cuộc sống của con người, hạnh phúc của con   người có thể được kiểm tra một cách khách quan như những sản phẩm “đầu ra” của sự  phát triển.          Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Theo Liên Hiệp quốc   thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính  sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”.  Ngân hàng thế  giới cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ  vốn con người bao gồm thể  lực, trí lực, kỹ  năng nghề  nghiệp của mỗi cá nhân. Tổ  chức lao động quốc tế  quan  niệm: Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ  những người trong độ  tuổi có khả  năng tham gia lao động.  Nguồn nhân lực còn được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích   luỹ  được, có khả  năng đem lại thu nhập trong tương lai (Beng, Fischer & Dornhusch,   1995). Nguồn nhân lực, theo Giáo sư Phạm Minh Hạc (2001), là tổng thể các tiềm năng  lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc lao động  nào đó.          Nhìn chung, nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa:
  18.          Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã   hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm  toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường.           Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực có khả  năng lao động của xã hội, là nguồn lực   cho sự  phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư  trong độ  tuổi lao động, có   khả  năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ  các cá nhân cụ  thể   tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực của họ được huy   động vào quá trình lao động.           Tuỳ thuộc vào môi trường kinh tế xã hội, nguồn nhân lực được thể hiện hết sức   đa dạng. Muốn phát triển nguồn nhân lực (gia tăng thêm giá trị sử dụng con người) thì   tất yếu phải quan tâm đến mục tiêu phát triển con người (gia tăng thêm về  các giá trị  đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, thể lực…của con ng ười). Xét về  thực chất, nguồn nhân lực và nhân tố  con người không có gì khác nhau  nhưng khái niệm nguồn nhân lực có nội dung xác định hơn khái niệm nhân tố  con   người. Khi nói đến nguồn nhân lực, người ta quan tâm xem xét con người trong mối   quan hệ với tự nhiên. Cùng với nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác, nguồn nhân  lực được coi là yếu tố rất quan trọng của sự phát triển kinh tế xã hội. Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đặc biệt”, nguồn   lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Việc bồi dưỡng, phát triển con người, bồi dưỡng,  phát triển nguồn nhân lực trở  thành vấn đề  chiếm vị  trí trung tâm trong hệ  thống phát   triển các nguồn lực. Đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ  sở  chắc   chắn nhất cho sự phát triển bền vững. Từ  một số  khái niệm trên có thể  coi  bồi dưỡng nguồn nhân lực tại công ty   Invesco là cung cấp, bổ sung những kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, cập nhật thêm   những kiến thức mới liên quan đến nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng, kỹ xảo, phẩm chất,   năng lực… nhằm nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, nhân viên công ty để  đáp ứng   yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển tổ chức. Bồi dưỡng nguồn nhân lực là một tất yếu khách quan. Đối với tổ  chức, bồi   dưỡng nguồn nhân lực sẽ đảm bảo cho nguồn nhân lực có thể thích ứng  và theo sát sự  tiến hoá và phát triển của khoa học kĩ thuật và công nghệ, đảm bảo có lực lượng lao  động giỏi, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi thế  giới đang dần chuyển sang một phương thức sản xuất mới, nền kinh tế đã làm cho các   tổ chức muốn tồn tại thì phải thích ứng tốt với môi trường. Bồi dưỡng nguồn nhân lực  sẽ càng nâng cao tay nghề,  nâng cao kĩ năng và thái độ nghề nghiệp, tạo ra bầu không  
  19. khí đoàn kết. Mặt khác, trong điều kiện phát triển của khoa học công nghệ, người lao  động luôn phải nâng cao trình độ văn hoá, nghề nghiệp chuyên môn để không bị tụt hậu,  từ đó giúp họ tự tin hơn, phát huy khả năng và đáp ứng tốt sự thay đổi của môi trường.   Bồi dưỡng nguồn nhân lực còn giúp người lao động hiểu biết về pháp luật, đẩy mạnh   sự  hợp tác và phát triển. Do đó, người quản lý giỏi cần nhạy cảm, nhìn xa trông rộng   để  chuẩn bị  cho những thay đổi trong tương lai. Bồi dưỡng nguồn nhân lực vì thế  là   công việc phải được thực hiện thường xuyên bao gồm cả  trước, trong và sau khi làm   việc của mọi công ty, tổ  chức. Chủ thể  bồi dưỡng là cán bộ  quản lý của công ty, quy  trình bồi dưỡng đơn giản, ít phức tạp và diễn ra trong thời gian ngắn. Đối tượng bồi  dưỡng là các nhân viên tham gia các hoạt động trong công ty. Nội dung bồi dưỡng là bổ  sung thêm kiến thức, cập nhật những kiến thức mới   có liên qua đến nghiệp vụ  chuyên môn, kỹ  xảo, kỹ  năng cần thiết cho quá trình hoạt  động tại công ty. Bồi dưỡng để  chuẩn bị, bù đắp vào những chỗ  thiếu của người lao  động nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của công ty. Đó còn là sự  chuẩn bị  cho   người lao động thực hiện trách nhiệm, nhiệm vụ mới do sự thay đổi trong tổ  chức, cơ  cấu, luật pháp, kĩ thuật công nghệ, đồng thời hoàn thiện khả năng của người lao động  để có khả năng thực hiện những nhiệm vụ hiện tại và tương lai có hiệu quả hơn. Phương pháp bồi dưỡng đa dạng nhưng chủ yếu là thông qua các hoạt động cụ  thể diễn ra, kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức và tự bồi dưỡng của từng cá nhân.  Nguồn nhân lực trong công ty Invesco là một tập thể người bao gồm các cá nhân  có vai trò khác nhau và được liên kết với nhau theo mục tiêu chung. Nguồn nhân lực này  bao gồm các nhà quản trị cấp cao như Hội đồng quản trị, Ban Tổng Giám đốc, các nhà  quản trị  cấp 2 như  Giám đốc bộ  phận, Giám đốc đơn vị  trực thuộc đến các cấp trực  tiếp thực hiện công việc chuyên môn như  công nhân phục vụ, chuyên viên nghiệp vụ  các phòng, ban.  Bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Invesco có các vấn đề đáng chú ý sau: Thứ nhất, Bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Invesco trước hết cần nâng  cao nhận thức về vai trò bồi dưỡng nguồn nhân lực Đầu tiên là nâng cao nhận thức cho các nhà quản trị  bậc hai về  vai   trò, tác dụng của công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để có những   chương trình bồi dưỡng chuẩn mực, hiện đại nhằm nâng cao chất lượng   và hiệu quả của công tác này, vì đây là cấp tham mưu cho lãnh đạo cấp cao  
  20. những chính sách, chương trình về  đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực,   đồng thời là người trực tiếp quản lý, sử dụng nhân lực thực hiện công việc  trực tiếp. Khi ý thức được vai trò to lớn của công tác bồi dưỡng nguồn  nhân lực, họ  không chỉ  tích cực học tập, trau dồi năng lực quản lý, điều   hành của bản thân mà quan trọng hơn là tham mưu, tạo điều kiện thuận lợi  để nhân lực tham gia tích cực vào các chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Thứ  hai,  Bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Invesco  diễn ra trong  thời gian   ngắn Thời gian bồi dưỡng nguồn nhân lực tại công ty Invesco thường diễn  ra trong khoảng thời gian không dài. Trên thực tế, có khi việc bồi dưỡng   chỉ  thực hiện trong một buổi cho một nhóm nhân lực ngành nghề  trong  doanh nghiệp bao gồm chương trình nói chuyện chuyên đề, tập huấn một  chính sách quy định mới của nhà nước, của công ty. Đây cũng là một nét  đáng chú ý của bồi dưỡng nguồn nhân lực tại Invesco. Thứ ba, Đối tượng tham gia chương trình bồi dưỡng có độ tuổi khác   nhau, có kinh nghiệm và thâm niên làm việc rất khác nhau, nhu cầu bồi   dưỡng cũng khác nhau Có thể thấy, đối tượng tham gia bồi dưỡng tại công ty khá đa dạng,  với độ tuổi khác nhau, kiến thức, kinh nghiệm, thâm niên làm việc cũng rất  khác nhau dẫn tới khả năng tiếp thu, lĩnh hội các nội dung bồi dưỡng cũng  không giống nhau. Họ  lại có các nhu cầu bồi dưỡng khác nhau tuỳ  thuộc   vào đòi hỏi thực tế  trong công việc của mỗi người. Vì vậy nội dung bồi   dưỡng phải được quy định chặt chẽ, rõ ràng, dễ hiểu và dễ thực hiện trong   thực tiễn cho nhóm người phụ  trách công việc liên quan nhau để  phù hợp   với đối tượng. Từ các vấn đề trên đòi hỏi hoạt động bồi dưỡng nguồn nhân lực của  Công ty Invesco phải chú trọng trước hết vào việc nâng cao tầm nhận thức   cho nguồn nhân lực, xây dựng động cơ, thái độ đúng đắn cho cả chủ thể và  khách thể của hoạt động bồi dưỡng. Trong điều kiện thời gian bồi dưỡng  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2