intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn tốt nghiệp: Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:98

204
lượt xem
35
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhà nước ta là "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Tính ưu việt của Nhà nước ta không chỉ được xác định bản chất giai cấp tiền phong, cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn phụ thuộc vào phương thức quản lý khoa học và hiện đại, được coi là biện pháp đảm bảo vững chắc lâu dài cho Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp: Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Tăng cường quản lý nh nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước ta là "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Tính ưu việt của Nhà nước ta không chỉ được xác định bản chất giai cấp tiền phong, cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn phụ thuộc vào phương thức quản lý khoa học và hiện đại, được coi là biện pháp đảm bảo vững chắc lâu dài cho Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa...". Như vậy, khi thực hiện quản lý bất kỳ lĩnh vực xã hội cụ thể nào Nhà nước đều phải dùng pháp luật như một công cụ phổ biến và hữu hiệu nhất. Còn đối với nhân dân "pháp luật luôn luôn là chốn nương thân của mình". Trong quản lý lĩnh vực giao thông nói chung và giao thông đường bộ (GTĐB) nói riêng cũng như việc "thụ hưởng" dịch vụ công cộng thiết yếu này lại càng phải tuân thủ theo nguyên tắc pháp trị do Hiến pháp quy định. Hoạt động giao thông vận tải là huyết mạch kinh tế của mỗi quốc gia. Nó phản ánh trình độ phát triển xã hội thể hiện ở mức độ đáp ứng những nhu cầu kinh tế, văn hoá, xã hội, đi lại, sinh hoạt của các tầng lớp dân cư. Trong đó, GTĐB luôn là mảng quan trọng nhất, xét trên tất cả mọi phương diện kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Giao thông là mạch máu của mọi việc. Giao thông tắc thì việc gì cũng khó, giao thông tốt thì việc gì cũng dễ dàng”. Hiện nay, GTĐB chiếm tỷ trọng lưu thông hàng hoá, phương tiện, đối tượng tham gia giao thông lớn nhất; chi phí cho GTĐB cũng là chi phí lớn nhất, lâu dài và ổn định nhất; nhu cầu phát triển GTĐB cũng to lớn. GTĐB có ở trên mọi địa hình, khu vực... và liên quan đến mọi tầng lớp nhân dân; chủ thể tham gia giao thông đông đảo nhất. Sự diễn giải khái quát trên cho thấy vị trí, tầm quan trọng và nhu cầu ngày càng lớn của GTĐB ở nước ta. Đúng như các nhà nghiên cứu về hành chính công đã khẳng định: Quản lý xã hội là một chức năng trong các chức năng cơ bản của Chính phủ (chức năng chính trị, chức năng kinh tế, chức năng xã hội, chức năng văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật) và cần được coi vấn đề tổ chức, quản lý GTĐB như một dịch vụ công của Chính phủ. Đồng thời, mục đích được coi là nghĩa vụ, trách nhiệm quản
  3. lý của Chính phủ là đáp ứng nhu cầu giao thông và đảm bảo trật tự an toàn cho người và phương tiện khi tham gia GTĐB. Có thể nói rằng, chưa bao giờ hệ thống GTĐB ở nước ta phát triển như hiện nay. Đó là nhờ sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo, do hoạt động quản lý của Nhà nước ta và do sự đóng góp sức người sức của của nhân dân ta. Vậy, tại sao phải tăng cường quản lý nhà nước (QLNN) bằng pháp luật trong lĩnh vực GT ĐB ở nước ta hiện nay? Ngoài những lý do mang tính lý luận về những nguyên lý QLNN bằng pháp luật kể trên còn có những lý do đòi hỏi phải tổng kết đánh giá thực tiễn QLNN trong lĩnh vực GTĐB ở nước ta trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Thực tế được mọi người thừa nhận rằng: GTĐB luôn chứa đựng “nguồn nguy hiểm cao độ” hay phát sinh những rủi ro bất lợi cho xã hội như ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, dễ xảy ra tai nạn GTĐB... So với các nước trên thế giới và khu vực, GTĐB ở nước ta luôn xảy ra tình trạng lộn xộn, mất trật tự kết cấu hạ tầng giao thông yếu kém, sự gia tăng các phương tiện GTĐB, ý thức chấp hành pháp luật GTĐB của người tham GTĐB còn hạn chế... Hậu quả là số người chết mỗi ngày trong cả nước lên đến trên 30 người. Ngoài ra, số người bị thương, tổn thất về tài sản là rất lớn. Rõ ràng tình trạng vi phạm pháp luật GTĐB xảy ra khá phổ biến, việc xử lý vi phạm pháp luật GTĐB chưa nghiêm minh, triệt để, chưa kịp thời. Hơn nữa, sự phân cấp QLNN trong lĩnh vực GTĐB chưa rõ ràng; thiếu chiến lược phát triển GTĐB lâu dài, bền vững; bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức đảm nhiệm chức năng QLNN trong lĩnh vực GTĐB còn nhiều hạn chế, bất cập. Đặc biệt pháp luật GTĐB chưa thực sự tỏ rõ là công cụ hữu hiệu để QLNN trong lĩnh vực GTĐB. Pháp luật GTĐB nước ta chắc chắn còn phải tiếp tục hoàn thiện để theo kịp những thay đổi và phát triển của GTĐB. Với những lý do trên, trên phương diện lý luận chung về Nhà nước và pháp luật tôi chọn đề tài “Tăng cường quản lý nh nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học Luật. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Giao thông vận tải nói chung và GTĐB nói riêng từ lâu đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
  4. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây có một số công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực GTĐB, có thể kể ra như sau: - Nguyễn Huy Bằng: Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay, Luật văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2001. Luận văn đã làm rõ những vấn đề như: Lịch sử phát triển tư tưởng pháp chế; khái niệm pháp chế, quan niệm về pháp chế trong lĩnh vực GTĐB; tính tất yếu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong lĩnh vực GTĐB; thực trạng, phương hướng và giải pháp tăng cường pháp chế trong lĩnh vực GTĐB. Như vậy, luận văn đã không đề ra mục tiêu nghiên cứu về QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. - Mai văn Đức, Nghiên cứu tình hình an toàn giao thông đường bộ và các biện pháp khắc phục, Luận văn thạc sĩ Khoa học kỹ thuật - Đại học Giao thông vận tải năm 2000. Luận văn tập trung nghiên cứu về an toàn GTĐB dưới góc độ ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật để quản lý, duy trì trật tự an toàn GTĐB, cũng như khắc phục những hạn chế trong lĩnh vực GTĐB. Cho nên luận văn cũng không đặt vấn đề nghiên cứu về QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. - Trần Đào, Tai nạn giao thông đường bộ, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa của lực lượng cảnh sát giao thông - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ - Hà Nội năm 1998. Đề tài này tập trung giải quyết những vấn đề như: khái niệm tai nạn GTĐB, nguyên nhân tai nạn GTĐB đánh giá thực trạng tai nạn GTĐB, từ đó đề ra những giải pháp phòng ngừa tai nạn GTĐB của lực lượng cảnh sát giao thông. Như vậy, đề tài chỉ tập nghiên cứu một vấn đề là tai nạn GTĐB - một sự cố GTĐB. - Trần Văn Luyện, Trần Sơn, Nguyễn Văn Chính, Trật tự an toàn giao thông đường bộ, thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2003. Quyển sách này trình bày những nhận thức chung về trật tự an toàn GTĐB, tình hình trật tự GTĐB, những giải pháp bảo đảm trật tự an toàn GTĐB mà không có mục đích khai thác sâu về xây dựng, hoàn thiện pháp luật GTĐB, tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB, xử lý vi phạm pháp luật GTĐB là những nội dung trọng tâm mà đề tài “ Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay” sẽ đề cập đến.
  5. Ngoài ra, còn có một số bài viết trên các tạp chí như: Hoàng Đình Ban, Luật giao thông đường bộ sau hai năm nhìn lại, Tạp chí Giao thông vận tải, số 3 năm 2004; Lê Ngọc Tiến, Giáo dục pháp luật - biện pháp quan trọng trong giảm thiểu tai nạn giao thông đường bộ, Tạp chí Giao thông vận tải số 7 năm 2004; Nguyễn Thuý Anh, Đổi mới quản lý nhà nước về giao thông công cộng trong đô thị lớn ở nước ta, Tạp chí Quản lý nhà nước số 5 năm 2003; Lý Huy Tuấn, Quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông đô thị, Tạp chí quản lý nhà nước số 3 năm 2003… Nhìn chung, những bài viết này chỉ đề cập sơ lược đến một khía cạnh trong QLNN trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Về mục đích, luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn nữa cở sở lý luận chung về QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. Trên cở sở nghiên cứu thực trạng QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề ra các giải pháp nhằm tăng cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB trong thời gian tới. Về nhiệm vụ, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: - + Phân tích cở sở lý luận của QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. + Phân tích vai trò của QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. + Đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân hạn chế hiệu lực, hiệu quả của QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB Việt Nam từ năm 1995 đến đến nay. + Luận chứng sự cần thiết phải tăng cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB Việt Nam hiện nay. + Xác định các phương hướng và đề xuất các giải pháp tăng cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Trên phương diện lý luận chung về Nhà nước và pháp luật ở một luận văn thạc sĩ Luật học, đối tượng nghiên cứu ở đề tài này là nghiên cứu tổng quát hoạt động QLNN bằng pháp luật trong lĩnh luật GTĐB trên các mặt về xây dựng, hoàn thiện pháp luật; thực hiện pháp luật; xử lý vi phạm pháp luật GTĐB từ năm 1995 đến nay nhằm góp phần bảo đảm trật tự an toàn GTĐB ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
  6. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; bám sát chủ trương đường lối của Đảng về tăng cường QLNN bằng pháp luật; phát triển GTĐB trong thời kỳ CNH, HĐN đất nước; về cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Trên cở sở đó, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh để nêu bật tình hình, từ đó có giải pháp phù hợp. 6. Đóng góp mới về khoa hoa của luận văn Trên bình diện lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, luận văn bước đầu chỉ đạt được một số điểm mới sau: - Xây dựng khái niệm, đặc điểm QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam hiện nay. - Làm rõ những nội dung QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. - Trên cơ sở thống kê một cách có hệ thống tình hình GTĐB và đánh giá một cách tương đối toàn diện tình hình QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam từ năm 1995 đến nay. Đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản, toàn diện của việc tăng cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB hiện nay và trong thời gian tới. 7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Thông qua việc làm rõ thực trạng QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam hiện nay - những thành tựu và những hạn chế. Luận văn góp phần khẳng định nhu cầu thực tiễn phải tăng cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB hiện nay và những năm tiếp theo. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. Do đó làm phong phú thêm lý luận về Nhà nước và pháp luật. Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan có thẩm quyền QLNN trong lĩnh vực GTĐB, cho các cán bộ có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. Ngoài ra, luận văn còn có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, tập huấn, phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật GTĐB. 8. Kết cấu của luận văn
  7. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 1.1. KHÁI NIỆM VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT NÓI CHUNG VÀ KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 1.1.1 Khái niệm, nguyên tắc quản lý nhà nước bằng pháp luật Thuật ngữ “quản lý” có nhiều nghĩa khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt “quản lý” được hiểu dưới hai khía cạnh: “1. Trông coi và gìn giữ theo những yêu cầu nhất định; 2. Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [43, tr.772]. Còn theo sách Gốc và nghĩa từ Việt thông dụng quản lý được khái niệm là “trông nôm, sửa sang, sắp đặt công việc” [47,tr.695]. Ở phương Tây từ “quản lý (mannagement) có nguồn gốc Italia “managgiare” và từ này lại được rút ra từ chữ La tinh là “manus” nghĩa là bàn tay” [28,tr.597]. Như vậy, thuật ngữ “quản lý” có nhiều cách diễn đạt khác nhau tuỳ theo gốc độ tiếp cận. Quan điểm chung nhất về quản lý do các nhà điều khiển học đưa ra; theo đó, "quản lý là sự tác động định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định” [58,tr.83]. Trong khái niệm này, “sự tác động có định hướng" được hiểu là sự tác động có tính kế hoạch của người quản lý vào bất kỳ một thời điểm nào đó, hướng đến đối tượng là “một hệ thống nào đó”. Hệ thống được xác định là “tập hợp nhiều yếu tố, đơn vị cùng loại hoặc cùng chức năng có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ, làm thành một thể thống nhất [43, tr. 418]. Như đã nói ở trên do tính kế hoạch của người quản lý nên sự tác động được xác định mục đích rõ ràng là “nhằm trật tự hóa” một hệ thống bất kỳ nào đó. Do đó, có thể thấy rằng trước khi có tác động quản lý thì “các yếu tố” các đơn vị ” của một hệ thống đang ở trạng thái tự nhiên, tự phát, chưa được sắp đặt thứ bậc. Nhưng dưới tác động của người quản lý thì “các yếu tố” “đơn vị” được đặt vào một vòng trật tự theo ý chí của
  8. người quản lý. Vị trí, vai trò của người quản lý thể hiện rất rõ qua việc có “trật tự hoá” được hệ thống đó hay không. Ngoài ra, người quản lý còn phải biết hướng hệ thống đó phát triển theo những quy luật nhất định. Như vậy, người quản lý đóng vai trò thúc đẩy, hoạch định, khơi gợi, phát huy “tính trội” của từng yếu tố, đơn vị tạo thành hệ thống, đồng thời hạn chế, ngăn ngừa, loại trừ những “tác hại” của các yếu tố, đơn vị cản trở tính thống nhất của hệ thống. Trong quản lý xã hội nói chung và quản lý lao động trong quá trình sản xuất, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin đã chỉ rõ quản lý là một dạng hoạt động - một hiện tượng tất yếu trong xã hội loài người. Các Mác cho rằng “quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động” [33, tr.29-30] và “Lao động giám sát và quản lý cần thiết ở tất cả những nơi mà hoạt động sản xuất trực tiếp có hình thức của một quá trình phối hợp mang tính xã hội chứ không phải là lao động riêng lẻ của những người sản xuất độc lập” [38, tr.432]. Tuy những luận điểm trên đây nói về lao động sản xuất nhưng có thể áp dụng đối với bất kỳ hoạt động chung nào của con người. Ăngghen khẳng định “quản lý là tất yếu khi nhiều người cần hoạt động chung với nhau, khi có sự hiệp tác của một số người, khi có sự phối hợp của nhiều người” [34, tr.33-34]. Như vậy, ở đâu có sự hiệp tác của nhiều người, ở đó cần có nhu cầu quản lý. Chức năng quản lý là chức năng của một “nhạc trưởng” thể hiện ở sự điều hòa những hoạt động cá nhân. Cho nên, theo một nghĩa nào đó quản lý là một nghệ thuật điều khiển người khác. Quản lý các quá trình xã hội để "trật tự hóa" xã hội là một quá trình phức tạp, đa dạng và đầy biến động. Các yếu tố "chủ thể quản lý", "đối tượng bị quản lý", "khách thể" của quản lý xã hội luôn đặt ra những vấn đề đòi hỏi từ thực tiễn cần được làm rõ về mặt lý luận. Chủ thể của quản lý xã hội là con người hay tổ chức của con người. Hoạt động do chủ thể quản lý tiến hành là hoạt động quản lý. Ví dụ trong một cơ quan thủ trưởng cơ quan là chủ thể quản lý,hoạt động điều hành,lãnh đạo cơ quan là hoạt động quản lý. Đối tượng của quản lý xã hội là các quan hệ xã hội mà chủ thể quản lý tác động tới. Suy cho cùng quản lý xã hội là quản lý con người. Vì vậy, yếu tố con người trong các quan hệ xã hội lại là "đối tượng bị quản lý". Như vậy, đối tượng của quản lý xã hội là con người hay tổ chức của con người bị quản lý. Khách thể của quản lý xã hội, nói
  9. một cách ngắn gọn đó là "trật tự xã hội". Bởi mong muốn, mục đích cần đạt được của chủ thể quản lý xã hội là làm sao cho hành vi hoạt động và không hoạt động của đối tượng bị quản lý phải thực hiện theo ý chí của chủ thể quản lý. Mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý được thể hiện thông qua quan hệ “quyền uy-phục tùng”. Trong mối quan hệ này, chủ thể quản lý mang quyền uy. Theo Ăngghen, quyền uy là sự trói buộc, áp đặt ý chí của kẻ này đối với kẻ khác, buộc họ phải phục tùng. Đối tượng bị quản lý phải phục tùng mệnh lệnh của chủ thể quản lý đưa ra. Đây chính là quan hệ bất bình đẳng giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Quyền uy là phương tiện hữu hiệu để chủ thể quản lý tiến hành hoạt động quản lý. Không có quyền uy thì hoạt động quản lý sẽ không đạt được mục đích đề ra. Quyền uy và phục tùng tạo thành nội dung của quyền lực quản lý. Quyền lực là "sức mạnh" của chủ thể quản lý và cũng chính yếu tố quyền lực làm cho ý chí của chủ thể quản lý trở thành ý chí thống trị buộc đối tượng quản lý phải phục tùng. Từ khi xuất hiện Nhà Nước “một lực lượng nảy sinh từ xã hội”, một lực lượng “tựa hồ như đứng trên xã hội” có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự [10, tr.260] thì phần quản lý xã hội quan trọng nhất do Nhà Nước đảm nhiệm. Đó là QLNN. Quản lý phần công việc còn lại của xã hội vẫn được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau như các tổ chức xã hội, chính đảng, giai cấp, gia đình, các tổ chức tư nhân trong nhiều lĩnh vực... Như vậy, quản lý xã hội là một khái niệm rất rộng bao hàm QLNN và quản lý phần công việc còn lại của xã hội. Theo Ăngghen thì QLNN là quản lý xã hội do giai cấp nắm quyền thống trị xã hội thực hiện thông qua Nhà nước của nó. Nhà nước quản lý xã hội bằng cách phân chia dân cư theo “địa vực”, trên cơ sở thiết lập một “quyền lực công cộng” tách rời khỏi dân cư và bằng việc đặt ra pháp luật, bắt buộc mọi tổ chức, mọi thành viên của xã hội phải thi hành [11, tr.251, 253- 254]. Luận điểm trên của Ăngghen cho thấy rằng: để thực hiện quyền lực, để quản lý xã hội, Nhà nước phải có một loại người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý. Loại người này được tổ chức thành các cơ quan nhà nước và hình thành một bộ máy đại diện cho quyền lực chính trị có sức mạnh cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp thống trị, buộc các giai cấp khác phải phục tùng ý chí của giai cấp thống trị. Hiện nay, vấn đề đã được khẳng định là vai trò quản lý của Nhà nước đối với xã hội. Song khoa học QLNN theo nghĩa rộng và khoa học quản lý hành chính công vẫn
  10. đang được giới lý luận bàn đến, đặc biệt là trong điều kiện đổi mới của các nước XHCN khi các nước này vận dụng kinh tế thị trường. Vấn đề được bàn đến ở đây là Nhà nước quản lý xã hội bằng cách nào? phương tiện gì là chủ yếu? Đó là vấn đề tuy không phải là mới nhưng cần được lý giải một cách hệ thống. Trong lịch sử tư tưởng chính trị pháp lý Trung Quốc cổ đại, Hàn Phi được xem là người tiêu biểu cho trường phái Pháp gia. Ông định nghĩa pháp luật như sau: “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là sẽ thi hành, thưởng cho những kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ trái lệnh. Đó là những điều bầy tôi tuân theo” [44, tr.329]. Hàn Phi xem pháp luật là công cụ quan trọng nhất, hữu hiệu nhất trong việc bình ổn xã hội. Ông khẳng định: “Không có nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ người thi hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu” [44, tr.13]. Do đó muốn nước mạnh thì không thể không dùng pháp luật và pháp luật ấy phải được thực hiện nghiêm chỉnh. Hàn phi ví pháp luật như dây mực, cái quy, cái củ, cái thuỷ chuẩn của người thợ, tức là nhờ nó mà đạt được sự ngay thẳng, chính xác. Ông coi pháp luật là tiêu chuẩn để phân biệt đúng sai, chính tà mà người cầm quyền phải dùng nó để điều khiển đất nước. Còn Montesquyeu trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” đã khẳng định: "Sống trong một xã hội, muốn duy trì trật tự phải quy định rõ quan hệ giữa người cai trị và người được cai trị. Đó là luật chính trị. Lại phải quy định quan hệ giữa công dân. Đó là luật dân sự" [41, tr.44]. Lê Qúi Đôn- nhà bác học của Việt Nam cũng chỉ rõ: "chỉ lấy đạo đức mà cai trị thôi thì chưa đủ, còn phải kết hợp chặt chẽ với cai trị bằn g pháp luật" [46, tr.12]. Trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã sớm đề ra yêu cầu phải xây dựng một Nhà nước đề cao Hiến Pháp, pháp luật. Trong bức thư tám điểm gửi Hội Nghị Véc-Xây nếu khái quát lại thì có hai nội dung cơ bản: đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân; yêu cầu phải quản lý bằng pháp luật, có Hiến pháp hẳn hoi “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Đó là tư tưởng cốt lõi của một Nhà nước pháp quyền, một Nhà nước quản lý xã hội, quản lý đất nước bằng pháp luật, mọi hoạt động của Nhà nước và mọi chủ thể khác trong xã hội đều đặt dưới Hiến pháp và pháp luật. Do đó “Ở Người, đi tìm con đường giải phóng dân tộc, cứu nước, cứu dân đồng thời là quá trình
  11. nhận thức khẳng định vai trò, giá trị của pháp luật trong giành lại nước, dựng nước và giữ nước” [27, tr.19]. Phải nói rằng: Vấn đề xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, đề cao pháp luật, pháp chế trong hoạt động QLNN là một trong những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà và pháp luật, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định “Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý” [17, tr.120]. Như vậy, pháp luật được đặt lên vị trí hàng đầu trong hệ thống các công cụ quản lý đất nước. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định “Quản lý xã hội bằng pháp luật d ưới sự lãnh đạo của Đảng” [18, tr.94]. Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tiếp tục quán triệt mục tiêu: “Xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật” [19, tr.56]. Để QLNN bằng pháp luật đạt hiệu quả cao trên các lĩnh vực, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đưa ra yêu cầu: “Quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng việc giáo dục, nâng cao đạo đức” [20, tr.129]. “Giáo dục đạo đức, nâng cao đạo đức” phải song hành vời quản lý xã hội bằng pháp luật thì mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân mới trở thành hiện thực. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng lại tiếp tục đề cao vai trò của pháp luật trong hệ thống các công cụ quản lý xã hội: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ,công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật” [21, tr.132]. Như vậy, xuyên suốt từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng thì mục tiêu quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là mục tiêu nhất quán. Quan điểm, tư tưởng trên của Đảng được thể chế hoá trong Hiến pháp năm 1992 và Nghị quyết về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 12 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001-QH 10 ngày 25/12/2001 quy định: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
  12. xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật... [24,tr.17]. Từ các quan niệm trên, QLNN bằng pháp luật được hiểu là quản lý xã hội do Nhà nước tiến hành bằng công cụ pháp luật thông qua các hoạt động xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện, xử lý vi phạm pháp luật để tác động lên các quá trình xã hội nhằm thiết lập, duy trì trật tự xã hội theo ý chí Nhà nước, nhằm phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN. Đối với nước ta, để QLNN bằng pháp luật đảm bảo hiệu lực và hiệu quả thì cần quán triệt sâu sắc các nguyên tắc sau: Một là, nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong QLNN. Cội nguồn sâu xa mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam, của nguyên tắc này đã từng được thừa nhận. Chính vì vậy, Điều 4 Hiến pháp năm 1992 quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật [24, tr.14]. Trước hết, Đảng lãnh đạo QLNN bằng việc đưa ra những chủ trương, đường lối chính sách của mình về các lĩnh vực khác nhau của QLNN. Các Nghị quyết của các cấp uỷ Đảng là những cơ sở quan trọng để các chủ thể QLNN có thẩm quyền thể chế hoá thành pháp luật thực thi trong QLNN. Để thực hiện những Nghị quyết này phải thông qua hàng loạt những hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của các chủ thể QLNN. Thông qua những hoạt động này, chủ trương của Đảng sẽ được thấm sâu vào các lĩnh vực QLNN. Thứ hai, Đảng lãnh đạo QLNN thông qua công tác cán bộ. Đảng đào tạo, lựa chọn, giới thiệu cán bộ cho cơ quan QLNN. Chính vì vậy, Điều 4 pháp lệnh cán bộ, công chức quy định: “công tác cán bộ, công chức đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam…” [42, tr.9].
  13. Thứ ba, Đảng lãnh đạo QLNN thông qua hình thức kiểm tra. Đây là sự kiểm tra việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Việc kiểm tra này nhằm đánh giá tính hiệu quả, tính thực tế của những chủ trương, đường lối, chính sách mà Đảng đề ra. Trên cơ sở đó phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt hạn chế trong công tác lãnh đạo QLNN. Ngoài ra, sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động QLNN còn thực hiện thông qua uy tín, vai trò của các tổ chức đảng, đảng viên. Việc nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật được coi là kỷ luật của tổ chức Đảng. Hai là: Nguyên tắc tập trung dân chủ trong QLNN. Tập trung-dân chủ là nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta cho nên hoạt động QLNN tất nhiên cũng phải tuân thủ nguyên tắc này. Điều 6 Hiến pháp năm 1992 quy định: “ Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nguyên tắc này bảo đảm mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa tập trung và dân chủ. Vừa đảm bảo sự tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo của tập trung. Tập trung là thâu tóm quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện pháp luật. Dân chủ là việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lý, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lý trong quá trình thực hiện pháp luật [16,tr.72]. Như vậy, nếu chỉ lãnh đạo tập trung trong QLNN mà không mở rộng dân chủ thì dễ dẫn đến vi phạm quyền của công dân, quan liêu, hách dịch tham nhũng, cửa quyền có điều kiện để phát triển. Ngược lại,nếu không lãnh đạo tập trung thống nhất trong QLNN thì sẽ dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương trong QLNN. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong QLNN có biểu hiện rất phong phú đa dạng trong mọi lĩnh vực. Có thể thấy sự biểu hiện đó trong sự phụ thuộc của cơ quan QLNN (cơ quan hành chính nhà nước)vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp; trong sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với Trung ương; trong sự phân cấp quản lý; trong sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan QLNN ở địa phương và sự hướng về cơ sở của các cơ quan QLNN (cơ quan hành chính nhà nước)
  14. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng: hiện nay chúng ta còn lúng túng trong việc vận dụng nguyên tắc này vào QLNN làm cho hiệu lực và hiệu quả QLNN chưa được nâng cao một cách đáng kể, kỷ luật, kỷ cương trong QLNN còn lỏng lẻo. Ba là, nguyên tắc pháp chế trong QLNN. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất của QLNN của các nhà nước đương đại. Không tuân theo nguyên tắc này thì cũng đồng nghĩa với việc Nhà nước không quản lý xã hội bằng pháp luật. Điều 12 hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, khộng ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” [24, tr.17]. Nguyên tắc này đòi hỏi từ phía nhà nước (chủ thể quản lý) phải không ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Các cơ quan hành chính đặc biệt là Chính phủ phải làm việc theo pháp luật. Theo Hiến pháp, Chính phủ phải chịu sự giám sát của Quốc hội và các cơ quan tư pháp. Pháp luật là cơ sở, căn cứ tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan này trong tổ chức và hoạt động không được vượt quá phạm vi mà pháp luật đã quy định. Các quyết định hành chính của các cơ quan hành chính và công chức, viên chức hành chính đều phải phù hợp với pháp luật. Còn đối với các đối tượng bị quản lý (không phải là cơ quan, cán bộ công chức, viên chức nhà nước) được làm tất cả những gì mà Nhà nước không cấm. Tuy nhiên, những việc được làm cần phải thực hiện theo sự hướng dẫn, quy định của Nhà nước. Nói một cách toàn diện “Pháp chế xã hội chủ nghĩa là chế độ thực hiện pháp luật nghiêm minh, thống nhất và tự giác của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, cán bộ, công chức nhà nước và mọi công dân” [25, tr.293]. QLNN là một công việc phức tạp diễn ra ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế XHCN trong QLNN có nghĩa là phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu đối với từng lĩnh vực hoạt động khác nhau. Đây là điều kiện không thể thiếu để đảm bảo hiệu quả QLNN. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, việc phát triển và đảm bảo an toàn GTĐB có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy mạnh CNH, HĐH đất
  15. nước. Đây là một lĩnh vực hoạt động tất yếu, rộng lớn, phức tạp. GTĐB là đối tượng quản lý của mọi nhà nước. Từ những vấn đề lý luận về QLNN bằng pháp luật đã nêu trên sẽ được cụ thể hóa trong QLNN trong lĩnh vực GTĐB. 1.1.2.1.Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ a. Giao thông và GTĐB Khi nói đến giao thông là nói đến “việc đi lại từ nơi này đến nơi khác của người và phương tiện chuyên chở” [43, tr.378]. Giao thông là đòi hỏi có tính tất yếu, cần thiết của quá trình phát triển đời sống xã hội ở mỗi thời đại và mỗi quốc gia. Sự phát triển của giao thông mang tính lịch sử và phụ thuộc vào trình độ phát triển của kinh tế, khoa học - công nghệ nhất định. Lịch sử phát triển của xã hội loài người có thể nói từ khi còn sơ khai đến xã hội văn minh ngày nay đều gắn bó chặt chẽ với hoạt động giao thông mà trước hết là GTĐB, sau đó phát triển các loại hình giao thông khác như giao thông đường thuỷ, giao thông đường sắt, giao thông đường không. Theo Từ điển Tiếng Việt thì đường bộ được hiểu là “đường đi trên đất liền dùng cho người đi bộ và xe cộ (nói khái quát)” [43, tr.346]. Luật Giao thông đường bộ năm 2001 thì định nghĩa “đường bộ gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ”. Như vậy, GTĐB có thể được hiểu là việc đi lại từ nơi này đến nơi khác của người và phương tiện chuyên chở trên đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà qua sông, suối nối đường bộ. Giao thông đường bộ là một hiện tượng xã hội có xu hướng biến động (phát triển) mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia. GTĐB và phát triển GTĐB đang được xem xét ở nhiều góc độ kinh tế - xã hội, chính trị dưới sự tác động của sự phát triển khoa học - kỹ thuật tiên tiến. Ở đây, dưới góc độ luật học hiện tượng GTĐB đang đặt ra những vấn đề pháp lý sau đây: Trước hết, GTĐB là một nhu cầu tự nhiên của xã hội người. Nhưng những cá thể con người, tổ chức người nhất định không thể tự lo để thỏa mãn nhu cầu của mình (mà ai cũng có nhu cầu như vậy tuy ở những mức độ khác nhau). Đặc biệt là với nhu cầu của nền kinh tế thị trường chỉ có Nhà nước mới có thể có khả năng tổ chức, có tiềm
  16. lực kinh tế và là chủ sở hữu đất đai mới có thể xây dựng kết cấu hạ tầng GTĐB. Tuy rằng ở mức độ nào đó Nhà nước phải huy động sức dân, nhưng trách nhiệm thuộc Nhà nước. Trách nhiệm này mang tính pháp lý được quy định trong chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. Thứ hai, các quan hệ xã hội diễn ra trong lĩnh vực GTĐB là đối tượng quản lý của Nhà nước. Nhà nước kiểm soát, hướng dẫn, điều chỉnh các quan hệ xã hội để các quan hệ này diễn ra "trong vòng trật tự". Thứ ba, các quan hệ xã hội phát sinh trong GTĐB diễn ra bởi nhiều chủ thể với những mục đích kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh khác nhau. Như các loại quan hệ xã hội khác cần được định chế hóa, quy phạm hóa và tiến tới pháp điển hóa. Các quan hệ xã hội trong lĩnh vực GTĐB cũng vậy, kết quả của quá trình định chế hóa, quy phạm hóa, pháp điển hóa là Luật Giao thông đường bộ năm 2001 ra đời. Luật Giao thông đường bộ là "luật chơi" thống nhất, nhất quán, ổn định cho mọi tổ chức và cá nhân. Tóm lại, từ vai trò tất yếu của GTĐB và những vấn đề pháp lý đặt ra nêu trên là cơ sở, có tính điều kiện để nghiên cứu khái niệm QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. b. Khái niệm QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB Vấn đề thứ nhất đặt ra là: tại sao Nhà nước phải quản lý? Vấn đề này đã được phân tích ởmục "khái niệm về quản lý nhà nước". Hoạt động QLNN nói chung và QLNN trong một lĩnh vực cụ thể nào đó có thể bằng nhiều phương pháp, cách thức khác nhau. Phổ biến là quản lý bằng phương pháp hành chính, phương pháp kế hoạch chính sách, phương pháp kinh tế và phương pháp tư tưởng. Nhưng tựu chung Nhà nước nào cũng dùng pháp luật như một công cụ đồng thời là phương pháp chủ yếu để quản lý xã hội. Vậy pháp luật GTĐB là gì? Có thể hiểu một cách cô đọng nhất: Pháp luật GTĐB là Luật GTĐB năm 2001. Nhưng với tư cách là công cụ để Nhà nước quản lý GTĐB thì pháp luật GTĐB có nguồn rất rộng. Đó là các QPPL về đất đai, các QPPL dân sự, các QPPL về kinh doanh vận tải của các thành phần kinh tế, các QPPL hành chính và tư pháp hành chính, các tội phạm trong lĩnh vực GTĐB quy định trong Bộ luật hình sự... Trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới hiện nay pháp luật GTĐB còn là các điều ước quốc tế do nước ta tham gia hoặc ký kết.
  17. Có thể hiểu khái quát: pháp luật GTĐB được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật (QPPL) do Nhà nước ban hành có nội dung điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB. Như vậy, để hoạt động QLNN trong lĩnh vực GTĐB diễn ra thường xuyên, liên tục đảm bảo hiệu lực và hiệu quả thì không thể không sử dụng pháp luật GTĐB. Dưới tác động điều chỉnh của những QPPL GTĐB thì các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB được đặt vào một “vòng trật tự” theo ý chí của Nhà nước. Từ đó, Nhà nước mới kiểm tra, kiểm soát một cách chặt chẽ các hoạt động GTĐB diễn ra trên quy mô toàn quốc, từng địa bàn, từng khu vực. Từ nhận thức trên, có thể đưa ra khái niệm QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB như sau: QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB là việc Nhà nước thông qua các hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp luật GTĐB; tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB; xử lý vi phạm pháp luật GTĐB thực hiện sự tác động mang tính quyền lực nhà nước lên các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB, định hướng cho xử sự của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật trong lĩnh vực GTĐB phù hợp với yêu cầu của pháp luật GTĐB nhằm đảm bảo trật tự an toàn GTĐB, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. 1.1.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ Thứ nhất, QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB là hành vi quản lý của các cơ quan nhà nước, các cán bộ công chức, viên chức nhà nước được quy định bằng pháp luật Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật thì đương nhiên phải có pháp luật để Nhà nước quản lý. Do đặc điểm của các quan hệ xã hội trong lĩnh vực GTĐB rất đa dạng đặc biệt đây là một môi trường “động” so với các lĩnh vực hoạt động khác. Hiện tượng ùn tắc GTĐB và tai nạn GTĐB gây tổn thất về người và phương tiện dễ xảy ra. Vì vậy, việc điều chỉnh các quan hệ GTĐB không thể hô hào chung chung hoặc chỉ dừng lại ở những chính sách. Pháp luật phải là công cụ chủ yếu để chỉ đạo hành vi của các chủ thể tham gia giao thông và những chủ thể quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực GTĐB. Pháp luật phải có trước một bước và pháp luật phải quy định về quy
  18. tắc GTĐB; hệ thống báo hiệu đường bộ; các điều kiện đảm bảo an toàn GTĐB của kết cấu hạ tầng; phương tiện và người tham gia giao thông; hoạt động vận tải đường bộ. Thứ hai, QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB mang tính quyền lực nhà nước nhưng với mục đích đảm bảo phục vụ hoạt động xã hội và hoạt động kinh tế, đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế và xã hội Tính quyền lực nhà nước trong hoạt động QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB thể hiện ở chỗ: hoạt động QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB được tiến hành bởi những cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực GTĐB. Đó là Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an, Ủy ban nhân dân các cấp. Ngoài ra, còn có những cơ quan khác giữ vai trò phối hợp như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng, Bộ Xây dựng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan thông tin đại chúng… Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực GTĐB căn cứ vào các quy định của pháp luật đề ra các quyết định, mệnh lệnh có tính chất bắt buộc cho các đối tượng quản lý nhằm đảm bảo, duy trì thường xuyên trật tự an toàn GTĐB. Tuy vậy, hoạt động QLNN trong lĩnh vực GTĐB không chỉ mang tính quyền lực nhà nước mà hoạt động đó còn đảm bảo phục vụ hoạt động xã hội và hoạt động kinh tế đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế và xã hội. GTĐB thông suốt, tiện lợi là tiền đề quan trọng để thúc đẩy sản xuất phát triển, hàng hoá đỡ khan hiếm, đắc đỏ, nguyên - nhiên vật liệu được cung cấp đầy đủ, giao lưu kinh tế giữa các vùng được đẩy mạnh… nhu cầu đi lại, giao lưu văn hoá, giáo dục, y tế sẽ sôi động hơn. Thứ ba, việc thực thi QLNN trong lĩnh vực GTĐBchủ yếu do các cơ quan hành chính nhà nước và do cán bộ công chức, viên chức hành chính tiến hành các hoạt động áp dụng pháp luật Các cơ quan nhà nước, công chức, viên chức hành chính nhà nước căn cứ vào thẩm quyền, trình tự, thủ tục đã được pháp luật quy định mà tổ chức cho các chủ thể bị quản lý thực hiện những quy định pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào những quy định pháp luật để ban hành các quyết định, hoặc chấp nhận hay bãi bỏ yêu cầu của những đối tượng bị quản lý. Trong hoạt động áp dụng pháp luật thì chủ thể quản lý chỉ được làm những gì khi pháp luật quy định, phải đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, tránh tình trạng cửa quyền, lạm quyền, sách nhiễu các chủ thể tham gia GTĐB.
  19. Thứ tư, QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB thể hiện và quy định người tham gia giao thông không được làm những gì mà pháp luật cấm và được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, nhưng với những điều kiện rất khắt khe do pháp luật quy định đó là hàng loạt các điều kiện đảm bảo an toàn GTĐB. Để đảm bảo trật tự an toàn GTĐB, tránh ùn tắc GTĐB, tai nạn GTĐB và tổn thất do tai nạn GTĐB gây ra, pháp luật GTĐB quy định người tham gia GTĐB không được làm những gì mà pháp luật cấm, hoặc nghiêm cấm. Chẳng hạn cấm vượt xe trên cầu hẹp có một làn xe, dưới gầm cầu vượt, đường vòng, đường dốc, nơi đường giao nhau, đường bộ giao cắt đường sắt… hoặc những hành vi bị nghiêm cấm như phá hoại công trình đường bộ, sử dụng lòng đường, hè phố trái phép; đua xe, tổ chức đua xe trái phép, lái xe mà sử dụng chất ma tuý, lái xe chạy quá tốc độ quy định, gây tai nạn rồi bỏ trốn để trốn trách nhiệm… Tuy vậy, người tham gia giao thông được làm tất cả những gì pháp luật không cấm nhưng với những điều kiện hết sức khắt khe do pháp luật quy định cụ thể. Chẳng hạn pháp luật GTĐB không cấm người tập lái xe ôtô tham gia GTĐB nhưng với điều kiện là phải thực hành trên xe tập lái và có giáo viên bảo trợ tay lái. Thứ năm, QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB có khách thể là bảo đảm trật tự an toàn GTĐB. Nhà nước tiến hành quản lý lĩnh vực GTĐB và những người tham gia GTĐB đều mong muốn được bảo đảm trật tự an toàn GTĐB. Hiện nay còn rất nhiều quan điểm khác nhau khi đánh giá về trật tự an toàn GTĐB. Có ý kiến cho rằng: Trật tự an toàn giao thông là sự đảm bảo cho mọi hoạt động giao thông được trật tự, an toàn, nhanh chóng, tiện lợi, thống nhất và mỹ quan môi trường, hạn chế thấp nhất vi phạm pháp luật giao thông, hạn chế ùn tắc giao thông, kiềm chế tai nạn giao thông, ngăn ngừa thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra. Ý kiến khác lại cho rằng “trật tự an toàn GTĐB là việc chấp hành triệt để những yêu cầu kỹ thuật, quản lý đối với các công trình giao thông và phương tiện giao thông, quy định đối với người tham gia giao thông khi hoạt động trên đường bộ, làm cho giao thông được trật tự, an toàn, thông suốt, thuận tiện” [29, tr.384]. Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân thì:
  20. Trật tự an toàn giao thông đường bộ là hệ thống các mối quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải công cộng mà mọi người tham gia giao thông phải tuân theo để đảm bảo hoạt động giao thông thông suốt, trật tự an toàn, hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông, gây thiệt hại về người và tài sản [54, tr.130]. Như vậy, trật tự an toàn GTĐB được hiểu là: + Hoạt động giao thông được điều chỉnh bằng một hệ thống QPPL bắt buộc mọi chủ thể tham gia giao thông phải tuyệt đối tuân theo. + Hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông xảy ra, bảo đảm an toàn cho người và tài sản khi tham gia giao thông + Hạn chế ùn tắc giao thông, bảo đảm giao thông được tiện lợi, có hiệu quả, tiết kiệm được các cước phí vận chuyển, thời gian trên đường + Đảm bảo được yêu cầu mỹ quan giao thông đô thị, chống ô nhiễm môi trường. Thứ sáu, QLNN trong lĩnh vực GTĐB khi xử lý các vi phạm pháp luật đều dựa trên cơ sở pháp luật, theo pháp luật Việc xử lý các vi phạm pháp luật dù ở mức độ xử lý vi phạm hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự đều phải được tiến hành trên cơ sở pháp luật, theo pháp luật. Có như thế mới đảm bảo tính pháp chế trong xử lý vi phạm pháp luật GTĐB, góp phần giữ vững trật tự, kỷ cương trong hoạt động GTĐB, khắc phục được tình trạng tuỳ tiện, lạm quyền, đùn đẩy, né tránh bỏ sót vi phạm trong xử lý. 1.1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ Pháp luật là công cụ quan trọng để Nhà nước tổ chức và quản lý xã hội, nhất là khi xây dựng một chế độ xã hội mới. Cho nên, Nhà nước phải thực hiện các hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật; xử lý vi phạm pháp luật. Đây là ba khâu quan trọng của quy trình QLNN bằng pháp luật. QLNN bằng pháp luật sẽ không thực hiện được nếu thiếu đi một trong ba khâu đó. Cho nên, giữa ba khâu đó tồn tại mối quan hệ khăng khít không thể tách rời, nó cấu thành nội dung của QLNN bằng pháp luật. QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB cũng vậy, nội dung của nó được cấu
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2