intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi qua một số di tích lịch sử địa phương

Chia sẻ: Trần Văn An | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:35

98
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài: Giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi thông qua một số nội dung trong chương tình lịch sử địa phương tỉnh Đăk Lăk. Giúp học sinh biết được ông cha ta đã bị kẻ thù đàn áp, chèn ép, áp bức và tinh thần chiến đấu anh dũng của thế hệ cha ông, từ đó giáo dục các em lòng căm thù đối với giặc ngoại xâm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi qua một số di tích lịch sử địa phương

UBND HUYỆN KRÔNG ANA<br /> PHÒNG GIÁO GD­ĐT KRÔNG ANA<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM<br /> ĐỀ TÀI:<br /> GIÁO DỤC TINH THẦN YÊU NƯỚC CHO HỌC SINH TRƯỜNG <br /> THCS NGUYỄN TRÃI QUA DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Lĩnh vực: Môn Lịch sử<br /> Họ và tên: Nguyễn Thị Tài<br /> Đơn vị công tác: Trường THCS Nguyễn Trãi<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 1<br /> I.PHẦN MỞ ĐẦU<br /> 1. Lý do chọn đề tài<br />       Trong thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nước ta đang phấn  <br /> đấu tiến lên bắt kịp bạn bè khắp năm châu để  khẳng định vị  trí Việt Nam trên <br /> trường quốc tế. Đảng và nhà nước ta một mặt vừa xây dựng phát triển kinh tế,  <br /> nâng cao mức sống người dân, xây dựng nền quốc phòng an ninh bảo vệ vững  <br /> chắc tổ quốc  Việt Nam xã hội chủ  nghĩa, mặt khác Đảng và nhà nước ta luôn <br /> xem giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng, là bệ phóng để đưa <br /> dân tộc ta bước vào kỉ  nguyên mới, kỉ nguyên của văn minh truyền thông và tin  <br /> học. Đây là phương hướng quan trọng trong việc đào tạo thế hệ  trẻ, kế tục và  <br /> phát triển sự  nghiệp cách mạng để  đưa đất nước đi lên theo con đường xã hội <br /> chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã lựa chọn.<br />        Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, nền kinh tế tri thức <br /> có tính toàn cầu thì nhiệm vụ  của ngành giáo dục vô cùng to lớn. Giáo dục <br /> không chỉ  truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải giúp học sinh vận <br /> dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống vừa mang tính giáo dục, vừa mang tính <br /> giáo dưỡng, cao hơn là giáo dưỡng hướng đến nguồn gốc cội nguồn của tổ tiên, <br /> của dân tộc.<br />        Trong giáo dục phổ thông, các môn xã hội nói chung, môn lịch sử  nói riêng <br /> có vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn, bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách, bản <br /> lĩnh và tư duy của con người. Bác Hồ  kính yêu từng dạy “Dân ta phải biết sử  <br /> ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”, do vậy dạy lịch sử  không chỉ <br /> giúp học sinh nắm được lịch sử  hình thành của một quốc gia, dân tộc mà còn <br /> hình thành  ở  các em lòng tự  hào để  từ  đó các em thêm tình yêu đối với quê  <br /> hương, đất nước mình hơn. Có thể  nói, lịch sử  dân tộc hay lịch sử  địa phương <br /> đều là dựng lại quá khứ về lòng yêu nước, về truyền thống đấu tranh bất khuất  <br /> của dân tộc ta trong dựng nước và giữ  nước, ghi lại những nét văn hóa truyền <br /> thống, tinh thần nhân đạo sâu sắc của dân tộc Việt Nam trong quá trình hình <br /> thành và phát triển. Do đó, giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua môn học <br /> lịch sử sẽ rất đa dạng và phong phú. Bởi qua mỗi bài học, mỗi sự  kiện lịch sử,  <br /> học sinh sẽ có thêm niềm tin vững chắc vào lý tưởng cách mạng. Từ những giá <br /> trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước, các  <br /> em sẽ tự hào và ý thức hơn về tình yêu quê hương, đất nước. Qua đó, các em ra <br /> sức học tập, rèn luyện để trở thành những con người có ích góp phần xây dựng <br /> quê hương, đất nước trong thời kì mới.<br />         Môn lịch sử từ lâu chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong chương trình <br /> giáo dục phổ thông với nội dung vô cùng phong phú và có tác dụng to lớn trong <br /> việc góp phần phát triển hoàn thiện nhân cách của học sinh, bởi nó chính là bức <br /> tranh tái hiện sinh động về cuộc sống lao động, sản xuất, chiến đấu của xã hội  <br /> loài người trong quá khứ. Đối tượng của lịch sử  là quá khứ  đã diễn ra, không <br /> thể  tái hiện, không thể  trực quan sinh động, cũng không thể  trực tiếp quan sát  <br /> được. Lịch sử được phản ánh qua các nguồn sử liệu. Thông qua bộ môn lịch sử <br /> không chỉ cho học sinh thấy được quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 2<br /> mà còn giáo dục cho các em lòng yêu nước, biết  ơn các tiền nhân, biết  ơn các <br /> anh hùng đã hy sinh quên mình cho Tổ  Quốc, giáo dục hoài bão và ý chí xây  <br /> dựng đất nước cho thế  hệ  trẻ. Tuy nhiên trong thời kì hiện nay thì quá trình <br /> xuống cấp về đạo đức của học sinh ngày càng trầm trọng, trong đó có một phần <br /> sự bao dung vô lối của các bậc phụ huynh, sự thờ ơ của gia đình đối với con em  <br /> mình, sự lệch lạc về tư tưởng ngày càng nhiều trong thời đại công nghệ  thông  <br /> tin, những tệ nạn xã hội thâm nhập sâu vào lứa tuổi học đường, sự suy thoái về <br /> đạo đức  ở  lứa tuổi học sinh ngày càng trầm trọng. Đó là hồi chuông báo động  <br /> quá trình tha hóa về đạo đức, nhân cách, sự hủy hoại các giá trị truyền thống tốt <br /> đẹp mà cha ông ta đã gây dựng bao đời nay. Xuất phát từ thực tế đó, nhằm góp <br /> phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử nói chung và bộ  môn lịch sử <br /> địa phương nói riêng, giáo dục cho học sinh lòng biết  ơn đối với những người  <br /> đã hy sinh quên mình cho đất nước,. Bản thân tôi đã chọn đề tài“Giáo dục tinh  <br /> thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi  qua một số  di tích  <br /> lịch sử địa phương”trong chương trình lịch sử  địa phương nhằm giúp cho học <br /> sinh hiểu sâu sắc hơn về  quá trình đấu tranh của thế  hệ  ông cha ta, đồng thời  <br /> giúp học sinh hướng đến sự  biết  ơn vô hạn đối với những người anh hùng đã <br /> ngã xuống vì sự bình yên của đất nước.<br /> 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.<br /> ­ Giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi thông <br /> qua một số nội dung trong chương tình lịch sử địa phương tỉnh Đăk Lăk.<br /> ­ Giúp học sinh biết được ông cha ta đã bị kẻ thù đàn áp, chèn ép, áp bức và tinh  <br /> thần chiến đấu anh dũng của thế  hệ  cha ông, từ  đó giáo dục các em lòng căm <br /> thù đối với giặc ngoại xâm.<br /> ­ Thể  hiện lòng biết  ơn với những người có công với dân tộc, với đất nước  <br /> bằng những việc làm và hành động cụ  thể  tại địa phương. Đồng thời xác định <br /> rõ vai trò trách nhiệm của mình với đất nước quê hương.<br /> ­ Góp phần thực hiện việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập đối với  <br /> bộ  môn lịch sử  nói chung và lịch sử  địa phương nói riêng tại trường THCS <br /> Nguyễn Trãi.<br /> 3. Đối tượng nghiên cứu.<br /> ­ Giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi qua quá <br /> trình trải nghiệm, tham quan một số di tích lịch sử  tại Nhà đày Buôn Ma Thuột <br /> và Bảo tàng Đăk Lăk.<br /> 4. Giới hạn của đề tài<br /> ­ Để thực hiện được đề tài này, bản thân tôi đã nghiên cứu một số nội dung bài <br /> học trong chương trình Lịch sử  địa phương khối 6,7,8,9.<br /> ­ Đối tượng là học sinh khối 6,7,8,9 trường THCS Nguyễn Trãi<br /> ­ Thời gian nghiên cứu: Năm học  2015­2016, 2016­2017.<br /> 5. Phương pháp nghiên cứu<br /> a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận<br /> <br /> <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 3<br /> ­ Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu (đọc tài liệu, sách giáo khoa phân tích <br /> nội dung từng phần, từng bài để  phát hiện ở  nội dung nào có thể  giáo dục cho  <br /> học sinh) <br /> ­ Nghiên cứu lịch sử địa phương, lịch sử Đảng bộ của Đăk Lăk<br /> b. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn<br /> ­ Phương pháp quan sát, trải nghiệm thực tế  tại nhà đày Buôn Ma Thuột, bảo <br /> tàng Đăk Lăk<br /> c. Phương pháp thống kê toán học<br /> II. PHẦN NỘI DUNG<br /> 1. Cơ sở lý luận.<br />       Bác Hồ chúng ta đã từng nói: “Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích  <br /> nước nhà Việt Nam” Đó là lời căn dặn và cũng là tâm huyết của Bác luôn mong <br /> muốn thế hệ trẻ không chỉ hiểu Lịch sử mà còn phải “ tường” hiểu sâu sắc Lịch <br /> sử  truyền thống của ông cha ta. Tuy nhiên việc dạy và học bộ  môn Lịch sử   ở <br />  trường phổ thông  của nước ta hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của người <br /> học, cũng như chưa làm tròn trách nhiệm của một bộ môn tưởng chừng như đơn <br /> giản nhưng rất quan trọng đối với học sinh. Trong quá trình giảng dạy giáo viên <br /> chưa mạnh dạn trong việc đổi mới phương pháp dạy học chính vì vậy mà giờ <br /> học luôn cứng nhắc, khô khan. Giáo viên luôn có tâm lí làm sao cho hết được nội <br /> dung bài học, chưa hướng học sinh đến việc chủ động học tập mà học sinh tiếp  <br /> thu kiến thức một cách thụ động. Giáo viên cũng không dám mạnh dạn đổi mới <br /> phương pháp trong dạy học Lịch sử. Chính vì vậy mà trong những năm gần đây  <br /> chất lượng bộ môn Lịch sử  rất thấp, học sinh thậm chí thờ  ơ  với lịch sử  nước <br /> nhà. Đặc biệt trong chương trình lịch sử  địa phương thì hầu như  chúng ta còn  <br /> xem nhẹ, chưa tổ  chức học tập một cách chu đáo như  chương trình học thông  <br /> thường, do vậy kiến thức về  lịch sử  địa phương của đa số  học sinh cũng như <br /> một bộ phận nhỏ giáo viên còn mơ hồ, mong manh. Thông qua chương trình lịch  <br /> sử địa phương cho học sinh thấy được vai trò cũng như tinh thần đấu tranh của <br /> đồng bào địa phương trong quá trình đấu tranh, xây dựng và bảo vệ  quê hương <br /> đất nước, giáo dục đến học sinh lòng tự  hào dân tộc về  mảnh đất quê hương  <br /> nơi mình sinh ra và lớn lên, ý thức được tinh thần trách nhiệm của mình trong <br /> việc bảo vệ quê hương trong giai đoạn hiện nay.<br /> Vì thế  ngoài việc tổ chức dạy kiến thức cho học sinh trên lớp thì cho học sinh  <br /> tham quan, thực địa nơi những di tích lịch sử  địa phương là phương pháp dạy  <br /> học đem lại hiệu quả nhất bởi tại nơi đây học sinh được nhìn thấy những hiện <br /> vật lịch sử, những dấu tích lịch sử  còn lưu lại, học sinh  được trải nghiệm  <br /> những điều mình đã học và  các em có thể cảm nhận về lịch sử đã diễn ra như <br /> thế nào trong quá khứ. Học sinh thấy được trong thời chiến thế hệ cha ông ta đã <br /> trải qua muôn vàng khó khăn gian khổ, đấu tranh kiên trì bền bỉ, hy sinh xương  <br /> máu của mình để đổi lấy sự bình yên mà chúng ta có được như hôm nay.<br />        Lịch sử địa phương là một bộ phận hợp thành và làm phong phú lịch sử dân <br /> tộc, việc nghiên cứu tìm hiểu lịch sử địa phương sẽ  góp phần tích cực bổ  sung  <br /> <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 4<br /> sử  liệu cho việc dạy học lịch sử dân tộc, làm phong phú lịch sử  đất nước, làm  <br /> nổi rõ mối quan hệ hữu cơ giữa các địa phương. Lịch sử  địa phương là một bộ <br /> phận của chương trình dạy học lịch sử ở trường THCS. Đây là một trong những  <br /> nguồn quan trọng làm phong phú tri thức của học sinh về quê hương mình.<br />          Giảng dạy lịch sử  địa phương có tác dụng to lớn trong việc giáo dục tư <br /> tưởng đạo đức tình cảm và ý thức lao dộng của học sinh, góp phần hình thành  <br /> lòng yêu nước, bởi lẽ nguồn gốc yêu nước bắt đầu từ  lòng yêu quê hương của  <br /> tuổi ấu thơ. Học sinh tự hào về đất nước, dân tộc Việt Nam cũng bắt nguồn từ <br /> lòng tự hào về những chiến công của cha ông mình đã làm nên ở ngay trong làng <br /> xóm thân yêu. Hơn nữa việc dạy học lịch sử  địa phương trong giảng bộ  môn <br /> lịch sử sẽ góp phần rèn luyện kỹ năng sưu tầm tư liệu, đam mê nghiên cứu tìm <br /> tòi về tư liệu lịch sử địa phương.<br /> 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu<br /> * Thực trạng học tập bộ môn Lịch sử hiện nay ở trường phổ thông: <br />          Bộ  môn Lịch sử   ở  trường phổ  thông với nhiệm vụ  cung cấp khối lượng  <br /> kiến thức tương đối phong phú về lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc cần đặt ra <br /> yêu cầu cao mới thực hiện được nhiệm vụ  đó, mặt khác do đặc trưng của bộ <br /> môn lịch sử  nó gây ra nhiều khó khăn cho quá trình nhận thức của các em học  <br /> sinh. Vì đối tượng lịch sử  là quá khứ  đã diễn ra, không thể  tái hiện, không thể <br /> “trực quan sinh động”, cũng không thể  trực tiếp quan sát được. Lịch sử  được  <br /> phản ánh qua các nguồn sử liệu, vấn đề đặt ra là làm sao để  các em nhận thức  <br /> được lịch sử  một cách chính xác, chân thực như  nó đã tồn tại. Chất lượng dạy <br /> học môn lịch sử  hiện nay đặt ra vấn đề  cần suy nghĩ, số  lượng học sinh yêu  <br /> thích môn lịch sử rất ít, nhiều phụ huynh, học sinh coi lịch sử là môn học “phụ”, <br /> nhận thức của các em về  môn lịch sử  sai lệch, các em không nhớ  hoặc nhớ <br /> không chính xác thời gian, địa điểm, tính chất của các sự kiện và hiện tượng lịch <br /> sử.<br />          Trong những năm gần đây, chất lượng bộ  môn lịch sử  rất thấp. Theo tôi <br /> nguyên nhân của những tình trạng trên có thể được xác định là do: <br /> + Một là: Trình độ giáo viên chưa đều và thật sự không phải giáo viên nào cũng <br /> tâm huyết với nghề nghiệp. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giảng <br /> dạy và chất lượng giáo dục nói chung và bộ môn lịch sử nói riêng.<br /> + Hai là Giáo viên chưa mạnh dạn trong quá trình đổi mới phương phương pháp <br /> dạy học.<br /> + Ba là: Trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy bộ môn ở  nhà trường còn thiếu,  <br /> không đủ lược đồ, bản đồ để phục vụ cho tiết học, bài học.<br /> + Bốn là: Giáo viên chưa bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng bộ  môn do Bộ  Giáo <br /> dục ban hành dẫn đến sai lệch về kiến thức.<br /> + Kiến thức lịch sử địa phương chưa được đưa vào sách giáo khoa, tài liệu biên <br /> soạn viết rất khó dạy, nội dung còn sơ  sài và nói chung chung, nội dung chưa  <br /> phong phú, chưa có sự  bổ  sung, điều chỉnh cập nhật điều này cũng khiến cho <br /> giáo viên và học sinh ít có sự hiểu biết về địa phương nơi mình sinh sống.<br /> <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 5<br />        Đối với học sinh ý thức học tập môn sử chưa cao, đa phần các em chưa xác  <br /> định rõ ràng mục tiêu học tập, chưa thực sự  cố  gắng trong học tập và làm bài  <br /> tập, đang còn đối phó, chưa dám mạnh dạn khi giáo viên yêu cầu trả lời câu hỏi, <br /> chỉ lược đồ, bản đồ. Đặc biệt quan niệm ăn sâu trong tiềm thức của phụ huynh  <br /> và học sinh môn sử  chỉ là môn học phụ, không quan trọng nên có thái độ  thờ  ơ <br /> với lịch sử dẫn đến một thực tế đau lòng là học sinh không   hiểu gì về lịch sử <br /> Việt Nam, hàng ngàn bài thi lịch sử của học sinh những năm vừa qua bị điểm 0.  <br /> Qua tìm hiểu của bản thân tôi và đồng nghiệp trên địa bàn huyện tôi nhận thấy  <br /> một số nguyên nhân chủ yếu sau: <br /> ­ Môn sử có đặc thù riêng, nhiều sự kiện, khó nhớ.<br /> ­ Học sinh luôn quan niệm là môn phụ, không có sự  hướng nghiệp rõ ràng khi <br /> lựa chọn ôn thi.<br /> ­ Phụ huynh thờ ơ và hướng con em mình học các môn tự nhiên.<br /> ­ Giáo viên chưa có phương pháp phù hợp nên không thu hút được các em trong <br /> giờ học.<br />          Việc vận dụng đề  tài này vào việc giảng dạy lịch sử  tại trường THCS  <br /> Nguyễn Trãi  bản  thân tôi đã có những thành công nhất định, học sinh giờ  đây  <br /> đã  ý thức được truyền thống yêu nước, kiên quyết đấu tranh chống giặc ngoại  <br /> xâm là truyền thống lâu đời cần phải gìn giữ  phát huy, chúng ta có được cuộc  <br /> sống bình yên  ấm no như  hôm nay là nhờ  sự  hy sinh cao cả, chiến đấu ngoan <br /> cường của thế hệ cha ông trong thời chiến, từ đó giáo dục các em lòng biết ơn <br /> vô hạn đối với cha ông ta. Học sinh yêu thích hơn trong học tập bộ môn lịch sử, <br /> các em đã hình thành được kĩ năng mới trong học tập, có tư duy sáng tạo và cảm  <br /> nhận lịch sử một cách sâu sắc hơn, đặc biệt là chúng ta may mắn được sinh ra <br /> trên mảnh đất đầy thành quả  cách mạng như  nơi đây.Thông qua hoạt động dã <br /> ngoại, tham quan các khu di tích lịch sử  của dân tộc học sinh hình thành được <br /> nhiều kĩ năng như hoạt động tập thể, giúp các em thân thiện hơn, đoàn kết hơn  <br /> trong học tập, hạn chế vi phạm về đạo đức như gây gỗ, đánh nhau,.vv<br /> ­ Chất lượng học tập bộ môn nâng cao rõ rệt, học sinh hứng thú hơn trong học <br /> tập.<br /> Tuy nhiên bên cạnh những  ưu điểm thì đề  tài trên còn có những hạn chế  nhất  <br /> định,hiện nay đại đa số các em học sinh cho rằng bộ môn lịch sử chỉ là một môn <br /> học phụ, các em chỉ  cần học tốt những môn như  Toán,Văn, Tiếng Anh hay Lí,  <br /> Hóa là được, còn những môn học như Địa lí, Lịch sử  hay Giáo dục công dân là <br /> môn học phụ  nên không cần học nhiều, không cần tìm tòi học hỏi thậm chí  <br /> không thèm đọc sách nữa. Vì vậy các em còn xem nhẹ đối với việc học bộ môn <br /> này. Do đó kết quả  học tập cũng như  sự  hiểu biết của các em về  lịch sử  chưa <br /> cao.Và thực tế  hiện nay chúng ta cũng đã thấy rõ trong kì thi Tốt nghiệp trung <br /> học phổ thông quốc gia trong những năm vừa qua có rất ít thí sinh thi môn Lịch <br /> sử, thậm chí cả trường gần 1000 học sinh mà chỉ duy nhất có 3 học sinh thi môn  <br /> sử  và một hội đồng thi 26 người giám thị phục vụ cho một thí sinh…vv<br /> ­ Nhận thức về lịch sử  của đại đa số  học sinh còn mơ  hồ, chưa có sự  đam mê <br /> mà chủ yếu học để đối phó.<br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 6<br /> ­ Một số giáo viên còn bị động lúng túng, chưa đầu tư đối với bộ môn lịch sử địa <br /> phương .<br /> ­ Trong những năm vừa qua nhà trường chỉ lựa chọn một số đối tượng học sinh  <br /> khá giỏi để tham quan thực địa chứ  không thể tổ  chức đại trà. Do đó việc đem  <br /> lại hiệu quả chưa tuyệt đối.<br /> ­ Nguồn kinh phí tổ chức dã ngoại còn hạn hẹp, do đó cũng gặp nhiều khó khăn <br /> trong việc cho học sinh tiếp cận cũng như  tham quan các di tích lịch sử  địa <br /> phương.<br /> 3. Nội dung và hình thức của giải pháp<br /> a. Mục tiêu của giải pháp<br /> *Tầm quan trọng của các di tích lịch sử  đối với quá trình nhận thức của  <br /> học sinh.<br />        Di tích lịch sử cách mạng là một trong những bộ   phận quan trọng nhất của <br /> nguồn sử  liệu vật chất, là chứng tích gốc, các di tích cách mạng nói lên một  <br /> cách sâu sắc trình độ  phát triển kinh tế, chính trị  và trình độ  kĩ thuật của từng <br /> thời đại, từng dân tộc. Di tích lịch sử  là phương tiện quan trọng góp phần tạo  <br /> biểu tượng cho học sinh, di tích được xem là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. <br /> Di tích lịch sử cách mạng là cơ sở để học sinh khôi phục quá khứ, làm cơ sở cho  <br /> việc hình thành những biểu tượng cụ thể, chính xác về các sự kiện lịch sử.<br /> *Tầm quan trọng của các di tích lịch sử đối với việc giáo dục truyền thống  <br /> đạo đức cho học sinh <br /> +Về  giáo dưỡng:  Di tích lịch sử  giáo dục cho học sinh lòng kính yêu, khâm <br /> phục các anh hùng chiến sĩ yêu nước. Di tích lịch sử  địa phương cũng như  cả <br /> nước phản ánh các sự  kiện lịch sử làm cho học sinh tự  hào, yêu quý về  truyền <br /> thống anh hùng trong cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương đất nước. Học sinh sẽ <br /> có những nhận xét của mình về  quá trình đấu tranh kiên cường, bất khuất của  <br /> ông cha ta trong thời chiến. Từ  đó sẽ  nhận thức được chúng ta có được cuộc  <br /> sống bình yên và hạnh phúc như  hôm nay là nhờ  có tinh thần yêu nước chiến  <br /> đấu chống kẻ  thù xâm lược của thế  hệ  cha ông. Tóm lại việc sử  dụng các di <br /> tích lịch sử địa phương cũng như cả nước  trong quá trình dạy học lịch sử là phát <br /> huy ưu thế, sở trường của bộ môn lịch sử, góp phần giáo dục thế hệ trẻ truyền <br /> thống đạo đức, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của địa phương nói riêng và  <br /> của cả dân tộc nói chung.<br /> *Về giáo dục:<br /> ­ Giáo dục cho các em lòng căm thù đối với bọn đế quốc xâm lược, yêu nền độc  <br /> lập, yêu quê hương đất nước.<br /> ­ Giáo dục lòng biết ơn, khâm phục đối với cha ông ta trong cuộc kháng chiến, <br /> họ đã không quản ngại hy sinh, đấu tranh kiên cường gian khổ để giành độc lập.<br /> ­ Giáo dục cho các em lòng tự  hào, tự  tôn dân tộc, cố  gắng vươn lên trong học <br /> tập để xây dựng quê hương đất nước, tiếp bước truyền thống cha ông ghi thêm <br /> những trang sử vẻ vang trong thời kì mới.<br /> * Về phát triển:<br /> <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 7<br /> ­ Bồi dưỡng cho các em năng lực nhận thức phục vụ  cho việc học tốt các bộ <br /> môn nói chung và lịch sử nói riêng như tư duy, phân tích, so sánh, nhận định các <br /> sự kiện lịch sử.<br /> ­ Phát triển kĩ năng thực hành như đọc bản đồ, vẽ  sơ đồ, sư  tầm tài liệu, tranh <br /> ảnh, phân tích, đánh giá các sự kiện lịch sử.<br /> b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp<br /> ­ Tổ chức cho học sinh tham quan thực địa  tại nhà đày Buôn Ma Thuột và Bảo  <br /> tàng Đăk Lăk thông qua chương trình lịch sử điạ phương.<br /> ­ Những giải pháp nói trên của đề  tài nhằm giúp học sinh thoát ra khỏi phương  <br /> pháp học tập theo lối truyền thống và phát huy phương pháp học tập mới đó là  <br /> tư duy, sáng tạo, biết phân tích, nhận định, đánh giá vấn đề, liên hệ những vấn  <br /> đề đã học vào thực tế một cách sinh động. Đặc biệt là tạo cho các em học sinh  <br /> một tâm lí thoải mái, hứng thú và thích học tập đối với bộ  môn Lịch sử. Đặc  <br /> biệt là chương trình lịch sử địa phương giúp các em hiểu được những hy sinh to <br /> lớn của ông cha ta,những khó khăn gian khổ  mà cha ông ta đã phải chịu đựng,  <br /> tinh thần thép và ý chí đấu tranh ngoan cường để  dành độc lập trong cuộc đấu <br /> tranh chống giặc ngoại xâm. <br /> ­ Giúp học sinh thay đổi hình thức, phương pháp học tập trước đây, làm cho giờ <br /> học bớt căng thẳng, không còn nặng nề, tạo cảm giác thoải mái, dễ  chịu, học  <br /> sinh lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng.<br /> ­ Tạo cho học sinh sự tìm tòi, sáng tạo, rèn luyện cho học sinh cơ hội rèn luyện  <br /> bản thân<br /> ­ Kích thích học sinh vận dụng kiến thức năng động, rèn luyện trí nhớ, phát  <br /> triển khả năng phán đoán, suy luận, từ đó phát triển tư duy độc lập, học cách xử <br /> lý thông minh và các tình huống phức tạp. Tăng cường khả năng vận dụng cuộc  <br /> sống để  thích nghi với  điều kiện xã hội mới. Ngoài ra còn giúp học sinh phát <br /> triển được nhiều phẩm chất đạo đức như tính nhanh nhẹn, tình đoàn kết thân ái, <br /> sự phối hợp nhịp nhàng, sự trung thực và tinh thần trách nhiệm lẫn nhau.<br /> ­ Giúp học sinh có năng lực cảm nhận lịch sử qua tranh ảnh, hiện vật lịch sử.<br /> ­ Giáo dục cho học sinh ý chí đấu tranh ngoan cường, tinh thần đấu tranh thép  <br /> của chiến sĩ cách mạng tại nhà đày Buôn Ma Thuột thông qua tranh  ảnh, hiện <br /> vật được lưu giữ tại nhà đày.<br /> ­ Giáo dục đến học sinh lòng biết  ơn đối với những anh hùng liệt sĩ, người có <br /> công với cách mạng, với dân tộc, đặc biệt là đồng bào dân tộc sinh sống tại địa <br /> phương.<br />       Trong những năm trước đây, vì nhiều lý do khác nhau mà nhà trường ít có <br /> điều kiện để tổ chức cho học sinh tham quan thực tế đối với các di tích lịch sử <br /> tại địa phương, vì vậy khi dạy chương trình lịch sử địa phương( phần nội dung <br /> về  nhà Đày Buôn Ma Thuột) thì giáo viên cũng chỉ  cho các em quan sát một số <br /> tranh ảnh , học sinh không thể quan sát được những hiện vật lịch sử vì vậy việc  <br /> hiểu biết của các em học sinh về  các di tích lịch sử  còn rất mơ  hồ, chưa thể <br /> cảm nhận cũng như  hình dung được do đó trong quá trình học lịch sử  các em  <br /> nhàm chán, không thích học hay là học đối phó…vv, vì vậy trong những năm  <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 8<br /> gần đây chúng tôi là những giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn lịch sử  đã đề <br /> nghị nhà trường tạo điều kiện tốt nhất để cho học sinh có điều kiện tham quan  <br /> những di tích lịch sử tại địa phương nhằm nâng cao chất lượng môn học. Được  <br /> nhà trường tạo điều kiện cho phép tổ chức tham quan thì tiếp tục phối hợp với  <br /> TPT Đội, Đoàn thanh niên, giáo viên chủ nhiệm, cha mẹ học sinh được lựa chọn <br /> đi tham quan.<br />        Trong năm học 2016­2017, 2017­2018 được sự  cho phép của BGH trường  <br /> THCS Nguyễn Trãi, chúng tôi đã tổ  chức cho các em học sinh tham quan di tích <br /> lịch sử tại nhà đày Buôn Ma Thuột và Bảo tàng   Đăk Lăk với số lượng học sinh  <br /> tham quan khá lớn, đây cũng là một điều đáng mừng đối với chúng tôi.<br /> * Học sinh tham quan thực địa tại Di tích lịch sử nhà Đày Buôn Ma Thuột<br /> Giáo dục đến học sinh tinh thần đấu tranh kiên cường, ý chí thép  của ông <br /> cha ta qua di tích lịch sử “ Nhà đày Buôn Ma Thuột”<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Học sinh trường THCS Nguyễn Trãi đến tham quan tại nhà đày Buôn Ma Thuột<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 9<br /> Hình ảnh nhà đày Buôn Ma Thuột<br />         Nhà đày Buôn Ma Thuột (nhà tù Buôn Ma Thuột) là nơi từng giam giữ, đày  <br /> ải tù nhân chính trị chủ yếu của các tỉnh Trung Kỳ. Nhà đày được nhiều người <br /> biết đến không những vì kết cấu kiến trúc hay vì đòn roi tra tấn tàn bạo của <br /> địch, mà còn ở phong trào đấu tranh kiên cường của các thế hệ tù nhân chính trị.  <br /> Từ năm 1980, Nhà đày Buôn Ma Thuột  đã được công nhận là di tích lịch sử cấp <br /> quốc gia, và trở thành điểm tham quan du lịch tại tỉnh Đăk Lăk.<br />         Nhà đày Buôn Ma Thuột vào khoảng năm 1900, một nhà lao đã được thực <br /> dân Pháp xây dựng lên  ở  Cao nguyên Đắk Lắk dùng để  giam giữ  tù nhân chính <br /> trị, bởi địa hình nơi đây lúc bấy giờ  bị  bao vây giữa bốn bề  núi rừng rậm rạp, <br /> nhiều thú dữ, khí hậu khắc nghiệt, ít người lui tới nên tù nhân khó bề trốn thoát.<br /> Đến những năm 1930­1931, số  lượng tù nhân tăng cao theo phong trào chống  <br /> thực dân tại Đông Dương, do đó Pháp thiết lập Nhà đày Buôn Ma Thuột trên cơ <br /> sở mở rộng nhà lao cũ, nhằm lưu đày biệt xứ và giam giữ những đảng viên cộng  <br /> sản bị  xử  án nặng  ở  các tỉnh Trung Kỳ, gồm nhiều người đi đầu trong phong  <br /> trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.<br />            Cuối năm 1941, một tổ  chức bí mật có tên “lực lượng trung kiên” được  <br /> thành lập trong nhà đày, lan tỏa tinh thần cách mạng. Năm 1954, chiến thắng <br /> Điện Biên Phủ đã kết thúc 9 năm kháng chiến chống Pháp. Đến lượt Mỹ  nhảy <br /> vào thế  chân Pháp âm mưu thôn tính nước ta, nhà đày Buôn Ma Thuột tiếp tục <br /> được sử  dụng và mở  rộng thêm. Thời Pháp, nhà đày Buôn Ma Thuột được xây <br /> dựng trên diện tích gần 2ha, với 4 bức tường bao quanh, cao 4m, dày 40cm, 4  <br /> góc đều có vọng gác và lính canh túc trực. Phía trong có 6 dãy lao tập thể giam <br /> giữ  tù nhân. Bên cạnh cổng chính  ở  phía Nam là dãy xà lim, giam giữ  tù nhân  <br /> chính trị được cho là nguy hiểm. Ngoài ra còn có nhà xưởng, bàn giấy, nhà kho  <br /> và bếp ăn, đây là kiểu bố  trí nhà tù truyền thống của thực dân Pháp, mục đích  <br /> tạo   không   gian   khép   kín   để   giám   sát   tù   nhân   .  <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 10<br />        Thời Mỹ, nhà đày Buôn Ma Thuột được xây thêm một bức tường ngăn đôi, <br /> một bên làm trung tâm cải huấn và một bên làm kho quân nhu, đồng thời mở hai <br /> cổng mới  ở phía Tây của nhà đày, xây thêm nhà Quốc thái dân an, nhà Nguyện, <br /> phòng biệt giam, nhà lao nữ…phục vụ  cho các mục đích giam giữ  và tra khảo.<br /> Trong thời gian hoạt động, Nhà đày Buôn Ma Thuột đã giam giữ nhiều chiến sỹ <br /> yêu nước, nhiều người về sau đảm nhận những vị trí quan trọng của chính phủ <br /> như  các đồng chí Võ Chí Công, Phan Đăng Lưu, Hồ  Tùng Mậu, Nguyễn Chí <br /> Thanh, Tố Hữu. Nhà đày còn là một trong những nơi  ươm mầm cho hạt giống  <br /> cách mạng ở Đắk Lắk. Vượt lên trên tất cả sự tàn bạo của địch là tinh thần đấu <br /> tranh bền bỉ, kiên trung của những người tù Cộng sản. Những năm tháng đấu <br /> tranh oanh liệt của họ  tại Nhà đày Buôn Ma Thuột đã viết thành một bản anh <br /> hùng ca về chủ nghĩa yêu nước, ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ nền  <br /> độc lập nước nhà thoát khỏi xiềng xích.<br />        Nhà đày Buôn Ma Thuột, đây là một trong những di tích lịch sử  quan trọng  <br /> nhất của tỉnh ĐăkLăk, nơi biểu trưng tội ác dã man của bọn thực dân đế  quốc  <br /> xâm lược, đồng thời cũng là nơi phản ánh ý chí kiên cường bất khuất của các <br /> chiến sĩ cách mạng không sợ  hy sinh gian khổ, trung thành với lí tưởng của <br /> Đảng, quyết đấu tranh giành độc lập tự do cho Tổ Quốc. <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình ảnh nhà đày nhìn từ trên cao và hình ảnh học sinh trường THCS Nguyễn  <br /> Trãi đang nghe hướng dẫn viên nhà đày thuyết trình(2016­2017)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 11<br />         Tại đây thực dân Pháp thi hành chính sách tra tấn hết sức tàn bạo, tất cả tù <br /> nhân đều bị  đóng dấu trên lưng, bị  đánh đập tàn nhẫn, lao động khổ  sai, hàng  <br /> ngày họ  phải đi lao dịch nặng nề  như  đi xây cây cầu Krông Ana, xây các đồn  <br /> bốt cho giặc, làm đường 14 đia Sài Gòn..vv. Bữa ăn hàng ngày chỉ  có cơm hẩm <br /> với muối, bất cứ lúc nào tù nhân cũng có thể bị  phạt vạ  vô căn cứ  hoặc bị  thủ <br /> tiêu giết chết.<br /> <br /> <br /> <br /> <br />                      <br />   Hình ảnh tù nhân bị bắt đi lao độngtrên công trường làm đường 14 đi Sài Gòn  <br /> và bị đánh đập dã man<br />          Cũng chính trong hoàn cảnh đó nổi bật hàng loạt tấm gương đấu tranh anh <br /> dũng của các chiến sĩ cách mạng như  Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Chí Thanh. <br /> <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 12<br /> Cũng tại đây năm 1940 một chi bộ Đảng cộng sản Đông Dương ra đời đã lãnh  <br /> đạo phong trào đấu tranh của tù nhân chống lại chính sách dã man của bọn thực <br /> dân đối với các chiến sĩ cách mạng, nhà đày cũng là nơi bồi dưỡng cơ  sở  cách <br /> mạng, truyền bá chủ nghĩa yêu nước của đồng bào Đăklăk. <br />           Nhà Đày Buôn MaMT được thực dân Pháp xây dựng xong vào năm 1930 <br /> ­1931 trong khi các nhà tù của nước ta đã chật ních, nhưng vẫn còn dư  ra hàng <br /> nghìn tù nhân. Chúng chọn Đăk Lăk làm nơi xây dựng nhà Đày nhằm làm lung <br /> lạc ý chí đấu tranh của nhân dân ta. Bởi lẽ Đăklăk là nơi có khí hậu khắc nghiệt,  <br /> dân cư  thưa thớt chủ yếu là người bản địa, giao thông lại khó khăn. Thực dân  <br /> Pháp sử dụng những người dân bản địa nơi đây để làm cai ngục nhằm thực hiện <br /> thủ đoạn dùng người Việt để trị người Việt. Tù nhân ở đây bị tra tấn hết sức dã  <br /> man, thường xuyên phải lao động khổ  sai, ăn uống thì bẩn thỉu, thiếu thốn gây  <br /> ra rất nhiều bệnh tật. <br /> Ví dụ: Ngày ăn700 g gạo, gạo trộn lẫn sạn, chúng dùng báng súng, roi có quất <br /> dây thép  ở  đầu để  tra tấn..vv. Mặc dù vậy tinh thần đấu tranh của nhân dân ta <br /> trong các nhà đày trong đó có nhà Đày Buôn Ma Thuột là vô cùng quyết liệt, các  <br /> đồng chí vẫn không lùi bước, tìm mọi cách để  đấu tranh và bí mật hoạt động  <br /> cách mạng. Hình thức đấu tranh rất phong phú, đa dạng nhưng lúc đầu thì gặp  <br /> rất nhiều khó khăn. Thực dân Pháp đưa những người bản địa là đồng bào dân <br /> tộc thiểu số làm quản ngục để lợi dụng sự bất đồng về ngôn ngữ để ngăn chặn  <br /> không cho tù nhân liên lạc ra bên ngoài. Nhưng bọn chúng đâu có biết chính âm <br /> mưu của chúng lại càng thúc đẩy tinh thần cho các tù nhân quyết tâm học tiếng <br /> bản địa với phương châm, người biết nhiều dạy người biết ít, người biết ít dạy <br /> người không biết. Tù đó nhà Đày được coi như một trường học. Cũng nhờ  học <br /> tiếng bản địa mà các tù nhân đã cảm hóa được một số quản ngục là người Ê đê  <br /> như ông Y Blốc Ê ban, Y Jônh, Y Bun Knông, Y Bih Alê ô, Y Som Ê ban,…<br /> <br /> <br /> <br /> <br />  <br />                  Y Blốc Êban                            Ban chỉ huy quân sự đầu tiên của Đăk <br /> Lăk<br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 13<br />  (Hình ảnh trưng bày tại nhà Đày)          Từ trái sang phải:Y Wung Niê Kdăm,   <br />                                                                  YNgông Niê,Y Blôk Êban<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Y Som Ê Ban ­Y tá trong nhà đày                          Ông Y Jonh là lính khố xanh<br /> Thời kỳ năm 1930 ­1945, người dân tộc  trong nhà đày Buôn Ma Thuột<br /> Êđê đầu tiên được giác ngộ cách mạng giác ngộ cách mạng<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Đ<br /> ây là hình ảnh các tù nhân  bàn cách đấu tranh chống lại bọn thực dân Pháp<br />          Ngoài ra các tù nhân còn đấu tranh bằng hình thức tuyệt thực tập thể để <br /> phản đối việc thực dân Pháp ngược đãi tù nhân. Cuối cùng thì bọn thực dân phải <br /> nhượng bộ  và tăng khẩu phần ăn lên cho tù chính trị. Tinh thần bất khuất luôn <br /> được các tù nhân đề  cao. Mặc dù bị  đánh đập tra tấn rất dã man: chân tay xây <br /> <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 14<br /> xước, mặt mũi toàn là máu, toàn thân tím đen, mỗi tuần chỉ  được tắm nắng có  <br /> 15 phút nhưng là lúc giữa trưa (12h), ăn uống bẩn thỉu thiếu thốn, nơi giam cầm  <br /> thì tối tăm, chật hẹp, bẩn thỉu, tù nhân khát nước nhưng cũng không có nước để <br /> uống mà có khi phải uống cả nước tiểu của mình .<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình ảnh các chiến sĩ cách mạng bị giam tại nhà đày, hai ống tre một ống đựng  <br /> nước uống và một ống đựng nước tiểu, chúng tra tấn bằng cách một tuần mới  <br /> cho một ống nước vì vậy tù nhân buộc phải uống nước tiểu của mình để duy trì  <br /> sự sống.<br />        Thử hỏi ngày nay nếu chúng ta, những con người khoẻ mạnh bình thường, <br /> phải chịu những nỗi khổ như vậy chúng ta có chịu đựng nổi không? Hay là tìm <br /> đến cái chết để giải thoát. Nhưng không, các tù nhân vẫn kiên cường chịu đựng <br /> vì họ có niềm tin tuyệt đối vào sự nghiệp cách mạng, họ cố chịu đựng để  nuôi <br /> hi vọng được sống và được trở về hoạt động cách mạng dù là hy vọng rất mong <br /> manh.<br /> Một trong những nhân chứng lịch sử  của tỉnh ĐăkLăk là vị  tướng YBlôk  <br /> Êban<br /> Vị tướng đầu tiên của các dân tộc Tây Nguyên.<br />          Y Blốk Êban sinh năm 1920, tại buôn Chư  Dluê,  Buôn Ma Thuột  trong <br /> một gia đình có 7 anh chị em. Là con trai út cho nên Y Blốk Êban là người chịu  <br /> nhiều thiệt thòi nhất khi mới được 2 tuổi thì cha mình, ông Y Chăm Byă qua đời. <br /> Có lẽ  do được “Yàng” ban phước nên từ  nhỏ  Y Blốk Êban rất thông minh và <br /> ham học hỏi. Học hết tiểu học khi chưa tròn 15 tuổi, Y Blốk Êban bị  Pháp bắt <br /> vào lính khố  xanh làm phục dịch và sau đó làm gác tù tại Nhà đày Buôn Ma  <br /> Thuột. Ngay sau khi đặt chân lên mảnh đất Tây Nguyên, chính sách chia rẽ dân  <br /> tộc  ở  đây được thực dân Pháp áp dụng một cách triệt để  kể  cả  trong chốn lao  <br /> tù. Tại nhà đày Buôn Ma Thuột, bên cạnh các sỹ  quan người Pháp, thực dân  <br /> Pháp sử dụng hầu hết cai tù là người Êđê bản địa. Với âm mưu lấy người Việt  <br /> trị  người Việt, thực dân Pháp nghĩ  rằng, mối liên kết giữa người Kinh với <br /> <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 15<br /> người Thượng, giữa người Êđê với các dân tộc khác sẽ  bị  chia cắt. “Nhưng  <br /> chúng không ngờ rằng, tại nơi được mệnh danh là “địa ngục trần gian” này lại <br /> chính là trường học cách mạng của những người yêu nước”, ông nhớ lại. Trong <br /> những lần đưa tù nhân đi lao động khổ  sai, Y Blốk Êban đã được những chiến  <br /> sỹ cách mạng đang bị giam cầm tại đây giác ngộ. Ông đã tận mắt chứng kiến sự <br /> kiên trung bất khuất của những chiến sỹ cách mạng đang bị  giam cầm tại đây.  <br /> Vì thế, khi được tuyên truyền giác ngộ, ông đã nhanh chóng đi theo lý tưởng  <br /> cách mạng.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Bộ trưởng Trần Đại Quang đến thăm Thiếu tướng Y Blốk Êban nhân kỷ niệm  <br /> 40 năm Ngày giải phóng Buôn Ma Thuột.<br />        Sau khi được giác ngộ lý tưởng, ông được giao nhiệm vụ vận động những  <br /> người lính gác ngục bỏ  hàng ngũ đi theo cách mạng, và Y Blốk Êban đã âm <br /> thầm xây dựng lực lượng trong lòng địch để  chờ  thời cơ. Ngày 20/8/1945, ông <br /> đã dẫn đầu trung đội lính khố  xanh biến buổi chào cờ  của Trần Trọng Kim do  <br /> phát xít Nhật dựng lên thành cuộc mít tinh  ủng hộ  cách mạng và giành chính  <br /> quyền về tay nhân dân. Hành động táo bạo, bất ngờ và bí mật của Y Blốk Êban  <br /> dưới sự chỉ đạo của Tỉnh bộ Việt Minh và Ban lãnh đạo lâm thời tỉnh Đắk Lắk  <br /> đã khiến cho chính quyền Trần Trọng Kim không kịp trở  tay. Với chiến công <br /> đầu tiên này, đã đưa Y Blốk Êban đứng hẳn vào hàng ngũ cách mạng, ông được <br /> tham gia vào  Ủy ban lâm thời của tỉnh Đắk Lắk. Sau Hiệp định Giơnevơ  năm <br /> 1954, hầu hết cán bộ   ở  Tây Nguyên nói riêng và miền Nam nói chung đều tập <br /> kết ra Bắc. Trong khi đó, Liên khu V lại muốn Y Blốk Êban ở lại để hoạt động <br /> trong lòng địch, giữ vững cơ sở cách mạng ở Đắk Lắk. Tư lệnh Liên khu V lúc  <br /> bấy giờ là đồng chí Nguyễn Chánh đã ký quyết định bổ nhiệm Y Blốk Êban làm <br /> Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 120 để  đưa ra Bắc huấn luyện. Trong suốt  <br /> quãng thời gian học tập  ở miền Bắc đã giúp ông trưởng thành rất nhiều. Ở  đó, <br /> ông được gặp Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp; được bồi dưỡng thêm về lý <br /> tưởng cách mạng, nhất là tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Nhờ  có tinh thần yêu <br /> nước nồng nàn, ý chí quyết tâm chống kẻ  thù xâm lược của các bậc tiền bối,  <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 16<br /> những anh hùng dân tộc mà ngày nay chúng ta được sống trong hòa bình, cơm no <br /> áo ấm, chúng ta không thể nào quên được sự hy sinh to lớn mà ông cha ta đã trải  <br /> qua. Đến ngày 13/1/2018 do tuổi cao nên tướng Y Blốk Êban đã qua đời trong <br /> niềm tiếc thương vô hạn của nhân dân Đăk Lăk nói riêng và nhân dân cả  nước  <br /> nói chung. <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Toàn cảnh học sinh trường THCS Nguyễn Trãi đang tham quan tại khu trưng  <br /> bày của nhà đày Buôn Ma Thuột  và nghe thuyết trình từ  hướng dẫn viên của  <br /> nhà đày Buôn Ma Thuột(2016­2017). Hình ảnh bên phải là tên Moshin, một trong  <br /> những tên quản ngục độc ác nhất lúc bấy giờ. Y dùng roi có đóng đinh để  tra  <br /> tấn tù nhân, y đánh vào đầu, vào lưng tù nhân đến khi nào hả dạ mới thôi. Đặc  <br /> biệt y được mệnh danh là tên khát máu người, ngày nào y không đánh đập tù  <br /> nhân và không đâm chém thì như rằng ngày đó y ăn không ngon ngủ không yên.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 17<br /> Đây là hình ảnh các chiến sĩ của ta bị thực dân Pháp giam trong một phòng  <br /> giam tập thể, các chiến sĩ bị còng một chân, thực dân Pháp dùng đòn roi tra trấn  <br /> một cách dã man và tàn bạo.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Tù nhân bị bắt phải làm việc<br /> .<br />           Khi đến Nhà đày, mỗi tù nhân được phát một bộ  quần áo vải xanh, một <br /> chăn mỏng. Những thứ đó không đủ ấm trong những đêm lạnh thấu xương giữa <br /> miền núi rừng âm u. Tù nhân không có màn phải chịu cực hình của nạn muỗi <br /> mòng, bọ chó. Không những bị giam cầm, cùm kẹp, bị đánh đập dã man, tù nhân <br /> ở Buôn Ma Thuột còn phải đi lao dịch khổ sai. Ngoài việc tận dụng sức lực của  <br /> tù nhân vào mục đích kinh tế, chúng còn nhằm hành hạ  họ  cả  về  thể  xác lẫn <br /> tinh thần, làm cho tù nhân kiệt sức mà rã rời ý chí đấu tranh, từ bỏ lý tưởng cách <br /> mạng. Trên công trường, cứ 5m có một lính khố  xanh canh giữ. Tù nhân nào vì <br /> ốm yếu, mệt mỏi, không đủ sức làm việc theo lệnh chúng, đều bị lính dùng roi  <br /> trúc, gậy gỗ  đánh vào lưng, vào đầu.  Ở Nhà đày chính, mỗi ngày tù nhân được <br /> ăn 700 gram gạo; còn đi lao dịch trên công trường được ăn hơn một chút (800 <br /> gram gạo), thức ăn thì có cá khô mục và bí đỏ đưa từ Nha Trang lên hoặc đưa từ <br /> Cam­pu­chia sang. Bữa ăn của tù nhân chỉ được quy định trong mấy phút, nếu vì <br /> lý do nào đó mà bữa ăn quá giờ quy định thì họ bị đánh.<br />        Trong tình cảnh của chế độ Nhà đày như thế, tù nhân chỉ có hai con đường: <br /> hoặc là chết mòn trong yên lặng, trong sự  nhục nhã ê chề, hoặc là đoàn kết tổ <br /> chức nhau lại để đấu tranh đòi bọn thống trị phải thực hiện các yêu cầu của họ <br /> trong khuôn khổ  chế  độ  tù chính trị  và cuối cùng các tù nhân chọn con đường <br /> đấu tranh.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 18<br />         <br />          Năm 1930, khi quyết định xây Nhà đày Buôn Ma Thuột, thực dân Pháp  ở <br /> Đắc Lắc dự  tính, hàng năm tỉ  lệ  tù nhân chết ít nhất là 10%, nhưng sang năm  <br /> 1931, chúng  ước tính tỉ  lệ  đó tới 25%. Trong hai năm 1931­1932 đã có tới hơn  <br /> 100 tù nhân chết, nhiều người trong số  đó chôn  ở  nghĩa địa Lạc Giao (tài liệu  <br /> lưu trữ tại Viện lịch sử Đảng).Theo đó thì chỉ trong khoảng 5 năm, số tù nhân ở <br /> Đắc Lắc sẽ  chết hết. Năm 1935, theo các báo chí công khai  ở  Huế  tổng kết,  <br /> trong số 100 tù nhân chết ở Buôn Ma Thuột thì có 24 người bị sốt rét đái ra máu. <br /> Trong 100 tù nhân thì 99 người có ký sinh trùng sốt rét trong máu. Có những <br /> bệnh nhân sốt gần 40 độ liên tục trong 4­5 ngày mà không được một viên thuốc  <br /> nào và vẫn phải đi lao dịch trên công trường. Trong tình cảnh Nhà đày như thế, <br /> tù nhân chỉ  có hai con đường: Hoặc là chết mòn trong yên lặng, trong mọi sự <br /> nhục nhã ê chề, hoặc đoàn kết tổ chức nhau lại để  đấu tranh đòi bọn thống trị <br /> phải thực hiện các yêu cầu của họ  trong khuôn khổ  chế  độ  tù chính trị, giữ <br /> vững khí tiết và giành lấy sự  sống. Cuộc đấu tranh phản đối khủng bố, đánh  <br /> đập, bắn giết tù nhân càng ngày càng mạnh mẽ. Có những lúc toàn thể Nhà đày  <br /> dấy lên những loạt hô khẩu hiệu như  sấm: “Phản đối đánh đập dã man”, có <br /> người   còn  trích  máu  khẩu  hiệu  lên  tường  nhà  lao:  “Đả  đảo  tên  giết  người <br /> Moshine” (Lịch sử Nhà đày Buôn Ma Thuột 1930 ­ 1945, Tỉnh ủy Đắc Lắc)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 19<br /> Tên quản ngục tàn ác Moshine<br /> <br /> “Ngày nào không đánh, đá được lính tráng, không đánh đập, giết chết được  <br /> phạm   nhân   thì   tối   về   ăn   không   ngon   cơm”   đó   là   câu   nói   hàng   ngày   của <br /> Moshine, một trong những tên quản ngục khét tiếng nhất tại Nhà đày Buôn Ma  <br /> Thuột. Quản ngục Mahomed Moshine là một “giống lai” quốc tế, một điển hình <br /> về  mất tính người, tập trung tính hung ác, thú vật của “giống” thực dân khát <br /> máu và tàn bạo đến cực  điểm. Chính cái “thú tính”  đã được thực dân Pháp <br /> “thuần hóa” mà Moshine nhiều lần được trọng dụng làm sếp lao tại Nhà đày <br /> Buôn  Ma   Thuột. <br />           Để  đàn áp các cuộc đấu tranh của tù nhân, Moshine dùng mọi thủ  đoạn <br /> hành hạ, tra tấn từ cùm chân, trói tay, dùng gậy có đóng đinh và vồ đập lên đầu <br /> đến dội nước phân, nước tiểu lên người tù. Độc ác hơn, hắn dùng lưỡi lê đâm  <br /> vào chân, vào bụng của người tù rồi liếm máu trên lưỡi lê. Nửa đêm hắn nhảy <br /> vào phòng giam ôm ghì đầu người tù cắn tai, cắn mũi, liếm máu nhe nanh, nhăn <br /> trái, cười khì khì rồi nói một câu rùng rợn: “Tao khát máu chúng mày, tao phải  <br /> uống   máu   chúng   mày”. <br />         Trong cuộc đời làm quản ngục ở Nhà đày Buôn Ma Thuột, Moshine đã gặp  <br /> không ít các cuộc đấu tranh, biểu tình đòi tống cổ ra khỏi Nhà đày. Từ năm 1930 <br /> đến 1943, Moshine bị đưa đi chuyển về ba lần. Lần đầu vào năm 1934, lần thứ <br /> hai vào năm 1937, lần cuối cùng vào năm 1943. Phẫn nộ  trước hành động giết <br /> người dã man của hắn, tập thể  tù nhân đã tổ  chức đấu tranh quyết liệt buộc  <br /> chính quyền thực dân Pháp tại Đắk Lắk phải cách chức và chuyển hắn đi, chấm  <br /> dứt thời gian cai quản của y tại nhà Đày Buôn Ma Thuột. <br /> <br />           Tổng số  tù bị  đày đến Buôn Ma Thuột qua các phong trào cách mạng có <br /> hàng nghìn lượt đồng chí. Có gia đình bị  địch giam cầm  ở đây 2­3 anh em (như <br /> Lê Chưởng, Lê Hùng và Lê Vụ; Lê Tự  Nhiên, Lê Tự  Cuộc và Lê Tự  Đồng; Lê <br /> <br /> Nguyễn Thị Tài­ Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi­ Huyện Krông Ana 20<br /> Viết Lượng và Lê Viết Thanh; Trần Văn Quang và Trần Anh Bình) có đồng chí <br /> bị giam ở đây 2­3 lần (như Trần Hữu Dục, Bùi San). Có những người bị giam ở <br /> đây từ  năm 1930 cho đến những ngày tiền khởi nghĩa năm 1945. Trong số  tù <br /> nhân của Nhà đày Buôn Ma Thuột, đại bộ  phận là đảng viên cộng sản, một số <br /> người trước khi vào tù đã giữ những chức vụ quan trọng trong các cấp bộ Đảng.<br /> <br />         Thực dân Pháp dùng chế độ  nhà tù tàn khốc để  giết dần giết mòn những  <br /> người tù cộng sản về thể xác và tinh thần. Nhưng với tinh thần bất khuất, các <br /> chiến sĩ cộng sản đã thắng, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về hoạt động  <br /> và sự trưởng thành của các chiến sĩ cách mạng bị lao đày trong lời khai mạc lễ <br /> kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng năm 1960: “Biến cái rủi thành cái may,  <br /> các đồng chí ta đã lợi dụng những tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận.  <br /> Một lần nữa việc đó lại chứng tỏ rằng chính sách khủng bố cực kỳ dã man  <br /> của kẻ  thù chẳng những không ngăn trở  được bước tiến của cách mạng,  <br /> mà trái lại, nó trở  nên một thứ  lửa thử  vàng, nó rèn luyện cho người cách  <br /> mạng thêm cứng rắn. Mà kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua”.<br /> <br />         Ngoài ra Đăk Lăk cũng là nơi sinh sống của nhiều đồng bào dân tộc anh em <br /> như Êđê, Ba na...vv, để giáo dục tinh thần yêu nước cho các em, bản thân tôi đã <br /> nêu lên một số  tấm gương tiêu biểu, những tấm gương anh dũng trong cuộc  <br /> kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, đánh đuổi giặc ngoại xâm như AmaJao, Y  <br /> Jut, Nơ Trang Lơng…vv<br /> Ama Jhao (1840­1905)<br /> Ama Jhao tên thật là Y Yên, họ Ayũn, sinh năm 1840 tại buôn Tung, cách thành  <br /> phố  Buôn Ma Thuột ngày nay 16km về  phía đông bắc, (có tài liệu cho là buôn <br /> Kô Tăm). Sinh ra trong một gia đình Êđê có uy tín trong vùng, nổi tiếng nhờ tài <br /> săn voi cho nên ông được nhiều người yêu quý, kính trọng. Lớn lên Y Yên lấy <br /> cô H’Pang Niê Blô, con tù trưởng Ama P
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2