intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Dạy đọc – hiểu văn bản văn học theo yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực người học qua tác phẩm “Chiều tối” của Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:38

52
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kết luận của đề tài này giúp các em tiếp cận giờ học đọc – hiểu tích cực và hiệu quả hơn. Các em hứng thú hơn trong bài học, nhiệt tình tham gia các hoạt động tổ chức dạy học của GV. Từ đó khơi dậy ở các em niềm yêu thích với các giờ học đọc – hiểu nói riêng, các giờ học Ngữ văn nói chung, tạo không khí học tập sôi nổi cho môn học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Dạy đọc – hiểu văn bản văn học theo yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực người học qua tác phẩm “Chiều tối” của Hồ Chí Minh

  1. MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CHỮ CÁI VIẾT TẮT CỤM TỪ ĐẦY ĐỦ BCH Ban chấp hành B1, B2, B3, … Bước 1, Bước 2, Bước 3, … CNXH Chủ nghĩa xã hội CT Chương trình GDPT Giáo dục phổ thông GV Giáo viên HĐ Hoạt động HS Học sinh SGK, SGV Sách giáo khoa, sách giáo viên KT Kiến thức 1
  2. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN I. ĐẶT VẤN ĐỀ. Những năm gần đây, việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông đã có nhiều  chuyển biến, thể  hiện rõ nhất là yêu cầu chuyển từ  dạy học nội dung sang dạy học phát   triển phẩm chất và năng lực. Từ việc thầy cô chủ yếu giảng văn, nói cho học sinh nghe cái  hay, cái đẹp của tác phẩm theo nhận thức và cảm thụ  của mình chuyển sang tổ  chức,  hướng dẫn cho học sinh biết cách tiếp nhận, tự  tìm hiểu cái hay, cái đẹp của tác phẩm  bằng những hiểu biết và cảm nhận của các em, tránh khuôn mẫu gò bó. Cùng với đó là yêu  cầu đổi mới cách kiểm tra cũng phải theo hướng đánh giá năng lực; xác định đúng khả  năng vận dụng, tạo ra sản phẩm (đọc, viết, nói và nghe) của người học; … Những yêu cầu  mới này mang tính đột phá của công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam  theo Nghị quyết 29 (2013) của Đảng và Nghị quyết 88 (2014) của Quốc hội. Đây thực sự là  một thách thức với mọi giáo viên. Nhận thức được yêu cầu và thách thức trên trong việc nâng cao chất lượng dạy học  môn Ngữ văn ở trường THPT, tôi luôn trăn trở làm thế nào để có được những giờ học tốt,  phát huy được tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của học sinh, giúp các em hình thành, bồi  dưỡng những phẩm chất và năng lựccần thiết trong quá trình học tập cũng như ứng dụng  vào thực tế  cuộc sống sau này. Điều đó đã thôi thúc tôi suy nghĩ để  đưa ra phương pháp  2
  3. phù hợp trong từng bài dạy, đặc biệt ở phần dạy đọc hiểu văn bản văn học với những thể  loại cơ  bản như: Thơ, truyện, kịch, kí, ... là phần kiến thức chiếm dung lượng lớn nhất   của môn học, cũng là hoạt động có tính chất bản lề  để  các em rèn năng lực tạo lập văn  bản là năng lực đặc thù bộ  môn. Trong chuyên đề  này, tôi xin đề  xuất kế  hoạch tổ chức  một bài dạy cụ thể theo yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực người học trong chương   trình Ngữ  văn 11 hiện hành, với mong muốn có thể  đáp  ứng được phần nào định hướng   giáo dục hiện nay. Với nhận thức như trên, tôi quyết định xây dựng chuyên đề   Dạy đọc –   hiểu văn bản văn học theo yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực người học qua   tác phẩm “Chiều tối” của Hồ Chí Minh. II. TÊN SÁNG KIẾN  Dạy đọc – hiểu văn bản văn học theo yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực   người học qua tác phẩm “Chiều tối” của Hồ Chí Minh. III. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN.  Phạm Hồng Dương, Giáo viên Ngữ văn trường THPT Yên Lạc IV. CHỦ ĐẦU TƯ SÁNG TẠO RA SÁNG KIẾN Phạm Hồng Dương, Giáo viên Ngữ văn trường THPT Yên Lạc         V. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN ­ Giảng dạy Ngữ văn 11. ­ Ôn thi THPT Quốc gia. ­ Ôn thi học sinh giỏi VI. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU: 09/02/2017  3
  4. VII. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ. I. Cơ sở lí luận. 1. Dạy học phát triển phẩm chất và năng lực. 1. 1. Phẩm chất và yêu cầu phát triển phẩm chất trong dạy học.          1.1.1. Khái niệm phẩm chất. Trong tiếng Việt, phẩm chất được hiểu là “cái làm nên giá trị  của người hay vật ”.  Tâm lí học phân biệt phẩm chất tâm lí – “những đặc điểm thuộc tâm lí, nói lên mặt đức  (theo nghĩa rộng) của một nhân cách” với phẩm chất trí tuệ  ­ “những đặc điểm bảo đảm   cho hoạt động nhận thức của một người đạt kết quả  tốt, bao gồm những phẩm chất của   tri giác (óc quan sát), của trí nhớ (nhớ nhanh, chính xác…), của tưởng tượng, tư duy, ngôn   ngữ, và chú ý. Trí thông minh là hiệu quả tổng hợp của phẩm chất, trí tuệ”. Như vậy, đặt  trong sự đối sánh với năng lực, khái niệm phẩm chất nêu trong các văn kiện của Đảng và  Nhà nước về đổi mới CT, SGK GDPT có nghĩa là đạo đức. Yêu cầu “phát triển toàn diện  cả về phẩm chất và năng lực” là sự  tiếp nối truyền thống xây dựng con người toàn diện  có đức có tài, vừa hồng vừa chuyên của dân tộc.           Trong giáo dục cũng như trong đời sống, phẩm chất (đức) được đánh giá bằng   hành vi, còn năng lực (tài) được đánh giá bằng hiệu quả của hành động.          1.1.2 Yêu cầu cần đạt về phẩm chất trong chương trình GDPT mới và căn  cứ xác định các yêu cầu cần đạt về phẩm chất của người học           Chương trình GDPT các nước phương Tây thường không quy định chuẩn về  phẩm chất của học sinh, mặc dù rất đề  cao và chú trọng giáo dục các giá trị  tinh thần. Lí  do là chương trình chỉ quy định những chuẩn có thể đo lường được.            Trong khi đó, hầu hết chương trình GDPT các nước châu Á đều quy định   những phẩm chất mà học sinh cần đạt.            Chương   trình   GDPT   của   Singapore   tập   trung   vào 6 giá   trị: tôn   trọng,   trách  nhiệm, chính trực, chu đáo, kiên cường, hòa đồng. Chương trình của Hàn Quốc tập trung vào 4 giá trị: trung thực, quan tâm, chính nghĩa,  trách nhiệm. 4
  5. Chương trình của Nhật Bản xác định nhiệm vụ  giáo dục đạo đức nhằm 6 mục tiêu  và 3 trọng điểm: ­ Sáu mục tiêu là: (I) Tôn trọng nhân phẩm, lòng yêu quý cuộc sống; (II) Kế  thừa,  phát triển văn hóa truyền thống và sáng tạo văn hóa giàu tính cá nhân; (III) Nỗ  lực hình   thành, phát triển một xã hội đất nước dân chủ; (IV) Có đóng góp cho sự phát triển một thế  giới hòa bình; (V) Có thể tự quyết định một cách độc lập; (VI) Có ý thức đạo đức: kỷ luật,   tự kiềm chế, tinh thần tập thể. ­ Ba trọng điểm là: (I) Sự  tôn trọng cuộc sống; (II) Quan hệ  cá nhân và cộng đồng;  (III) Ý thức về trật tự dọc. Chương trình GDPT mới của nước ta đã tham khảo những kinh nghiệm nói trên, xác  định mục tiêu hình thành và phát triển cho HS những phẩm chất chủ yếu sau:  yêu nước,   nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. Những phẩm chất này được nêu trong các văn kiện của Đảng về  xây dựng văn hóa,  con gười Việt Nam (cụ  thể  là Nghị  quyết số  03­NQ/TW ngày 16/7/1998 về  xây dựng và   phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (thường gọi là Nghị  quyết Trung  ương 5 khóa VIII); Nghị  quyết số  33­NQ/TW ngày 9/6/2014 về  xây dựng và  phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước) Có thể  thấy những phẩm chất chủ  yếu cần hình thành, phát triển cho học sinh nêu  trong dự  thảo chương trình GDPT mới (yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách   nhiệm) phù hợp với yêu cầu xây dựng con người Việt Nam đã được đề cập đầy đủ trong   hai Nghị quyết của BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 1.2. Năng lực và dạy học phát triển năng lực 1.2.1. Khái niệm năng lực. Trong tiếng Việt cũng như tiếng Anh, từ  năng lực được sử dụng với nhiều nghĩa cụ  thể, gắn với các lĩnh vực khác nhau, trong những tình huống và ngữ cảnh riêng biệt.  Tiếp  thu quan niệm về năng lực của các nước phát triển, Chương trình giáo dục phổ thông của  Việt Nam(2018) xác định:  ­ Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển những tố chất sẵn có và   quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng  và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí . . . thực hiện thành công một   loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể ”. Có hai   loại năng lực cơ bản: 5
  6.  ­ Năng lực cốt lõi là năng lực cơ  bản, thiết yếu mà bất kì ai cũng cần phải có để  sống, học tập và làm việc hiệu quả.  ­  Năng lực đặc biệt  là những năng khiếu về  trí tuệ, văn nghệ, thể  thao, kĩ năng  sống, . . . nhờ tố chất sẵn có ở mỗi người.  Trong đó, năng lực cốt lõi gồm năng lực chung và năng lực đặc thù được hình thành  và phát triển trong quá trình học tập nói chung và trong quá trình học từng môn chuyên biệt  nói riêng. 1.2.2. Dạy học định hướng nội dung và dạy học phát triển   phẩm chất và   năng lực Dạy học định hướng nội dung  hay còn gọi là  Chương trình theo nội dung  là loại  chương trình tập trung xác định và nêu ra một danh mục đề  tài, chủ  đề  của một lĩnh vực  môn học nào đó. Tập trung trả lời câu hỏi: Học sinh cần biết những gì? Từ  đó, việc dạy  học phổ  thông thường mang tính “hàn lâm”, nặng về  lí thuyết, ít chú ý đến các giai đoạn  phát triển, nhu cầu, hứng thú và điều kiện của người học.  Dạy học phát triển phẩm chất và năng lực hay còn gọi là Chương trình theo kết   quả  đầu ra như  NIER ( 1999 ) đã xác định “ là cách tiếp cận nêu rõ kết quả, những khả  năng hoặc kĩ năng mà học sinh mong muốn đạt được vào cuối mỗi giai đoạn học tập trong   nhà trường  ở  một môn học cụ  thể  ”. Tập trung trả  lời câu hỏi: Chúng ta muốn học sinh  biết và có thể làm được những gì?  Tùy vào từng quốc gia mà chọn chương trình nội dung   hay chương trình theo kết quả đầu ra. So sánh ta thấy có sự  khác biệt. Thiết kế  chương trình nội dung thường bắt đầu từ  mục tiêu giáo dục sau đó xác định các lĩnh vực môn học, chuẩn kiến thức và kĩ năng,  phương pháp dạy học và cuối cùng là đánh giá. Thiết kế chương trình năng lực trước hết  cần xác định các năng lực cần trang bị và phát triển cho học sinh. Mục tiêu cuối cùng của  dạy học phát triển phẩm chất và năng lực là hình thành và phát triển những phầm chất và   năng lực cần có để  sống tốt hơn, làm việc hiệu quả  hơn, đáp  ứng được những yêu cầu  của xã hội đang thay đổi từng ngày. Tư  tưởng này chỉ  phối cách lựa chọn nội dung dạy   học và phương pháp dạy học theo hướng học sinh chủ  động tham gia kiến tạo nội dung  kiến thức, vận dụng trị thức vào cuộc sống hướng tới tự học để có thể học suốt đời. 6
  7. 2. Phương pháp dạy học ngữ văn theo yêu cầu phát triển phẩm chất và năng  lực. 2.1. Phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học, theo chúng tôi, là cách thức hoạt động của giáo viên khi thực  hiện dạy học ; quy định mô hình hoạt động của giáo viên nhằm giúp học sinh chiếm lĩnh   đối tượng và đạt được mục tiêu bài học. Có thể  dẫn ra một số  phương pháp dạy học  chung cho nhiều môn học như: thuyết trình; hỏi ­ đáp; làm mẫu; thảo luận; trò chơi; luyện   tập, . . . Với môn Ngữ văn, xuất phát từ bản chất của chương trình phát triển năng lực, có  thể xác định một số phương pháp dạy học đặc thù sau đây:  ­ Phương pháp dạy đọc đúng và đọc diễn cảm.  ­ Phương pháp dạy đọc hiểu.  ­ Phương pháp dạy viết ( viết đúng và viết hay ). ­ Phương pháp dạy viết đoạn văn và văn bản. ­ Phương pháp dạy nói và nghe.  Trên đây là một số nét cơ  bản về  phương pháp dạy học xét trong mối quan hệ  với   quan điểm, biện pháp, kĩ thuật, phương tiện và hình thức dạy học. Vấn đề là, giáo viên sau   khi nắm được bản chất của mỗi khái niệm cần vận dụng vào thực tế  dạy học của mình   một cách linh hoạt vì bản thân các thuật ngữ, khái niệm ấy cũng rất tương đối, không phải   lúc nào cũng rạch ròi minh bạc, vì thế tuỳ vào bối cảnh cụ thể mà định danh cho phù hợp. 2.2. Yêu cầu của phương pháp dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển phẩm  chất và năng lực người học  Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học cần  đáp  ứng được một số yêu cầu cơ  bản và một số  phương pháp dạy học đặc thù của môn   học.  Theo định hướng chung của Chương trình Ngữ  văn (2018), có thể  nêu lên mấy yêu   cầu chính sau đây: 2.2.1. Một số yêu cầu cơ bản  a. Phát huy tính tích cực của người học.          Hình thành cho học sinh ý thức tự  học. Giáo viên cần khơi gợi, vận dụng kinh  nghiệm và vốn hiểu biết đã có của học sinh về vấn đề đang học, từ đó tổ chức cho các em   tìm hiểu, khám phá để  tự  mình bổ  sung, điều chỉnh, hoàn thiện những hiểu biết  ấy. Cần   khuyến khích học sinh trao đổi và tranh luận, đặt câu hỏi cho mình và cho người khác khi  7
  8. đọc, viết, nói và nghe. Bên cạnh việc phát huy tính tích cực của người học, trong dạy học   giáo viên cần chú ý tính chuẩn mực của người thầy cả về tri thức và kĩ năng sư phạm.  b. Dạy học tích hợp và phân hoá Dạy học tích hợp đòi hỏi giáo viên Ngữ  văn trước hết phải thấy được mối liên hệ  nội môn (đọc, viết, nói và nghe) và yêu cầu giáo dục liên môn (Lịch sử, Địa lí, Giáo dục  công dân, Nghệ thuật ). Dạy học phân hoá có thể  thực hiện bằng nhiều cách: nếu các câu hỏi, bài tập theo   nhiều mức độ  khác nhau; yêu cầu tất cả  mọi học sinh đều làm việc và lựa chọn vấn để  phù hợp với mình; khuyến khích sự mạnh dạn, tự tin trong trao đổi. tranh luận và thể hiện,  động viên và khen ngợi kịp thời các học sinh có ý tưởng sáng tạo, mới mẻ, độc đáo trong   đọc, viết, nói và nghe . Ở trung học phổ thông dạy các chuyên để học tập cũng nhằm đạt  được mục tiêu phân hoá và góp phần định hướng nghề nghiệp.  c.Đa dạng hoá các phương pháp, hình thức và phương tiện dạy học Theo định hướng này, giáo viên cần tránh máy móc rập khuôn , không tuyệt đổi hoá   một phương pháp trong dạy dọc, viết hay nói và nghe mà biết vận dụng các phương pháp  phù hợp với đối tượng, bối cảnh, nội dung và mục đích của giờ học. Cần mở rộng không  gian dạy và học , không chỉ giới hạn trong phạm vi lớp học mà còn có thể ở thư viện , sân  trường , nhà bảo tàng , khu triển lãm, … Có thể  cho học sinh đi tham quan, dã ngoại, yêu  cầu các em ghi chép, chụp hình, quay phim, … những gì quan sát, trải nghiệm và viết báo  cáo, thuyết minh, ... 2.2.2. Các phương pháp dạy học đặc thù của môn học ­ Phương pháp dạy học đọc ­ Phương pháp dạy học viết.  ­ Phương pháp dạy nói và nghe  II.Cơ sở thực tế. 1. Thực trạng dạy học Ngữ văn trong nhà trườ ng phổ thông hiện nay. Nói đến phương pháp dạy học ngữ văn ở  nhà trường phổ thông hiện nay không thể  không nhắc tới các hiện tượng rất phổ biến trong các giờ học văn hiện nay:  ­ Dạy học đọc chép.   ­ Dạy nhồi nhét.  ­ Dạy học văn như nhà nghiên cứu văn học. 8
  9. Những cách học này khiến học sinh học thụ  động, thiếu sáng tạo khiến học sinh   không biết tự học, dần mất sự hợp tác cần thiết giữa trò và thầy, giữa trò với trò, việc học  thiếu hứng thú, đam mê. Kết quả của việc học thụ động là học tập thiếu cảm hứng, thiếu  lửa, thiếu niềm ham mê, mà thiếu những động cơ  nội tại ấy việc học tập thường là ít có   kết quả. 2. Nguyên nhân 2.1. Nguyên nhân khách quan. Chúng ta đang sống là thời đại khoa học công nghệ, đa số  HS chỉ  muốn học các   ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế…ít có HS hứng thú học văn, bởi phần đông HS   nghĩ rằng năng lực văn là năng lực tự nhiên của con người xã hội, không học vẫn biết đọc,   biết nói; học văn không thiết thực. Đó là một vấn đề  rộng lớn, ngoài tầm kiểm soát của   nhà trường và bộ môn mà chúng ta phải chấp nhận. Về  phía người thầy, xã hội ta có thói quen tư  duy theo kiểu giáo điều. Cơ  hội đối  thoại thầy – trò còn hạn chế, chủ  yếu thầy nói trò nghe, ít hoặc thậm chí không có thói  quen phản biện. Điều này  ảnh hưởng trực tiếp đến nhà trường với nếp tư  duy cũ. Vậy  nếu không thay đổi xã hội khó mà thay đổi giáo dục. 2.2. Về nguyên nhân chủ quan. (phương pháp dạy ­ học văn) Trước hết là phương pháp dạy học cũ, chỉ dựa vào giảng, bình, diễn giảng. Giáo án   soạn ra là để  cho GV “giảng”, biểu diễn trên lớp. Giáo viên nào tham giảng thì thường   “cháy” giáo án. Đây là quan niệm không còn phù hợp vì văn học sáng tác ra cho người đọc  đọc, do đó môn học tác phẩm văn học phải là môn dạy HS đọc văn, giúp HS hình thành kĩ   năng đọc văn, trưởng thành thành người đọc có văn hoá, chứ  không phải là người biết   thưởng thức việc giảng bài của thầy. Chính vì vậy sai lầm thứ  hai là môn học văn hiện  nay thiếu khái niệm khoa học về đọc văn.  Về thi cử.  Ở đây bộ  đề  thi của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp trước đây  và của Bộ Giáo dục và Đào tạo sau này cũng như phần lớn cách ra đề trong các kì thi tuyển   sinh Đại học và Cao đẳng có vai trò tiêu cực trong việc tạo ra một lối làm văn thiên về học  thuộc, sao chép và thiếu sức sáng tạo của HS. Cũng vì áp lực thi cử, thành tích mà người   thầy thiên về phương pháp dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt, HS phải học thuộc  kiến giải của thầy. Trong khi đó, việc học tập thực chất không phải là học thuộc mà là tự  biến đổi tri thức của mình trên cơ  sở  các tác động của bên ngoài và của hoạt động của   người học. Do đó việc áp đặt kiến thức chỉ  có tác dụng tạm thời, học xong là quên ngay,   9
  10. không để lại dấu ấn trong tâm khảm người học, không trở thành kiến thức hữu cơ của một  bộ óc biết suy nghĩ và phát triển. Như  thế  đương nhiên chưa xem HS là chủ  thể  của hoạt  động học văn, chưa trao cho các em tính chủ động trong học tập.  Về dạy học làm văn nghị luận chủ yếu là nghị luận văn học, dạy làm văn theo đề  sẵn và văn mẫu của bộ đề, hầu như không chú trọng dạy văn nghi luận xã hội. Điều này   thể  hiện nổi bật nhất trong các lớp luyện và trong các hoạt động ôn luyện chuẩn bị  cho   các kì thi, nhằm học để thi. Dạy tiếng Việt thì nặng về dạy lí thuyết, ít thực hành, trau dồi ngữ cảm. Chấm bài  làm văn phần nhiều qua loa, chỉ cốt cho điểm là chính. Phần nhiều coi nhẹ khâu chữa bài  và hướng dẫn HS tự sửa bài để nâng cao kĩ năng làm văn. Dạy ngữ văn mới chỉ nhằm mục   tiêu trước mắt là thi cử mà chưa hướng tới mục tiêu lâu dài là dạy kĩ năng, dạy phẩm chất,   dạy làm người. Trên đây là thực trạng dạy học Ngữ  văn hiện nay  ở  nhà trường phổ  thông. Có thể  còn nhiều yếu tố khác song chúng tôi nhận thấy những yêu tố khách quan và chủ quan trên   có  ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng bộ  môn nói riêng, chất lượng của chương trình  giáo dục nói chung, cần phải có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu phát triển phẩm chất   và năng lực con người trong học tập cũng như trong cuộc sống sau này. 10
  11. CHƯƠNG 2: DẠY ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC THEO YÊU CẦU PHÁT TRIỂN PHẨM  CHẤT VÀ NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC I. Văn bản văn học trong chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn. Trong phạm vi chuyên đề này, chúng ta cùng tìm hiểu khái niệm Văn bản văn học là  những văn bản nghệ  thuật ngôn từ,  ở  đó ngôn ngữ  được sử  dụng một cách nghệ  thuật,  giàu tính thẩm mĩ, tính hình tượng, tính biểu cảm, tính đa nghĩa, tính sáng tạo, … thể hiện  phong cách nghệ  thuật của người viết. Với cách hiểu này, ta thấy có nhiều kiểu văn bản   văn học trong chương trình phổ  thông như: thơ, truyện, kịch, kí, phú, cáo, hát nói, văn tế,  … Song có 4 kiểu văn bản văn học lớn trong chương trình Ngữ  văn trung học phổ  thông   hiện hành: thơ, truyện, kịch (kịch bản văn học), kí. Trong mỗi kiểu văn bản này lại có các  tiểu loại. Thơ có thơ cách luật, thơ tự do, thơ dân gian, thơ trung đại và thơ  hiện đại, thơ  chữ  Hán và thơ  chữ  Nôm, trường ca, … Kiểu văn bản truyện có: truyện dân gian (truyền  thuyết, cổ  tích, truyện cười, …), truyện trung đại, truyện hiện đại, truyện ngắn và tiểu   thuyết, truyện hiện thực và truyện lãng mạn, … Khác với những văn bản văn học tồn tại trong đời sống, các văn bản văn học trong   chương trình ngữ văn đã được xử lí về  phương diện sư phạm để  đảm bảo mục tiêu giáo   dục. Nhiều văn bản thực chất chỉ  là những trích đoạn từ  tác phẩm văn học, trong đó có  một số  văn bản đã được tác giả  chương trình, sách giáo khoa đặt tên để  đảm bảo tính  thống nhất chung của các bài học cũng như định hướng cho giáo viên và học sinh trong quá  trình dạy học. Tính chất sư phạm thể hiện rõ nhất ở mô hình các bài đọc hiểu mà trong đó  văn bản văn học là một thành tố, bao gồm: Kết quả cần đạt; Thông tin chung về tác giả và  tác phẩm (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ); Văn bản đọc hiểu; Chú giải ; Câu hỏi / Bài tập hướng  dẫn đọc hiểu; Ghi nhớ; Luyện tập. Riêng sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thông Nâng  cao còn có phần Tri thức đọc hiểu được đặt ở cuối mỗi bài học . Trong mô hình của bài đọc hiểu , văn bản và việc đọc hiểu văn bản là trung tâm .   Phần Kết quả cần đạt giúp giáo viên và học sinh xác định được mục tiêu của giờ học , có  tác dụng định hướng cho các hoạt động tiếp theo , đồng thời là một trong những cơ sở của  việc đánh giá kết quả dạy và học. Phần Khái lược về tác giả và tác phẩm  (Tiểu dẫn) vừa  là bước đệm chuẩn bị  cho việc đọc hiểu , vừa có tác dụng cung cấp những tri thức đọc  hiểu để học sinh sử dụng trong quá trình đọc. Kế đó là văn bản văn học và chú thích, chú   giải những từ khó hoặc những điển tích, điển cố, ... Những chú giải này là cơ sở giúp học  11
  12. sinh hiểu nghĩa hiển ngôn và hàm ngôn của văn bản. Đây cũng là một dạng tri thức đọc   hiểu mà giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu và vận dụng vào quá trình đọc   hiểu văn bản, Phần Hướng dẫn đọc hiểu tiếp đó chủ yếu được biên soạn dưới dạng các   câu hỏi, bài tập để  gợi ý học sinh đọc hiểu văn bản.  Ở  một số bài, việc hướng dẫn đọc   hiểu không chỉ là các câu hỏi, bài tập mà còn có những dẫn giải về cách đọc hiểu văn bản  theo đặc trưng thể loại. Phần Ghi nhớ có chức năng giúp giáo viên và học sinh chốt những   nội dung trọng tâm của bài học. Phần Luyện tập hướng dẫn học sinh thực hành, củng cố  kết quả đọc hiểu thông qua việc làm các bài tập tại lớp và nhà. Nhìn chung, mô hình bài học   đọc hiểu trong sách giáo khoa Ngữ văn đãđược xây dựng theo các quy luật nhận thức, tâm lí,  giáo dục và tiếp nhận văn học. Nhưng mô hình này không hàm nghĩa triệt tiêu tính sáng tạo  của giáo viên trong quá trình thiết kế bài học, không cố định một tiến trình cần phải lặp lại   ở tất cả các bài học. Tuỳ vào bối cảnh dạy học, đối tượng học sinh, vị trí bài học, ... giáo   viên có thể điều chỉnh tiến trình và nội dung bài học để giúp học sinh đạt được mục tiêu bài   học một cách chất lượng nhất . II . Yêu cầu dạy đọc hiểu văn bản văn học  Việc dạy học tác phẩm, đoạn trích văn học, xét về  thực chất không phải là giảng  văn, mà chính là dạy đọc văn. Đọc văn là quá trình hoạt động tâm lí nhằm nắm bắt ý nghĩa   của văn bản, vì thế đó là hoạt động đọc hiểu văn bản.  Lí thuyết tiếp nhận cho biết, văn bản văn học chỉ  là một cấu trúc mời gọi, nó chỉ  cung cấp cài biểu đạt, còn cái được biểu đạt thì bỏ trống hoặc để mơ hồ cho người đọc tự  xác định. Như  thế  hoạt động đọc do người đọc làm chủ, phải phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo, dựa vào ngữ cảnh trong văn bản và hoàn cảnh phát ngôn (viết) mà tìm ra ý  nghĩa. Hoạt động tìm ý nghĩa này về thực chất là một quá trình kiến tạo ý nghĩa, một quá  trình hoạt động đầy những thử và sai, loại bỏ cái sai, dần dần xác lập cái đúng. Đọc hiểu  văn bản đòi hỏi phải có trực giác, trực cảm, dự đoán cái ý nghĩa văn bản biểu đạt, sau đó   phân tích kiểm chứng. 1 . Yêu cầu dạy đọc hiểu văn bản văn học 1.1. Bám sát văn bản đọc hiểu , tránh dạy học văn bằng “ thế bản ”  Dạy đọc hiểu văn bản văn học là lấy văn bản và hoạt động đọc hiểu văn bản của  học sinh làm trung tâm. Nếu trong mô hình giảng văn, giáo viên cảm thụ văn rồi giảng lại   cho học sinh nghe về tác phẩm, tức là cho học sinh tiếp xúc với “  thế  bản ” (văn bản đã  được tiếp nhận của giáo viên) thì trong dạy đọc hiểu , học sinh phải làm việc trực tiếp với   12
  13. văn bản của nhà văn dưới sự hướng dẫn, hỗ trợ của giáo viên. Như vậy, văn bản và việc   đọc hiểu văn bản của mỗi học sinh là căn cứ  quan trọng nhất và là yêu cầu bắt buộc để  mỗi học sinh có thể trở thành bạn đọc sáng tạo của các nhà văn.  1.2. Chú trọng những đặc trưng chung và riêng về thể loại của văn bản văn  học  Văn bản văn học là loại văn bản có đặc điểm nổi trội về  tình hình tượng, tính đa  nghĩa, tính truyền cảm, tính độc đáo gắn liền với hệ thống ngôn ngữ giàu tính nghệ thuật.   Bên cạnh những đặc tính chung, mỗi văn bản văn học lại có những đặc điểm riêng về  phương diện thể  loại. Mỗi thể loại (thơ, truyện, kịch, kí), thậm chí mỗi thể  tài (thơ  thất  ngôn bát cú , thơ ngụ ngôn tứ tuyệt, thơ tự do; truyện ngắn, tiểu thuyết; bị kịch, hài kịch,  kịch lịch sử; bút kí, tuỳ bút, ...) cũng có những yếu tố đặc thù. Vì thế , dạy đọc hiểu bất cứ  loại / kiểu văn bản nào, giáo viên đều phải quan tâm đến đặc điểm riêng của loại / kiểu   văn bản đó, nếu không sẽ khó hướng dẫn học sinh tiếp nhận tác phẩm một cách hiệu quả.   Thông qua những văn bản cụ thể được sắp xếp theo trục thể loại, giáo viên không chỉ giúp   học sinh khám phá cái hay, cái đẹp của từng văn bản mà còn phải giúp các em hình thành   và phát triển phương pháp đọc văn để sau này mỗi học sinh có thể tự đọc được những văn  bản tương tự.  1.3 . Gắn việc tổ chức hoạt động dạy học đọc hiểu với đổi mới đánh giá theo  định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh Dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực là yêu cầu quan trọng  và nổi bật của đổi mới giáo dục phổ  thông hiện nay và những năm tiếp theo, nhất là khi   chương trình , sách giáo khoa Ngữ  văn mới được triển khai. Theo đó, phương pháp dạy   học đọc hiểu theo định hướng phát triển năng lực học sinh là phương pháp tổ  chức hoạt   động học, mỗi hoạt động được thực hiện thông qua một một số  nhiệm vụ  học tập, mỗi   nhiệm vụ học tập được thiết kế và chuyển giao bằng các kĩ thuật dạy học với sự hỗ trợ  của các phương tiện dạy học. Đồng thời với việc tổ chức hoạt động đọc hiểu văn bản văn  học ở học sinh, giáo viên cũng cần đổi mới việc kiểm tra, đánh giá và đổi mới thi cử cũng  cần phải theo định hướng phát triển năng lực. Nghĩa là dạy học và kiểm tra, đánh giá phải  cùng hướng về một phía là các năng lực Ngữ văn cần được hình thành và phát triển ở học   sinh qua các giờ học đọc hiểu. Việc kiểm tra, đánh giá học sinh phải tiến hành song song   với việc dạy học, thậm chí đánh giá chính là một phương thức dạy học. Vì thế, cả  dạy  học và đánh giá đều phải được xác lập trên một hệ tiêu chí chung là các kết quả đầu ra về  năng lực của học sinh.  13
  14. 2. Dạy học đọc ­ hiểu các kiểu văn bản văn học  2.1. Dạy đọc hiểu văn bản truyện.   Văn bản truyện là văn bản tự sự được sáng tác theo lối hư cấu. Mỗi văn bản truyện   là sáng tạo nghệ  thuật ngôn từ  độc đáo của người nghệ  sĩ. Tuy nhên, xét chung về  thể  loại, văn bản truyện thường có những dấu hiệu đặc trưng, nổi bật sau: có cốt truyện, có   nhân vật, có người kể chuyện, có lời trần thuật. Riêng với truyện ngắn, còn có tình huống   truyện.      Dạy đọc hiểu văn bản truyện cần phải bám sát những yếu tố  chủ  đạo này bên   cạnh những đặc điểm riêng về thi pháp,phong cách nghệ thuật của nhà văn,đặc sắc nghệ  thuật của từng tác phẩm, …Dạy đọc hiểu truyện,trước tiên phải giúp học sinh đọc văn  bản truyện và nắm được cốt truyện cũng như hệ thống nhân vật.Kế đó,tùy theo đặc trưng   nổi trội của truyện và ý đồ  sư  phạm của giáo viên mà hướng dẫn học sinh đọc hiểu ý  nghĩa của truyện theo diễn biến cốt truyện,bố cục,kết cấu,bối cảnh (không gian,thời gian  nghệ  thuật ), nhân vật, tình huống hoặc mạch kể  của người dẫn truyện, … Có giờ  đọc   hiểu truyện chỉ nương theo một trong các con đường trên nhưng cũng có giờ  học cần kết   hợp nhiều cách thức đọc hiểu thì học sinh mới cảm nhận được ý nghĩa sâu sắc và những  điểm độc đáo và hình thức nghệ thuật của tác phẩm truyện.      Từ  đặc trưng chung của hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản văn học, kết hợp   với đặc tính riêng của thể loại truyện, có thể xác định những hoạt động dạy học đọc hiểu   của văn bản truyện như sau:     ­Hoạt động: Tạo tâm thế, bối cảnh đọc hiểu truyện.      ­Hoạt động 2: Tìm hiểu tri thức đọc (chú ý tri thức về thể loại truyện nói chung   và đặc điểm riêng của văn bản truyện được dạy…)       ­Hoạt động 3: Đọc hiểu văn bản truyện (Đọc văn bản và xác định cốt truyện, hệ  thống nhân vật. Đọc hiểu ý nghĩa của truyện qua một/một số yếu tố hình thức nghệ thuật  (cốt truyện, bố cục, kết cấu, không gian, thời gian nghệ thuật, nhân vật, tình huống, mạch  kể của người dẫn chuyện, ...)       ­Hoạt động: Củng cố và vận dụng kết quả đọc truyện vào thực tiễn 2.2. Dạy đọc hiểu văn bản thơ Cũng như truyện, thơ là sản phẩm của tư duy hình tượng và hư cấu nghệ thuật. Tuy   nhiên, nếu truyện phản ánh hiện thực đời sống và biểu hiện tư  tưởng nghệ  thuật của   người viết thông qua việc kể  một câu chuyện về  con người, thần linh, đồ  vật hoặc loài   14
  15. vật, … thì thơ  lại chọn giãi bày những cung bậc tình cảm, cảm xúc làm nội dung và  phương thức biểu đạt tư  tưởng của người viết. Nhân vật trong thơ  là nhân vật trữ  tình,   không hiện diện với ngoại hình, trang phục, điệu bộ, cử  chỉ, … mà chủ  yếu được khắc   họa bằng cảm xúc, suy nghĩ. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính, dù là thơ trung đại hay hiện đại,  thơ cách luật hay tự do, … thì ngôn ngữ thơ đều đã được cách điệu hóa để tạo nên những   câu, khổ, đoạn giàu sức biểu cảm nhất, có khả  năng rung động trái tim người đọc, mang  lại khoái cảm thẩm mĩ lành mạnh. Mỗi tác phẩm thơ  cũng như  mỗi tác phẩm văn chương là một sinh thể  nghệ  thuật  đặc thù. Nhưng tựu chung lại, nhắc đến thơ là nhắc đến những yếu tố căn bản: nội dung  trữ tình, nhân vật trữ tình, tứ thơ, ngôn từ thơ, nhạc tính trong thơ, biểu tượng thơ, … Dạy   đọc hiểu văn bản thơ  phải bám sát những yếu tố  chung về  thể  loại cùng với việc chú ý   những đặc tính riêng của mỗi bài. Do văn bản thơ  được tổ  chức tiếng, chậm rãi, có khi   ngân nga để  hình  ảnh, nhịp điệu, âm hưởng của văn bản thơ  mở  ra và đọng lai thành  ấn   tượng trong tâm trí. Đọc văn bản thơ không chỉ có nhiệm vụ tượng thanh các con chữ mà   còn tượng hình lên trong “nội quan’’ của người đọc thế  giới hình tượng và chủ  thể  trữ  tình­người phát ngôn, bộc bạch, thổ  lộ, giãi bày, … trong thơ. Tiếp  đó, giáo viên cần  hướng dẫn học sinh đọc kĩ từng khổ  thơ, câu thơ, phân tích, cắt nghĩa từng hình ảnh thơ,  từ ngữ, biện pháp nghệ thuật, …tiêu biểu để phát hiện ý thơ, tình thơ và cảm nhận được  cái hay, cái độc đáo trong cách giãi bày tâm tư của tác giả. Trong quá trình đọc hiểu ý nghĩa   của văn bản thơ, cần có các cách thức khơi gợi học sinh leien tưởng, tưởng tượng, kết nối   với thực tiễn và kinh nghiệm của bản thân để  lí giải và đồng cảm với nhân vật trữ  tình.   Trên cơ sở đó, kết hợp các tri thức ngoài văn bản (tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm,   …), rút ra nhận định ‘về  tình cảm, thái độ, tư  tưởng của người viết. Cũng như  dạy đọc   hiểu truyện, tùy theo đặc trưng nghệ  thuật của văn bản thơ  và ý đồ  sư  phạm của giáo   viên, “đường vào thơ’’ có thể “men’’theo một hoặc một số “lối đi’’ như bố cục, cấu từ, thi  luật, điểm nhìn của nhân vật trữ tình, … Từ đặc trưng chung của hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản học, kết hợp với đặc   tính riêng về thể loại của thơ, có thể xác định những hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản   như sau: Hoạt động 1: Tạo tâm thế đọc hiểu thơ. Hoạt động 2: Tìm hiểu tri thức đọc (chú ý tri thứ về thơ nói chung văn bản thơ được   dạy nói riêng, …) 15
  16. Hoạt động 3: Đọc hiểu văn bản thơ: đọc văn bản và cảm nhận chung về giọng điệu  thơ; đọc hiểu ý nghĩa của thơ  qua một/một số yếu tố hình thức nghệ  thuật (bố  cục, cấu   từ, thi luật, điểm nhìn của nhân vật trữ tình, ...) gắn liền với việc phân tích ngôn từ, hình   ảnh, biểu tượng, các biện pháp nghệ  thuật, … và sự  huy động vốn sống, trải nghiệm cá   nhân, liên tưởng, tưởng tượng của học sinh để  các em có được sự  thấu cảm với người   viết) Hoạt động 4: Củng cố và vận dụng kết quả đọc hiểu văn bản thơ. 2.3. Dạy đọc hiểu văn bản kịch (kịch bản văn học)  Văn bản kịch  ở  đây là kịch bản văn học ­ văn bản nghệ  thuật ngôn từ. Kịch là tên  gọi về thể loại, trong đó có các thể loại: bi kịch, hài kịch, kịch lịch sử, … Tuy mỗi thể loại   kịch có sự  khác nhau về  đặc trưng nghệ  thuật nhưng văn bản kịch nói chung đều có một  số đặc điểm nổi bật sau: Kịch lựa chọn những xung đột, mâu thuẫn trong đời sống làm đối   tượng miêu tả, do đó, kịch tính là đặc trưng nổi bật nhất của kịch. Xung đột kịch được cụ  thể  hóa bằng hành động kịch (những hành động đối nghịch). Hành động kịch được thực  hiện bởi các nhân vật kịch. Nhân vật kịch được xây dựng bởi chính ngôn ngữ  của họ  (không có ngôn ngữ  người kể  chuyện) bao gồm: đối thoại, độc thoại và bàng thoại (lời   nhân vật nói riêng với khán giá). Ngoài ra, cần chú ý những lời hướng dẫn ghi chú trên kịch   bản để hình dung ra bối cảnh và nhân vật. Từ  đặc trưng của kịch, việc dạy đọc hiểu văn bản kịch đòi hỏi giáo viên phải giúp   học sinh nhận diện và phân tích các mâu thuẫn, xung đột giữa các nhân vật (hiểu theo   nghĩa rộng) được nhà văn xây dựng trong tác phẩm để qua đó hiểu được tư tưởng của tác   giả, đồng thời thấy được đặc trưng nổi bật của kịch. Cũng như  thơ, truyện, một trong   những bước đầu tiên của quy trình dạy đọc kịch là giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh   đọc văn bản. Mục đích của việc đọc văn bản và phát triển các mâu thuẫn, xung đột. Do   kịch chủ  yếu được xây dựng trên nền các lời thoại của các nhân vật nên trong khâu đọc   kịch bản, giáo viên cần tận dụng lời thoại. Kế đó, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định  những xung đột chính, những mâu thuẫn căn bản trong văn bản kịch trước khi tổ chức học   sinh phân tích, cắt nghĩa. Như đã đề cập, xung đột kịch thực chất là xung đột giữa các nhân   vật hoặc các lực lượng được nhà văn xây dựng trong văn bản kịch, cho nên hướng dẫn học   sinh phân tích xung đột kịch đồng nghĩa với việc phân tích mâu thuẫn gay gắt, căng thẳng  giữa các nhân vật hoặc các lực lượng đối lập được thể  hiện chủ  yếu qua hệ  thống lời   thoại (đối thoại, độc thoại, bàng thoại).Trong quá trình đọc hiểu văn bản kịch, giáo viên  16
  17. cũng nên lưu ý học sinh khai thác ý nghĩa nhan đề vở kịch,  đánh giá sự thay đổi của nhân   vật kịch trong suốt vở kịch. Nhìn chung, có nhiều cách thức để  giáo viên có thể  lựa chọn nhằm hướng dẫn học   sinh đọc hiểu giá trị  nội dung của văn bản kịch. Tùy theo ý đồ  sư  phạm, kế  hoạch dạy  học, giáo viên có thể  tổ  chức cho học sinh đọc hiểu văn bản kịch qua việc phân tích cốt  truyện kịch hoặc các xung đột kịch, nhân vật kịch. Cũng có thể  kết hợp các phương pháp  trên. Tuy nhiên, dù chọn phương pháp nào giáo viên vẫn phải bám sát đặc trưng thể  loại:   xung đột kịch, ngôn ngữ  kịch (lời thoại), nhân vật kịch. Trên cơ  sở  đặc trưng chung của  hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản kết hợp với đặc trưng thể  loại, chúng ta có thể  xác  định những hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản kịch như sau:  ­ Hoạt động 1: Tạo tâm thế đọc hiểu kịch bản văn học. ­ Hoạt động 2: Tìm hiểu tri thức đọc hiểu (tri thức chung về thể loại kịch và tri thức   riêng về văn bản kịch được tìm hiểu) ­ Hoạt động 3: Đọc hiểu văn bản kịch. Gồm có các hoạt động + Đọc văn bản. + Xác định cốt truyện kịch + Xác định bối cảnh, hệ thống nhân vật + Khai thác xung đột kịch, nhân vật kịch, lời thoại, … để  tìm hiểu ý nghĩa của tác   phẩm. ­ Hoạt động 4: Củng cố và vận dụng kết quả của hoạt động đọc hiểu. 2.4. Dạy đọc hiểu văn bản kí Kí là một loại thể văn học gồm nhiều thể: bút kí, kí sự, hồi kí, tùy bút, phóng sự, du  kí, … Nghĩa gốc của kí là ghi chép. Kí miêu tả, phản ánh hiện thực khách quan theo quan   điểm tôn trọng sư thật đời sống, không hư cấu theo kiểu của truyện, thơ, kịch. Với thể kí,   nhà văn phải đảm bảo tính xác thực của hiện thực được phản ánh, tức là con người, sự  vật, sự  việc được phản ánh phải có thật, địa chỉ  rõ ràng. Vì vậy, đọc hiểu kí, trước hết   phải xác định được sự  vật, sự  việc, con người mà nhà văn phản ánh trong tác phẩm.  Người đọc thường căn cớ  vào nhan đề, các từ  định danh, gọi tên sự  vật hiện tượng hoặc  con người lặp đi lặp lại trong văn bản. Mặc dù không chủ trương hư cấu, song kí cũng không bê nguyên hiện thực. Nhà văn   vẫn dùng trí tưởng tượng, liên tưởng và các thủ  pháp nghệ  thuật để  các hình tượng đời   sống hiện lên chân thực và sống động nhất, vừa như sinh thể ngoài đời lại vừa như những   17
  18. tính cách văn học giàu chất nghệ thuật. Vì vậy, khi đọc hiểu văn bản kí cần đặc biệt chú ý  các thủ pháp nghệ thuật mà nhà văn sử dụng để thấy sự độc đáo đặc sắc của bút pháp kí,  thấy được cái nhìn chủ quan độc đáo của tác giả kí hay chính là cái tôi của người viết. Từ  đó hình thành và phát triển kĩ năng đọc hiểu văn bản kí theo đặc trưng thể loại. Đọc hiểu kí cũng như đọc hiểu các văn bản văn học khác, cần thấy được quan niệm  nhân sinh, cách nhìn đời, nhìn người của tác giả, thấy được cảm xúc của nhà văn trước   thời cuộc với những cung bậc cảm xúc phong phú, sâu sa. Đây cũng là yêu cầu chung của   hoạt động đọc hiểu văn bản văn học, người đọc phải “đọc” được những hàm ý sâu sa bên  trong vỏ ngôn từ. Vì kí gắn bó với hiện thực nên đọc kí phải có vốn sống, kinh nghiệm dồi dào, một   mặt để  hiểu hình tượng mặt khác còn có khả  năng liên hệ, so sánh, vận dụng vào thực   tiễn, thấy được giá trị của văn bản kí trong đời sống nhân sinh. Từ đó, có thể khái quát các hoạt động đọc hiểu văn bản kí như sau: ­ Hoạt động 1: Tạo tâm thế đọc hiểu văn bản kí. ­ Hoạt động 2: Tìm hiểu tri thức đọc hiểu (tri thức về tác giả, tác phẩm, thể  loại kí  và tri thức riêng về văn bản kí được tìm hiểu) ­ Hoạt động 3: Đọc hiểu văn bản kí. Gồm có các hoạt động + Đọc văn bản. + Xác định đối tượng của hiện thực khách quan mà nhà văn phục dựng, miêu tả,   khắc họa trong văn bản. + Tái hiện, phân tích các hình tượng văn học (thiên nhiên hoặc con người), các thủ  pháp nghệ thuật, … để tìm hiểu ý nghĩa của văn bản và đặc sắc trong nghệ thuật phản ánh   của nhà văn. ­ Hoạt động 4: Củng cố và vận dụng kết quả của hoạt động đọc hiểu. 3. Ý tưởng tổ chức hoạt động dạy đọc – hiểu một số văn bản văn học theo thể  loại. TÊN  THỂ  Ý TƯỞNG TỔ CHỨC MỤC TIÊU CẦN ĐẠT BÀI LOẠI HOẠT ĐỘNG ĐỌC – HIỂU Vợ  Truyện A. Khởi động. ̉ ược những nét cơ  bản  +Hiêu đ chồng A  Cho   học   sinh   xem   video   một  về   tác   giả   Tô   Hoài   và   tác  Phủ   ­  đoạn phim “Chị Dậu”. phầm “Vợ chồng A Phủ’’. 18
  19. Tô Hoài  GV đặt vấn đề: + Hiêu đ ̉ ược vẻ đẹp, nỗi khổ    Cuộc   sống   và   số   phận   của  của nhân vật Mị, cảm nhận  người lao động nghèo ở miền núi  được sức sống tiềm tàng của  Tây Bắc trước CM và con đường  nhân vật Mị . đến với cách mạng. + Hiêu đ ̉ ược tính cách, số phận  B. Hình thành KT mới. của nhân vật A Phủ. HĐ 1: Tìm hiểu tác giả, tác phẩm  + Hủ  tục lạc hậu trong phong  bằng   hình   thức   lập   trang  tục   tập   quán   của   người   dân  Facebook của nhà văn Tô Hoài. miền   núi   Tây   Bắc   trước   cách  HĐ 2: Tìm hiểu nhân vật Mị qua   mạng. hình thức hoạt động nhóm và các  + Tổng kết giá trị  nội dung và  phiếu học tập, xây dựng sơ đồ tư  nghệ thuật của tác phẩm. duy. + HS biêt s ́ ử  dụng những kiến  HĐ 3: Tìm hiểu nhân vật A Phủ  thức,   kĩ   năng   đã   học   để   giải  qua hình thức đóng vai và kĩ thuật  quyết   các   vấn   đề,   các   tình  động não. huống diễn ra trong cuộc sống. + HS biêt nghiên c ́ ứu, sáng tạo,  HĐ 4: Tìm hiểu giá trị  nội dung  tìm ra cái mới theo sự hiểu biết  và nghệ  thuật của tác phẩm qua  của   mình,   tìm   phương   pháp  kĩ thuật tia chớp, kĩ thuật động  giải   quyết   vấn   đề   và   đưa   ra  não kết hợp hoạt động nhóm và  những   phương   án   giải   quyết  hoạt động cá nhân. khác nhau góp phần hình thành  C. Luyện tập. năng lực học tập, năng lực giao  Hướng   dẫn   HS   trả   lời   câu   hỏi  tiếp… dạng   Đúng   –   Sai,   nối   cột   để  ­ Lam quen v ̀ ơi cac hoat  ́ ́ ̣ đông ̣   khắc sâu bài học. traỉ  nghiêm ̣  sang tao trong  ́ ̣ đoc̣   D. Vận dụng. ̉ hiêu văn ban. ̉ Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ  ̣ ̉ ­ Biêt cach đoc hiêu truyên ngăn ́ ́ ̣ ́  về sự thức tỉnh của Mị trong đêm  hiện đại theo đăc tr ̣ ưng thê loai. ̉ ̣ tình mùa xuân. ̣ ̣ ­ Vân dung kiên th ́ ưc đa hoc đê ́ ̃ ̣ ̉  E. Sáng tạo – Mở rộng. giaỉ   quyêt́   vân ́   đề  đăṭ   ra   trong  HS đóng kịch trích tự chọn.  thực tiên. ̃ ­Biết trân trọng con người, luôn  có   khát   vọng   chính   đáng,   biết  đấu   tranh   cho   quyền   sống,  quyền hạnh phúc, tự  do chính  đáng cho chính mình Chiều  Thơ A. Khởi động. ­ Giúp HS cảm nhận được lòng  tối – Hồ  Trò   chơi   Lật   miếng   ghép   đoán  nhân ái đến mức quên mình và  Chí  tranh. Giới thiệu bài thơ. tinh thần lạc quan  cách mạng  Minh B. Hình thành KT mới. luôn   luôn   hướng   về   sự   sống  HĐ 1: Tìm hiểu tác giả, tác phẩm  ánh sáng tương lai của Bác. Sự  bằng trò chơi giải ô chữ. kết hợp giữa chiến sĩ và thi sĩ.  HĐ 2: Tìm hiểu nội dung của bài  Bài thơ  là  sự  kết hợp hài hòa  thơ  bằng kĩ thuật mảnh ghép và  giữa màu sắc cổ  điển và hiện  phòng tranh.  đại, giữa chất thép và chất tình. HĐ   3:   Tìm   hiểu   giá   trị   nghệ  ­  Rèn   kĩ   năng   đọc   ­   hiểu   văn  thuật của bài thơ  bằng hình thức  bản thơ trữ tình. cặp đôi và kĩ thuật động não. ­   Giúp   các   em   rèn   thành   thạo  khả  năng tư  duy, nhận nhiệm  19
  20. C. Luyện tập. vụ, thu thập thông tin, phân tích  Xây dựng bản đồ  tư  duy cho bài  kênh hình, xử  lí thông tin, liên  thơ. hệ   thực   tế.   Xử   lí   tình   huống  D. Vận dụng. trong tác phẩm gắn với thực tế  Viết đoạn văn cảm nhận chữ  “  ­  Sống có lí tưởng hoài  hồng” ở cuối bài thơ. bão, bồi dưỡng lòng yêu nước,  E. Sáng tạo – Mở rộng. có trách nhiệm trong sự nghiệp  Làm  video  ngắn (3  đến 5  phút)  xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…  về Hồ Chí Minh. Hồn  Kịch A. Khởi động. ­HS nắm được tac gia va hoan ́ ̉ ̀ ̀  Trương  Trình chiếu hình  ảnh và đặt câu  ̉ canh ra đ ơi cua cac tac phâm. ̀ ̉ ́ ́ ̉ Ba,   da  hỏi gợi mở cho học sinh chia sẻ:   Thấy   được  giá  trị   nôị   dung,  hàng  “  Điều gì sẽ  xảy ra khi bạn trở   nghệ   thuâṭ  và   giá   trị   tư   tưởng  thịt   –  thành một người khác?”.  Từ  đó  cua v̉ ở kịch. giới thiệu Lưu Quang Vũ và vở  ­ Rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản  Lưu  kịch  “Hồn Trương Ba, da hàng   kịch.  Có ý thức tìm tòi về  thể  Quang  thịt”. loại,   từ   ngữ,   hình   ảnh   trong  Vũ. kịch  hiện  đại  của  Lưu  Quang  B. Hình thành KT mới. HĐ 1: Tìm hiểu tác giả, tác phẩm  Vũ. qua hình thức thuyết trình. ­  Nhận thức được ý nghĩa của  HĐ   2:   Tìm   hiểu   nhân   vật   hồn  kịch   hiện đại Việt Nam trong  Trương   Ba   bằng   kĩ   thuật   công  lịch   sử   văn   học   dân   tộc.  Biết  đoạn   kết   hợp   hình   thức   hoạt  trân quý những giá trị  sống mà  động nhóm. vở  kịch đem lại, xây dựng lối  HĐ   3:   Tìm   hiểu   đoạn   kết   qua  sống tích cực, sáng đẹp cả  thể  hình thức hoạt động cá nhân và kĩ  chất   lẫn   tinh   thần   –   Sống   là  thuật động não. chính mình. HĐ 4: Tìm hiểu giá trị  nội dung,  nghệ  thuật qua hoạt động nhóm  và kĩ thuật khăn trải bàn. C. Luyện tập. Lập   bảng   so   sánh   3   cuộc   đối  thoại   của   hồn   Trương   Ba   với  Xác hàng thị, người thân và tiên  Đế Thích. Từ đó thấy được bước  tiến   trong   nhận   thức   của   nhân  vật   trong   việc   lựa   chọn   cách  sống.  D. Vận dụng.  Viết đoạn văn cảm nhận câu nói  của Trương Ba: “Không thể  bên   trong   một   đằng,   bên   ngoài   một   nẻo. Tôi muốn được là tôi toàn   vẹn” E. Sáng tạo – Mở rộng. HS diễn một cảnh tự  chọn trong   trích  đoạn “Hồn Trương Ba, da  hàng thịt”. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2