intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một vài giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

Chia sẻ: Trần Văn An | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

74
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu nhằm đánh giá đúng thực trạng chất lượng kỹ năng sống của học sinh lớp Một dân tộc thiểu số trường Tiểu học Võ Thị Sáu thời gian qua; rút ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và nêu lên giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong thời gian tới. Giúp giáo viên nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống, đưa ra giải pháp thực hiện nâng cao chất lượng kỹ năng sống cho học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một vài giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu

Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> Phần thứ nhất:  MỞ ĐẦU<br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Mục tiêu giáo dục hiện nay là đào tạo con người phát triển toàn diện về đạo  <br /> đức, trí thức, sức khỏe, thẩm mỹ  và hình thành, bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất  <br /> năng lực của công dân đáp ứng yêu cầu đổi mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ <br /> Tổ  quốc Việt Nam xã hội chủ  nghĩa. Việc giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh là <br /> rất cần thiết phù hợp với mục tiêu giáo dục, nhằm góp phần đào tạo con người mới <br /> với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mỹ” để học sinh được phát triển toàn diện. Cũng <br /> như Bác Hồ từng nói: “Có tài mà không có đức là vô dụng ­ Có đức mà không có tài  <br /> làm việc gì cũng khó”. Chúng ta không chỉ phải dạy kiến thức cho học sinh mà quan  <br /> trọng hơn hết là dạy người, dạy cách làm người, những con người đáp ứng đầy đủ <br /> những tố  chất hiện đại, năng động, hoạt bát, thích nghi tốt,  ứng phó nhanh trong <br /> mọi tình huống nhưng không đánh mất đi phẩm chất, đạo đức, giá trị  nhân văn tốt <br /> đẹp, bản sắc văn hóa của con người Việt Nam. <br /> Giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh tiểu học nhằm đạt mục tiêu trang bị <br /> những kiến thức, giá trị, thái độ, kĩ năng phù hợp; tạo cơ  hội thuận lợi cho trẻ sử <br /> dụng quyền, bổn phận của mình và phát triển toàn diện về  thể  chất, trí tuệ, tinh <br /> thần, đạo đức. <br /> Một trong những tiêu chí được nêu trong Chỉ  thị  số  40/2008/CT BGDĐT, <br /> ngày 22 tháng 7 năm 2008 về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường <br /> học thân thiện học sinh tích cực” là  rèn luyện kỹ  năng sống cho học sinh.  Đây là <br /> một chủ  trương cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, để  giáo dục kỹ  năng sống cho <br /> học sinh đạt hiệu quả  đòi hỏi nhiều yếu tố. Đặc biệt đối với học sinh lớp Một là <br /> lớp học đầu tiên của bậc Tiểu học. Các em vừa bước qua ngưỡng cửa của trường <br /> Mầm Non, vừa chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Môi trường  <br /> thay đổi, hoạt động thay đổi và kéo theo nhiều sự thay đổi lớn trong các em. Phần <br /> lớn các em chưa biết ứng xử với mọi người xung quanh, chưa biết tự tin trước đám <br /> đông, lúng túng khi gặp tình huống nguy hiểm. Bởi vậy việc giáo dục cho trẻ các kĩ <br /> năng tự phục vụ, tự quản, giao tiếp, hợp tác, tự học  là rất cần thiết. Các kĩ năng đó <br /> ta gọi tắt là kỹ năng sống.<br /> Thực tế cho thấy toàn khối lớp Một trường Tiểu học Võ Thị Sáu có trên 96% <br /> là học sinh dân tộc thiểu số. Được Nhà nước, Đảng ủy, chính quyền địa phương,  <br /> Phòng Giáo dục ­ Đào tạo và nhà trường quan tâm tạo điều kiện thuận lợi trong  <br /> việc huy động các em đến trường để học tập. Đa số các em đã được học qua Mầm  <br /> non, song do phong tục tập quán, trình độ  nhận thức của người dân chưa cao,   ít <br /> quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho con em dẫn đến học sinh thiếu hụt <br /> hiểu biết về môi trường xung quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Các em đến <br /> trường rụt rè, không biết giao tiếp, chưa biết tự  bảo vệ  mình. Một số  giáo viên  <br /> chưa coi trọng việc giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh. Việc giáo dục kỹ  năng <br /> sống cho học sinh còn qua loa đại khái mang tính chung chung.  Với mong muốn làm <br /> rõ vị trí vai trò của giáo viên trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, thực <br /> trạng kỹ  năng sống của học sinh lớp Một. Trên cơ  sở  đó đề  ra một vài giải pháp  <br /> nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 1<br /> Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> ở Trường Tiểu học Võ Thị Sáu từ năm học 2016 – 2017, năm học 2017 – 2018. Đó  <br /> là lí do tôi chọn đề tài “ Một vài giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh  <br /> lớp Một dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu”. <br /> <br /> <br /> II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU<br /> Nghiên cứu đánh giá đúng thực trạng chất lượng kỹ năng sống của học sinh <br /> lớp Một dân tộc thiểu số trường Tiểu học Võ Thị Sáu thời gian qua; rút ra ưu điểm,  <br /> hạn chế, nguyên nhân và nêu lên giải pháp chủ  yếu nâng cao chất lượng giáo dục <br /> kỹ năng sống cho học sinh trong thời gian tới. Giúp giáo viên nhận thức được vai trò <br /> và tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống, đưa ra giải pháp thực hiện nâng <br /> cao chất lượng kỹ năng sống cho học sinh.<br /> Giúp học sinh có  khả  năng  ứng xử  trước các tình huống xảy ra trong cuộc <br /> sống như tự tin, tự phục vụ, mạnh giao tiếp và hợp tác, trung thực, có khả  năng tự <br /> giải quyết vấn đề, hiểu biết và chấp hành pháp luật,....  <br /> Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ<br /> I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ <br /> 1. Các định nghĩa, khái niệm về kỹ năng sống<br /> Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc  <br /> nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để  giải quyết tình huống hay công việc nào  <br /> đó phát sinh trong cuộc sống.<br /> Kỹ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả  nhất, giúp giải quyết hoặc  <br /> đáp ứng các nhu cầu cụ thể trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con người  <br /> như  khả  năng  ứng xử  phù hợp với người khác, xã hội, khả  năng úng phó tích cực  <br /> trước các tình huống của cuộc sống.  Kỹ  năng sống bao gồm cả  hành vi vận động <br /> của cơ thể và tư duy trong não bộ của con người như biến kiến thức thành thái độ,  <br /> hành vi, thói quen tích cực. Kỹ năng sống có thể hình thành một cách tự nhiên, thông <br /> qua giáo dục hoặc rèn luyện của con người.<br /> 2. Quan niệm về kỹ năng sống<br /> Cho đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi quan  <br /> niệm được diễn tả theo cách khác nhau:<br /> Theo Tổ chức Văn hóa, Khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc(UNESCO), <br /> kỹ  năng sống là năng lực cá nhân để  thực hiện đầy đủ  các chức năng và tham gia  <br /> vào cuộc sống hằng ngày. <br /> Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), kỹ năng sống là những kĩ năng thiết thực <br /> mà con người cần để có cuộc sống an toàn, khỏe mạnh. Đó là những kĩ năng mang  <br /> tính tâm lí xã hội và kĩ năng về  giao tiếp được vận dụng trong những tình huống  <br /> hằng ngày để  tương tác một cách hiệu quả  với người khác và giải quyết có hiệu <br /> quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hằng ngày.<br /> Tuy diễn đạt về  kỹ  năng sống khác nhau nhưng giống nhau  ở  nội dung cơ <br /> bản đó là những cách thức ứng xử, xử lý các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống một  <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 2<br /> Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> cách linh hoạt, mềm dẻo, có hiệu quả. Từ  đó giúp con người xác lập được mối <br /> quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh, hoàn thiện nhân cách của mình.<br /> Một cách khác, có thể  tiếp cận khái niệm kỹ  năng sống qua 4 trụ  cột của  <br /> giáo dục: Học để  biết, học để  khẳng định bản thân; Học để  chung sống, học để <br /> làm việc.  Kỹ năng sống có thể hiểu là kĩ năng làm việc, kĩ năng làm chủ bản thân,  <br /> kĩ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống.<br /> Như chúng ta đã biết: "Tiểu học là nền thì lớp Một là móng". Móng và nền <br /> có<br /> vững chắc thì công trình xây dựng (giáo dục) mới bền vững. Việc giáo dục kỹ năng <br /> sống cho học sinh được chú trọng hơn từ  khi Chỉ thị số 40/2008/CT BGDĐT, ngày  <br /> 22 tháng 7 năm 2008 về  việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học  <br /> thân thiện học sinh tích cực” ra đời. Kế hoạch số 801/KH­BGDĐT ngày 04 tháng 11 <br /> năm 2016 về việc triển khai thực hiện phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em giai  <br /> đoạn 2016 – 2020 của ngành giáo dục. Hơn nữa ngay từ  đầu các năm học Phòng  <br /> giáo dục­ Đào tạo có hướng dẫn kế  hoạch cụ  thể  về  nội dung giáo dục kỹ  năng <br /> sống cho học sinh.  Kỹ  năng sống là một bài học quan trọng, giúp học sinh tự  tin <br /> bước vào cuộc sống tương lai. Đặc biệt đối với trẻ  tiểu học, khi bắt đầu đi học  <br /> cũng là lúc trẻ bắt đầu tiếp xúc với xã hội, rất cần hoàn thiện và phát triển các kỹ <br /> năng sống cho riêng mình. Chính những kỹ năng sống các em tiếp nhận được những <br /> năm đầu tiên đi học sẽ theo các em suốt cả cuộc sống sau này vì khi tham gia vào <br /> bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào phục vụ cho cuộc sống đều đòi hỏi ta phải thỏa  <br /> mãn những kĩ năng tương  ứng. Nếu ngay từ  lớp Một, các em có được những kĩ <br /> năng tốt, cuộc sống sau này sẽ rộng mở với các em hơn. Giáo dục kỹ năng sống là  <br /> giúp trẻ  biết làm chủ  bản thân, có ý thức kỷ  luật,  ứng xử  thân thiện, hợp tác,  tự <br /> phục vụ, tự  bảo vệ  bản thân,  kĩ năng hoạt động xã hội, phòng ngừa tai nạn giao <br /> thông, tai nạn thương tích, đuối nước, các tệ nạn xã hội và biết cách ứng phó trước <br /> những tình huống khó khăn trong cuộc sống hàng ngày. Rèn cách sống có trách <br /> nhiệm với bản thân, gia đình, đảm bảo mục tiêu giáo dục kỹ  năng sống cho học <br /> sinh trong cộng đồng, mở  ra cơ hội, hướng suy nghĩ tích cực, tự tin, tự  quyết định  <br /> và lựa chọn những hành vi đúng đắn. Đây là việc làm hết sức quan trọng  ảnh  <br /> hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. <br /> Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số lại càng <br /> cần thiết bởi hầu hết các em chưa có khả  năng: Tự  phục vụ, tự  quản; Giao tiếp, <br /> hợp tác; Tự học và giải quyết vấn đề; Chăm học, chăm làm, tích cực tham gia hoạt <br /> động xã hội;  Tự  tin, tự  chịu trách nhiệm;  Trung thực, kỷ  luật, đoàn kết;  Yêu gia <br /> đình, bạn bè và những người khác.  Bên cạnh đó cần trang bị  cho học sịnh các kĩ <br /> năng cần thiết cho cuộc sống hiện nay  như đề phòng hỏa hoạn, đuối nước, tự bảo <br /> vệ bản thân, phòng tránh bị xâm hại, tai nạn giao thông, tai nạn thương tích,...<br />        II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ<br /> 1. Thuận lợi<br /> Đảng ủy, chính quyền địa phương thuộc xã Ea Bông và Phòng Giáo dục­ Đào <br /> tạo là đơn vị  thường xuyên thể  hiện sự  quan tâm đặc biệt đến công tác giáo dục <br /> trong nhà trường. Các cơ quan ban ngành đoàn thể tại địa phương cũng đã thể hiện <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 3<br /> Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> sự quan tâm đến chất lượng giáo dục và đặc biệt là việc huy động học sinh  đúng 6 <br /> tuổi ra lớp. Các em học sinh có cùng một độ  tuổi, ham hiểu biết, ham học hỏi, tò <br /> mò và thích sáng tạo, thích tự khẳng định mình. Đa số phụ  huynh học sinh đều sử <br /> dụng điện thoại di động nên giáo viên chủ nhiệm có thể liên lạc trao đổi bất cứ lúc <br /> nào. <br /> 2. Khó khăn<br /> Trường tiểu học Võ Thị  Sáu là một trường thuộc vùng khó khăn có ba phân <br /> hiệu cách xa nhau từ 2 km đến 5 km. Số học sinh dân tộc thiểu số chiếm trên 97%. <br /> Trình độ  dân trí còn thấp, cuộc sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Đội <br /> ngũ giáo viên trong tổ  chưa đồng đều, số  giáo viên người dân tộc thiểu số  chiếm  <br /> 33,3%,  kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế. Chất lượng giáo dục hàng năm còn  <br /> thấp, tỉ lệ học sinh có kỹ năng sống chưa cao. <br /> Năm học 2016 – 2017, khối lớp 1 có 137 em chia thành 5 lớp, trong đó học  <br /> sinh dân tộc thiểu số chiếm 95,6%,  năm học 2017 – 2018 cũng có 5 lớp với tổng số <br /> 110 em, số học sinh dân tộc thiểu số chiếm 96,4%. Toàn khối có 02 em mẹ là công <br /> chức, còn lại là con nhà nông. Bố mẹ không có nghề ổn định, mải lo việc mưu sinh  <br /> ít quan tâm đến việc giáo dục con em. Phần lớn trẻ chưa được gia đình bồi dưỡng  <br /> vốn kinh nghiệm giao tiếp nên các em rất nhút nhát. Mặc dù đã được học qua lớp <br /> Mầm non 5 tuổi song trong thực tế các em còn gặp rất nhiều khó khăn trong giao <br /> tiếp, thiếu tự tin, chưa có kĩ năng tự quản, tự bảo vệ bản thân, vẫn còn xảy ra tình  <br /> trạng đuối nước vì lí do một số em hay nghỉ học đến ngày nghiệm thu bàn giao lớp  <br /> mới đến trường. Các em lại không có cơ hội giao tiếp bằng tiếng phổ thông, không  <br /> được thực hành trong suốt thời gian nghỉ hè. Số học sinh không chịu vào lớp khi mẹ <br /> đưa đến lớp còn nhiều. Cô hỏi chỉ  gật và lắc đầu hoặc “ơ”, “hở”. Nhiều em còn <br /> chưa biết nói lời thưa gửi thể  hiện lễ  phép. Gọi lên bảng không chịu lên, không  <br /> dám giơ  tay phát biểu xây dựng bài. Cuộc sống của làng xóm và gia đình còn  ảnh <br /> hưởng nhiều đến việc hình thành kĩ năng của trẻ. Khả năng ghi nhớ  còn hạn chế,  <br /> các em chưa biết cách ứng xử đơn giản nhất với cô giáo và bạn. Nhiều em chưa nói <br /> được cụ thể họ tên mình, họ tên bố mẹ, chưa phân biệt được anh em trong nhà với <br /> anh em họ. Do không được quan tâm chu đáo và giáo dục tận tình nên trong con mắt  <br /> ngây thơ của các em đâu đâu cũng yên bình, trong khi cuộc sống hiện đại xô bồ với <br /> vô vàn nguy hiểm luôn rình rập các em ở mọi lúc, mọi nơi.<br /> Trong chương trình, lượng kiến thức mà các em phải học tập  và hoàn thành <br /> trên lớp khá nhiều nên không còn nhiều thời gian cho  giáo dục kỹ  năng sống. Các <br /> em chưa  có nhiều điều kiện để  giao tiếp với mọi người nên chưa thật sự  tự  tin,  <br /> mạnh dạn bộc lộ bản thân trước đám đông, trước bạn bè và thầy cô giáo cũng như <br /> ngoài xã hội. Cũng chính từ  đó, các em chưa đủ  khả  năng vượt qua các tình huống <br /> rủi ro trong cuộc sống. Thực tế trong giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm lớp , tôi <br /> thấy việc giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh còn khá nhiều bỡ  ngỡ  về  nội dung <br /> giáo dục, phạm vi giáo dục mà chỉ  hiểu đến đâu làm đến đấy, kế  hoạch chưa cụ <br /> thể, rõ ràng nên chưa có được sự phối hợp nhiệt tình của cha mẹ học sinh. Công tác <br /> kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế  hoạch còn mang tính chất chung chung, biện <br /> pháp động viên, khen thưởng chưa kịp thời . 95% học sinh khi vào lớp Một rất rụt  <br /> rè, chưa biết giao tiếp,  ứng xử, chưa có các kĩ năng thích nghi, hợp tác, chưa biết  <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 4<br /> Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> ứng phó, tự bảo vệ mình khi có tình huống xảy ra. Nguyên nhân trực tiếp khiến học  <br /> sinh gặp khó khăn trong xử lí với tình huống thực của cuộc sống là do sự giáo dục  <br /> của gia đình và nhà trường, sự  phức tạp của xã hội hiện nay. Giáo viên và người  <br /> lớn chưa thật coi trọng việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.  Việc rèn kỹ năng sống <br /> qua các môn học, tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi còn chưa được <br /> chú trọng. Công tác tuyên truyền cho các bậc cha mẹ  thực hiện giáo dục kỹ  năng <br /> sống cho các em chưa nhiều.  Trước những khó khăn và tính cấp thiết đó tôi luôn <br /> trăn trở  làm thế  nào giúp các em có được các kĩ năng cơ  bản để  vận dụng trong  <br /> cuộc sống. Kết quả khảo sát đầu các năm học như sau:. <br /> <br /> <br /> Năm học TS HS Kĩ năng Kĩ năng giao tiếp, tự nhận thức, bảo vệ bản thân<br /> Biết   nói   năng   lễ  Bạo dạn trong giao  Ngại giao tiếp,  Tự  nhận thức, bảo vệ <br /> phép    tiếp  trầm lặng, nhút nhát bản thân<br /> <br /> SL % SL % SL % SL %<br /> 2016 ­  2017 137 79 59,8 52 37,9 85 62,0 62 42,3<br /> <br />  2017 ­  2018 110 70 63,6 40 36,4 70 63,6 65 59,1<br /> <br /> <br /> <br /> Năm học TSHS Kĩ năng hợp tác, tự quản, tự học<br /> kĩ năng tốt có kĩ năng chưa có kĩ năng<br /> SL % SL % SL %<br /> 2016 ­  2017 137 5 3,6 53 38,7 79 57,7<br /> <br /> 2017 ­  2018 110 4 3,6 38 34,6 68 61,8<br /> <br /> Kĩ năng tham gia giao thông, phòng chống tai nạn thương tích<br /> Năm học TSHS kĩ năng tốt có kĩ năng chưa có kĩ năng<br /> SL % SL % SL %<br /> 2016 ­  2017 137 6 4,3 76 55,5 55 40,2<br /> <br /> 2017 ­  2018 110 5 4,5 59 53,7 46 41,8<br /> <br /> Từ tình hình thực tế trên cho thấy tỉ lệ học sinh phát triển toàn diện là rất ít. <br /> Đa số các em còn thiếu các kĩ năng cơ bản trong cuộc sống hằng ngày như kĩ năng  <br /> tự nhận thức, rụt rè khi giao tiếp, ứng xử chưa có văn hóa. T ôi thiết nghĩ nếu trẻ có <br /> khả năng giao tiếp tốt sẽ tạo điều kiện cho các em học tốt môn học cũng như tham  <br /> gia các hoạt động do trường, đội tổ  chức. Chính vì thế  tôi đã đưa ra các giải pháp <br /> cụ thể như xác định nội dung và phạm vi giáo dục kĩ năng sống. Tìm hiểu tình hình <br /> thực tế. Qua đó xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học. <br /> Rèn kĩ năng. Phối hợp giữa nhà trường­ gia đinh và xã hội. Tăng cường công tác  <br /> kiểm tra đánh giá thi đua khen thưởng. <br /> III. CÁC GIẢI PHÁP ĐàTIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ<br />     Thứ nhất: Xác định nội dung và phạm vi giáo dục kĩ năng sống <br /> <br /> <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 5<br /> Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> Để  nâng dần kỹ  năng sống cho học sinh,  ngoài việc phai cân s<br /> ̉ ̀ ự  hêt s<br /> ́ ưc n<br /> ́ ỗ <br /> lực của thầy  và trò,  con rât cân co s<br /> ̀ ́ ̀ ́ ự  lãnh đạo của  Ban giám hiệu nhà trường và <br /> chính quyền địa phương,  chủ  trương xã hội hoá giáo dục trong việc xây dựng và  <br /> phát triển là yếu tố  vô cùng quan trọng. Nó vừa đáp  ứng yêu cầu trước mắt vừa <br /> mang tính chiến lược lâu dài trong sự  phát triển bền vững. Điều 12 luật Giáo dục <br /> năm 2005 đã qui định rõ về  xã hội hoá sự  nghiệp giáo dục: “.... Mọi tổ  chức, gia  <br /> đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự  nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà <br /> trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an <br /> toàn”. Xuất phát từ các nguyên nhân trên, hàng năm, trong quá trình giảng dạy,  viêc̣  <br /> đâu tiên ma tôi làm đó là <br /> ̀ ̀ xác định rõ những nội dung kỹ năng sống (những bài học)  <br /> cần giáo dục cho học sinh và phạm vi giáo dục, cụ  thể như sau : Rèn thói quen tốt <br /> trong học tập chú ý nghe giảng, sắp xếp sách vở  gọn gàng, giáo dục  ở  tất cả  các <br /> môn học. Biết chuẩn bị đồ  dùng học tập, kiểm tra, nhắc nhở khi bắt đầu mỗi tiết <br /> học, mỗi môn học. Biết cách sắp xếp, có thói quen giữ  gìn sách vở, dụng cụ học <br /> tập và bàn ghế ngăn nắp, gọn gàng hướng dẫn ngay từ những buổi học đầu tiên vào <br /> lớp 1 và thường xuyên nhắc nhở.  Có tư thế ngồi học đúng cho học sinh đọc đồng  <br /> thanh tư  thế  ngồi viết trước khi viết bài và uốn nắn thường xuyên. Rèn thói quen <br /> vệ sinh hằng ngày, biết được các thói quen tốt, không tốt để giữ vệ sinh hằng ngày <br /> giáo dục vào các tiết lao động vệ sinh đầu buổi học , kiểm tra, nhắc nhở vào các tiết <br /> sinh hoạt tập thể  cuối tuần.  Rèn thói quen tự  tin, mạnh dạn, hợp tác khi giao tiếp <br /> rèn luyện trong các tiết học như  Đạo đức, Tự  nhiên xã hội. Tự  tin khi nói chuyện <br /> với thầy cô giáo, bạn bè và người thân rèn luyện khi đến trường, trong các tiết học  <br /> Tiếng Việt và khi gặp gỡ mọi người. Biết cách tự bày tỏ mong muốn của của mình <br /> cho người khác hiểu rèn ngay từ những ngày đầu vào lớp 1.  Có ý thức tập trung để <br /> học tốt như biết tự  rèn và thực hành kĩ năng tập trung học tập tốt rèn trong tất cả <br /> các tiết học. Hiểu được sự  cần thiết và biết cách đặt câu hỏi rèn trong tất cả  các <br /> tiết học.Hiểu được sự cần thiết và có thói quen đi học chuyên cần giáo dục ngay từ <br /> những ngày đầu vào lớp 1 và thường xuyên nhắc nhở vào tiết sinh hoạt tập thể.  Tự <br /> tin, hòa nhập với môi trường mới, với bạn bè, thầy cô hướng dẫn động viên ngay  <br /> từ những buổi tựu trường đầu tiên. Hiểu được hiệu quả và rèn luyện thói quen phát <br /> biểu xây dựng bài động viên, khuyến khích trong tất cả  các tiết học. Hiểu được ý <br /> nghĩa và tự  giác trả  lại của rơi cho người đánh rơi rèn luyện thường xuyên, hằng <br /> ngày trong lớp học và đặc biệt là trong giờ chơi.  Hiểu được ích lợi và có thói quen <br /> đi học đúng giờ  thông báo giờ  vào học, tan trường ngay từ những buổi tựu trường  <br /> đầu tiên, thường xuyên nhắc nhở, giúp đỡ  trong suốt năm học. Hiểu được ích lợi <br /> của người bạn tốt và biết ứng xử tốt với bạn bè, chia nhóm học tập trong tất cả các <br /> môn học. Giáo dục lòng yêu trường lớp, kể được những điều em thích ở trường lớp <br /> như  trang trí lớp học đẹp mắt, thân thiện, có tên trường và những nội dung liên  <br /> quan đến trường, thể hiện hành động yêu quý trường lớp  hướng dẫn và nhắc nhở <br /> trong suốt năm học. <br /> Ngoài các nội dung đã nêu  ở  trên, hằng năm, tùy vào tình hình thực tế   ở  địa <br /> phương, tôi còn lồng ghép một số kĩ năng phòng đuối nước, hỏa hoạn, biết tự bảo  <br /> vệ  mình và thực hiện an toàn giao thông cho học sinh  ở  mọi lúc, mọi nơi.  Bởi vì <br /> theo tôi, học sinh lớp Một còn quá nhỏ dại và phụ thuộc nhiều vào bố mẹ, thầy cô  <br /> như đến trường hay tan học các em cần có người đưa đón. Nhưng bên cạnh đó đa  <br /> số phụ huynh đều làm nông nghiệp, điều kiện kinh tế còn khó khăn, thiếu thốn nên <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 6<br /> Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> có những hôm không thể  đưa đón con. Ngoài ra còn phải kể  đến một số  ít phụ <br /> huynh có điều kiện đã trang bị cho con những vật dụng, trang sức đắt tiền thu hút <br /> sự  chú ý của kẻ  xấu. Chưa kể  đến an toàn giao thông hay các tệ  nạn xã hội khác  <br /> luôn rình rập, đe dọa các em mỗi ngày. Những nội dung này có thể  nói là tôi luôn <br /> nhắc nhở hằng ngày, hằng giờ.<br /> Thứ hai: Tìm hiểu tình hình thực tế<br /> Sau khi nhận lớp, việc đầu tiên cần làm của giáo viên là  ổn định lớp, tìm <br /> hiểu tâm lí học sinh ở lứa tuổi vào lớp Một. Đây là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi  <br /> trường học tập thay đổi một cách cơ  bản: trẻ  phải tập trung chú ý trong thời gian  <br /> liên tục từ 30 – 35 phút. Nhu cầu nhận thức chuyển từ hiếu kì, tò mò sang tính hiểu  <br /> biết, hứng thú khám phá. Trẻ  bắt đầu kiềm chế  dần tính hiếu động, bột phát để <br /> chuyển thành tính kỷ  luật, nề  nếp, chấp hành nội quy học tập. Tính nhạy và sức <br /> bền vững, tính khéo léo các thao tác của đôi bàn tay để  tập viết được phát triển  <br /> nhanh. Tất cả những điều đó đều là thử thách đối với trẻ, muốn trẻ vượt qua được <br /> tốt những thử thách đó thì giáo viên phải tạo sự gần gũi với học sinh ngay từ buổi  <br /> đầu nhận lớp. Giáo viên động viên khuyến khích các em chia sẻ, hòa đồng với nhau <br /> thì ngay chính giáo viên phải coi các em như những người bạn, thường xuyên tiếp  <br /> xúc, chủ  động trò chuyện để  các em có thể  cởi mở, bớt nhút nhát, dễ  nói chuyện <br /> với cô. Khi thấy các em xưng hô “mày – tao”, giáo viên phải nhắc nhở  chỉnh sửa <br /> cách xưng hô cho phù hợp bằng “mình – bạn”, giải quyết công bằng những mâu  <br /> thuẫn xảy ra giữa các em học sinh trong lớp. Thường xuyên nhắc nhở  các em giơ <br /> tay khi phát biểu, không chen ngang khi giáo viên nói, khi nói phải “thưa cô”, không <br /> đùa giỡn trong lớp, không tự  ý ra khỏi chỗ, không quay ngang quay dọc. Giáo viên <br /> đưa ra những kí hiệu chung cho cả  lớp thực hiện thay vì lời nói để  tạo thói quen <br /> cho các em: <br /> + Học sinh lấy bảng con “Gõ vào góc bảng 1 cái”<br /> + Ngồi khoanh tay“ gõ vào chữ o”<br /> + Lớp ồn ghi dấu “ –” ở góc bảng<br /> + Lớp học tốt ghi dấu “+” ở góc bảng <br /> Gia đình là nơi các em sinh sống hằng ngày. Vì vậy, thông qua cha mẹ  học  <br /> sinh giáo viên tìm hiểu để nắm bắt xem  ở nhà các em thường có thói quen gì, cách <br /> ứng xử  như  thế  nào, đã biết tự  bảo vệ  bản thân hay chưa, đã khi nào các em có  <br /> hành vi chưa tốt không.  Qua đó, giáo viên nắm bắt và phân loại từng nhóm đối <br /> tượng học sinh.<br /> Thứ ba. Giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học<br /> Việc hình thành kỹ  năng sống cho học sinh không phải ngày một ngày hai,  <br /> cũng không phải tự nhiên sinh ra là có mà phải trải qua thời gian rèn dũa. Khi vào  <br /> lớp Một, chúng ta không chỉ dạy cho các em học chữ mà còn dạy các kĩ năng cơ bản <br /> trong cuộc sống như tự tin, tự chịu trách nhiệm, tự  ra quyết định, phòng chống tai  <br /> nạn thương tích,... Thực hiện Công văn số  159/ PGDĐT – GDTH V/v Hướng dẫn <br /> thực hiện kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho HS tiểu học. Ngay từ đầu năm học, <br /> chúng tôi họp tổ  xây dựng kế  hoạch dạy lồng ghép giáo dục kỹ  năng sống trong <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 7<br /> Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> mỗi môn học. Làm sao giáo viên phải giúp các em hiểu thế nào là  kỹ năng, kỹ năng <br /> sống và tại sao phải giáo dục kỹ năng sống, tác hại của việc chưa có kỹ năng sống. <br /> Từ đó các em nhận biết vai trò của việc học tập kỹ năng sống.<br />     Chúng ta đều biết, ngôn ngữ  là công cụ  của tư  duy và giao tiếp. Việc giáo  <br /> dục; lời nói giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng:               <br /> “ Học ăn, học nói, học gói, học mở ”<br />                     “ Lời nói không mất tiền mua, <br />                     Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”<br /> Để  đánh giá một con người chúng ta cần phải có sự  thử  thách qua giao tiếp <br /> hàng ngày với họ: “Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”. Mặt khác việc giao  <br /> tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh vực; “Khéo bán, <br /> khéo mua cũng thua người khéo nói”. Với trẻ  em, lứa tuổi đang hình thành nhân <br /> cách, ngay từ khi các em còn rất nhỏ, chúng ta đã rất chú trọng: “Trẻ lên ba, cả nhà  <br /> học nói”. Bởi vậy ngành giáo dục đào tạo nói chung và ngành giáo dục tiểu học nói  <br /> riêng đã được xã hội trao cho trọng trách đáng tự  hào là giáo dục trẻ  em ngay từ <br /> những ngày đầu bước chân tới trường. Từ bao đời nay, việc giáo dục ở nhà trường  <br /> đã áp dụng phương châm “Tiên học lễ, hậu học văn”. Dạy tiếng Việt không có <br /> nghĩa là chỉ  dạy các em kỹ  năng đọc, viết, nghe, nói mà dạy các em biết sử  dụng <br /> những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô cùng quan trọng. Một người <br /> đọc thông, viết thạo tất cả các loại văn bản, song khi giao tiếp lại để lại ấn tượng <br /> xấu, không gây được mối thiện cảm đối với mỗi người thì con người đó có khả <br /> năng sống và làm việc có hiệu quả  không.  Ở  môn Tiếng Việt, tất cả  các bài tập <br /> đọc đều có phần luyện nói theo chủ đề như: Bé và bạn bè; Mai sau khôn lớn; Vâng <br /> lời cha mẹ; Giúp đỡ cha mẹ; Nghề nghiệp của cha mẹ; Những người bạn tốt; Sức  <br /> khỏe là vốn quý nhất. Các tình huống giao tiếp cụ  thể  được lồng ghép trong quá  <br /> trình dạy học, tôi chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự  nhiên hoàn toàn <br /> không gò bó áp đặt. Tôi thường xuyên tổ  chức cho trẻ  luyện nói theo nhóm nhằm <br /> mục đích giúp tất cả các em có thể giao tiếp trực tiếp với nhau. Khuyến khích các <br /> em còn nhút nhát nói nhiều hơn, bước đầu là nói một, hai câu ngắn sau đó dần dần  <br /> các em nói nhiều câu hơn. Sau thời gian quen dần, tôi định hướng cho các em cách <br /> hỏi lẫn nhau để kiểm tra thông tin cũng như khích lệ bạn. <br /> Ví dụ: Khi dạy luyện nói chủ đề: Bé tự giới thiệu bài 41: iêu, yêu, sách giáo <br /> khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 1 trang 85, tôi đưa ra nội dung: Em hãy làm quen với bạn <br /> bằng cách tự giới thiệu. Mở đầu cô giáo tự giới thiệu mình với lớp, sau đó tổ  chức <br /> cho các em đứng thành vòng tròn tự giới thiệu về tên và sở thích của mình. Lúc đầu  <br /> các em rất ái ngại không tự tin khi nói về mình nhưng tôi nhắc nhở những điều cần <br /> chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi trường hòa đồng, thân thiện các em đã <br /> thực hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay  <br /> tự  tin cùng câu nói ngắn gọn “Mình tên là .., mình học  ở…, mình thích và không <br /> thích điều gì, mình rất vui khi được làm quen với bạn”. Trong bài 48: in, un trang 99, <br /> các em biết đi học muộn làm  ảnh hưởng đến các bạn, cô giáo và chính bản thân <br /> mình, từ  đó nhận lỗi và nói lời xin lỗi. Với chủ đề  luyện nói Giúp đỡ  cha mẹ  bài <br /> 88: ip, up trang 13. Các em thực hành hỏi đáp về  những việc mình đã giúp đỡ  cha  <br /> mẹ. Qua chủ đề luyện nói không những tạo cơ hội cho các em mạnh dạn giao tiếp <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 8<br /> Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> trước tập thể  mà còn yêu lao động, tự  giác, chăm làm với những câu nói rõ ràng  <br /> như: Tôi giúp mẹ quét nhà. Tôi thấy vui vì đã làm cho mẹ đỡ  vất vả. Từ đó có thói <br /> quen tham gia lao động không lười nhác. Hay chủ  đề  luyện nói Nghề  nghiệp của  <br /> cha mẹ bài 89: iêp, ươp. Các em hiểu được giá trị của nghề nghiệp, trân trọng nghề <br /> mà cha mẹ mình đang làm, nói lên việc cần làm để  ước mơ  của mình trở  thành sự <br /> thật.<br /> Trong khi dạy Tập đọc hoạt động nói câu có tiếng chứa vần đã học cũng có <br /> tác dụng rất lớn. Dù đó không phải là giao tiếp trong tình huống cụ thể  và mỗi em <br /> chỉ  nói một câu nhưng nó giữ  vai trò rèn luyện cho học sinh nói đủ  câu, diễn đạt  <br /> tường minh và dẫn đến nói câu hay. Khi đó, chúng ta có thể kịp thời điều chỉnh ngay <br /> những lỗi đặt câu của các em. Rõ ràng qua các hình thức tổ  chức như  trên các em <br /> thường tỏ ra rất hào hứng được nói cho bạn mình nghe và nói to, rõ ràng, mạch lạc. <br /> Dạy đạo đức là dạy học sinh những hành vi ứng xử  phù hợp với các chuẩn  <br /> mực đạo đức xã hội và quyền trẻ  em trong các tình huống đơn giản cụ  thể  của  <br /> cuộc sống hằng ngày. Nội dung của môn học đạo đức kết hợp giữa giáo dục quyền <br /> với giáo dục trách nhiệm bổn phận của học sinh. Hơn nữa môn đạo đức không chỉ <br /> giáo dục bổn phận, trách nhiệm của học sinh đối với gia đình, nhà trường, xã hội và <br /> môi trường tự  nhiên, mà còn giáo dục trách nhiệm của các em đối với chính bản  <br /> thân mình. Việc bồi dưỡng hình thành cho các em những phẩm chất đạo đức không <br /> phải là một bài mẫu có sẵn, áp đặt, khuôn mẫu để  học sinh thực hiện theo. Mà <br /> nhiệm vụ của môn học đạo đức lớp Một là giúp các em nắm được những điều sơ <br /> đẳng của phép  ứng xử, chuẩn mực hành vi đạo đức trong cuộc sống hằng ngày. <br /> Qua mỗi bài dạy các em nắm được nội dung và ý nghĩa của chuẩn mực hành vi đạo  <br /> đức trong các hoạt động. Dạy học đạo đức phải là quá trình giáo viên tổ  chức, <br /> hướng dẫn học sinh hoạt động, phát huy vốn kinh nghiệm, thói quen đạo đức, tự <br /> khám phá và xác định các kỹ năng sống cần rèn luyện.<br /> Ví dụ  bài 1. Em là học sinh lớp Một, vở  bài tập đạo đức lớp 1 trang 2, học  <br /> sinh biết quyền được đi học của mình, rèn kĩ năng tự giới thiệu họ tên, kĩ năng giao <br /> tiếp trong cuộc sống. Cụ  thể  khi tổ  chức trò chơi: Vòng tròn giới thiệu, giáo viên <br /> chia mỗi nhóm 5 em, phổ biến cách chơi, cho học sinh thực hiện. Với trò chơi này  <br /> các em đã tự  tin mạnh dạn trước tập thể, biết lắng nghe, có ý thức kỉ  luật và nói <br /> mạch lạc như: Mình tên là Y Ra Him Niê, nhà mình ở buôn Dham, năm nay mình 6 <br /> tuổi. Còn mình tên là H’ Trăm Niê, mình cùng tuổi với các bạn, nhà mình  ở  buôn <br /> Dham, mình rất vui khi được làm quen với các bạn. Bài 2. Gọn gàng sạch sẽ, rèn  kĩ <br /> năng biết ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, biết giữ vệ sinh cá nhân đầu tóc quần áo gọn <br /> gàng trong mọi lúc mọi nơi. Giáo viên quy định cách xếp đồ  dùng sách vở  trong  <br /> ngăn bàn, chỗ  treo cặp  rõ ràng, cụ  thể, vị  trí treo mũ. Giáo viên phân công các tổ <br /> trưởng theo dõi kiểm tra, cuối mỗi giờ học nhận xét tuyên dương những em đã thực <br /> hiện tốt. Giáo viên giúp đỡ động viên những em còn lúng túng chưa thật gọn gàng.  <br /> Dần dần hành vi trở thành thói quen gọn gàng đối với các em. Khi dạy bài Gia đình <br /> em, thông qua tiểu phẩm Chuyện của bạn Long, học sinh biết nhận xét về việc làm  <br /> của bạn Long, dự đoán việc sẽ xảy ra với bạn Long để  từ đó liên hệ với bản thân  <br /> và ra quyết định cho việc làm của mình. Đến hoạt động 2, các em nói lên được sự <br /> quan tâm của bố  mẹ với mình, từ  đó phải làm gì để  đáp lại tình cảm của cha mẹ,  <br /> qua đây rèn kĩ năng ứng xử. Bài 11. Đi bộ đúng quy định, sau khi quan sát tranh, trao  <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 9<br /> Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> đổi thảo luận các em nêu được quy định đối với người đi bộ   ở  đường nông thôn,  <br /> đường phố và hậu quả của việc đi bộ không đúng quy định. Từ  đó phân biệt được <br /> những hành vi đi bộ  đúng quy định và sai quy định. Liên hệ  bản thân và nhắc nhở <br /> bạn mình đi bộ đúng quy định phù hợp với điều kiện giao thông địa phương. Ở bài <br /> này rèn kĩ năng an toàn khi đi bộ, kĩ năng phê phán đánh giá hành vi đi bộ  không <br /> đúng quy định. Khi dạy bài Chào hỏi và tạm biệt tuần 28, 29, rèn kĩ năng giao tiếp, <br /> ứng xử  với mọi người, biết chào hỏi khi gặp gỡ  và tạm biệt khi chia tay.  Cụ  thể <br /> biết chào cô khi đến lớp, khi ra về  biết chào tạm biệt. Qua các giờ  học giáo viên  <br /> chú ý nhắc nhở các em thực hành hành vi đã học. Ví dụ trong các giờ học, học sinh  <br /> chưa có cử  chỉ thể  hiện đúng hành vi đạo đức như: Đưa sách vở  cho cô đưa bằng  <br /> một tay không biết nói lời ''thưa'', ''gửi''. Giáo viên sửa lại hành vi đúng cho các em  <br /> thể hiện lễ phép với thầy cô giáo và người lớn: Em đưa lại bằng hai tay và nói thưa <br /> cô em nộp bài ạ.<br /> Bên cạnh các môn học Toán, Tiếng Việt, Đạo đức, môn Tự  nhiên và Xã hội <br /> cung cấp cho trẻ những kiến thức cơ bản ban đầu về các sự vật, hiện tượng trong <br /> tự nhiên, xã hội và các mối quan hệ của con người xảy ra xung quanh, trang bị cho  <br /> các em những kiến thức cơ bản của bậc học góp phần bồi dưỡng nhân cách toàn  <br /> diện cho trẻ. Vậy làm thế  nào để  trẻ  có các kĩ năng cơ  bản vận dụng trong cuộc  <br /> sống hằng ngày. Đây chính là kết quả của quá trình giáo dục. Chính vì thế trong các  <br /> bài học, giáo viên lựa chọn tổ chức cho các em thực hành ngay, thông qua việc thực  <br /> hành giúp các em bước đầu có kĩ năng. Ví dụ với bài 5: Vệ sinh thân thể, sách giáo <br /> khoa Tự nhiên và Xã hội lớp 1 trang 14, giáo viên cho các em quan sát tranh trao đổi <br /> với nhau về  nội dung trong tranh để  nắm được các việc nên và không nên làm để <br /> giữ vệ sinh thân thể. Biết vì sao phải tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ và không nên <br /> tắm chung với trâu bò, những việc cần làm để giữ chân, tay sạch sẽ như cắt móng <br /> tay, rửa chân, rửa tay bằng nước sạch. Sau đó cho các em liên hệ việc đã làm để giữ <br /> vệ  sinh thân thể  rồi thực hành. Qua bài học rèn kĩ năng tự  phục vụ  bản thân. Hay <br /> khi dạy bài 8: Ăn uống hằng ngày, trang 18, giáo viên cho học sinh quan sát tranh <br /> thảo luận nêu lên các loại thức ăn cần thiết cho các bữa ăn trong ngày, vì sao phải  <br /> ăn đủ  các loại thức ăn đó, sau đó kể  về  bữa ăn của gia đình mình. Cuối cùng tổ <br /> chức trò chơi “đi chợ”. Mỗi đội cử một bạn đi chợ, nhiệm vụ của bạn là mua đầy <br /> đủ các loại thức ăn đảm bảo các chất đạm, chất béo, vi ta min, khoáng,… theo quy  <br /> định. Sau khi đi chợ, các em phải nói được vì sao trong một bữa ăn cần đảm bảo các <br /> chất dinh dưỡng. Từ đó các em biết được vì sao cần ăn uống đầy đủ hằng ngày để <br /> mau lớn, khỏe mạnh, biết ăn nhiều loại thức ăn và uống đủ nước. Ở bài này rèn  kĩ <br /> năng làm chủ bản thân, phát triển kĩ năng tư duy. Đối với bài 9: Hoạt động và nghỉ <br /> ngơi, các em nắm được tác dụng của một số hoạt động nghỉ ngơi đúng cách có lợi  <br /> cho sức khỏe từ đó biết sắp xếp thời gian biểu để học tập và vui chơi cho phù hợp.  <br /> Ở hoạt động 1, giáo viên cho học sinh kể về hoạt động mà mình đã làm hoặc chơi <br /> cùng với bạn, thông qua đó giáo dục kĩ năng tìm kiếm và xử  lí. Sang hoạt động 3,  <br /> các em được đóng vai về các hoạt động làm việc, nghỉ ngơi, đứng ngồi đúng tư thế. <br /> Thông qua trò chơi đóng vai giáo dục kĩ năng quan sát phân tích, kĩ năng tự  nhận <br /> thức, phát triển kĩ năng giao tiếp cho các em.  Ở  bài 10: Ôn tập con người và sức  <br /> khỏe, để khắc sâu kiến thức cơ bản về các bộ phận bên ngoài và các giác quan của  <br /> cơ thể, giáo viên chia lớp thành ba đội, phổ biến luật chơi, quy đinh thời gian, tiến <br /> hành cho các em chơi trò chơi “Ai gọi tên các bộ  phận bên ngoài cơ  thể  nhanh <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 10<br /> Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> nhất?”, hết thời gian, đội nào nói được đầy đủ  tên các bộ  phận bên ngoài của cơ <br /> thể trước thì đội đó thắng cuộc. Thông qua trò chơi rèn cho các em kĩ năng hợp tác, <br /> mạnh dạn trước tập thể. Từ đó có ý thức tự giác thực hiện nếp sống hợp vệ sinh,  <br /> khắc phục những hành vi có hại cho sức khỏe và nêu được việc thường làm vào các <br /> buổi trong ngày để giữ vệ sinh thân thể hằng ngày. Việc giúp các em có kĩ năng xử <br /> lí những tình huống khi có tai nạn thương tích cũng rất quan trọng. Bởi khi ở nhà có  <br /> những lúc các em sử dụng dao để gọt quả hoặc đến gần bếp lửa không may bị đứt  <br /> tay, bị bỏng. Qua bài 14: An toàn khi ở nhà, trong hoạt động 1, tôi cho các em thảo <br /> luận nhóm giúp các em có kĩ năng ra quyết định nên hay không nên làm gì để phòng  <br /> tránh đứt tay chân, bỏng, điện giật, kĩ năng tự  bảo vệ,  ứng phó với các tình huống <br /> khi  ở  nhà, phát triển kĩ năng giao tiếp thông qua tham gia các hoạt động học tập.  <br /> Hoạt động 2, các em được đóng vai xử  lí tình huống khi có tai nạn như: Cầm dao  <br /> nhọn cắt quả bị chảy máu, trông em giúp mẹ nhưng em đến gần bếp lửa. Các nhóm <br /> sẽ thảo luận sau đó lên thể hiện, những em còn lại quan sát và có nhận xét đối với <br /> những tình huống mà các bạn mình vừa xử lí để rút ra kĩ năng cấp cứu khi có những  <br /> trường hợp xấu xảy ra. <br /> Nói tóm lại ngoài việc rèn luyện đạo đức, học tập tốt thì rèn luyện sức khỏe  <br /> tốt cho học sinh là điều phải được chú ý, giáo dục kĩ năng sống chỉ thành công khi <br /> các em có ý thức, thái độ với mọi người trong gia đình; hòa đồng với bạn bè; tự tin  <br /> khi nói chuyện, nhạy bén khi xử lí tình huống, dám đương đầu với thử  thách vượt <br /> qua khó khăn để đạt được mục tiêu và chịu trách nhiệm về việc làm của bản thân. <br /> Hiệu quả của việc giáo dục kỹ năng sống không thể nhìn thấy ngay lập tức và quá  <br /> trình giáo dục rèn kỹ  năng sống là một quá trình suốt đời.  Mức độ  nhận thức của <br /> học sinh lớp 1 vốn rất đơn giản, chưa bền vững và rất dễ thay đổi. Bởi vậy nên ta <br /> hãy bắt đầu từ cái nhìn thấy, nghe thấy, từ ví dụ cụ thể, gần gũi với cuộc sốn g, sau <br /> đó nâng lên tầm “lý thuyết chung” để “khái quát” và “kết luận”.<br /> Thứ tư: Rèn kĩ năng<br /> Trong giờ  học,  cần rèn cho các em những kĩ năng  như  có tư  thế  ngồi học <br /> đúng, chú ý nghe giảng, vệ sinh hằng ngày ngay từ những việc làm nhỏ nhất, trong <br /> phạm vi nhỏ  nhất như gia đình, lớp học. Sau mỗi bài học, môn học, giáo viên cho  <br /> các em liên hệ thực tế bằng những câu hỏi Em đã làm gì? Sẽ làm gì? và đưa ra các <br /> tình huống cụ thể để học sinh mình trải nghiệm.  Các em thích tham gia vào một số <br /> hoạt động xã hội mang tính tập thể  (đôi khi tham gia tích cực hơn cả  trong gia  <br /> đình). Đặc biệt là các em muốn thừa nhận mình là người lớn, muốn được nhiều  <br /> người biết đến mình. Hãy cho các em cơ  hội làm người lớn, được đóng vai “thầy <br /> giáo”, “cha mẹ”. Hãy cho các em những trọng trách lớn: làm lớp trưởng, tổ trưởng,  <br /> nhóm trưởng, đội trưởng để  các em được khẳng định bản thân. Kỹ  năng sống sẽ <br /> hình thành một cách tự nhiên và hiệu quả trong những môi trường hoạt động cụ thể <br /> chứ không từ  những bài giảng trên lớp. Chỉ từ  những bài giảng, các em không thể <br /> tự hình thành kỹ năng sống cho mình mà chỉ có thể hình dung chung về nó. Vì vậy, <br /> khi cho các em được sắm vai để trải nghiệm đó là<br /> cách giáo dục tốt nhất. Từ  làm đến hiểu, hãy cho học sinh được chơi, được tham <br /> gia, rồi các em sẽ hiểu. Cái hiểu như thế sâu sắc và nhớ lâu hơn.<br /> <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 11<br /> Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> Ví dụ: Mỗi lần thảo luận nhóm, tôi lại cho các em bầu nhóm trưởng, các em <br /> thay nhau tập điều khiển nhóm mình hoạt động, có như vậy mới tạo cơ hội để các  <br /> em mạnh dạn tự tin.<br /> Vào giờ  chơi, tôi  tổ  chức cho các em đọc  những  mẩu truyện tranh về  giáo <br /> dục kỹ  năng sống. Lúc đó thấy các em rất hào hứng. Khi các em xếp hàng ra về, <br /> không bao giờ tôi quên dặn các em đi đúng phần đường của mình hoặc nhớ đội mũ <br /> bảo hiểm khi ngồi trên xe máy, và nhớ kể cô nghe những hoạt động con làm ở nhà <br /> vào sáng hôm sau. Học sinh lớp một mà, các em sẽ  kể  hết những gì xảy ra  ở  gia  <br /> đình và chúng ta phải biết rằng khi trẻ  kể  mọi chuyện với mình là chúng đã đặt  <br /> niềm tin tuyệt đối vào ta. Khi đó công tác giáo dục sẽ thuận lợi hơn nhiều.<br /> Với học sinh lớp Một, chẳng gì bằng những thứ  mà hằng ngày các em nhìn  <br /> thấy, nghe thấy sẽ có hiệu quả hơn là những lời nói xáo rỗng. Bằng hình ảnh, các  <br /> em sẽ dễ dàng hình dung ra những việc mình nên làm và không nên làm. Bởi vì thế,  <br /> ngay những buổi tựu trường đầu năm học, hay những tiết sinh hoạt lớp các em lại <br /> cùng cô giáo trang trí lớp học của mình. Đặc biệt học sinh lớp Một có một điểm  <br /> chung là  ưa hoạt động, thích làm việc nhưng lại mau chán. Tôi luôn cùng các em <br /> quét lớp, nhặt rác, nhổ cỏ, rửa tay, chỉ các em cách đi vệ sinh và giữ gìn vệ sinh. Khi  <br /> có giáo viên cùng làm, các em làm việc nghiêm túc hơn, tự giác hơn và rất có hiệu <br /> quả. Bởi thế trước mắt các em, tôi luôn là người chị, người mẹ hơn là một cô giáo. <br /> Tôi luôn lắng nghe những tâm tư tình cảm của các em để từ đó có hướng giáo dục <br /> tốt nhất. Người ta thường nói: “Gieo suy nghĩ gặt hành động. Gieo hành động gặt <br /> thói quen. Gieo thói quen gặt tính cách. Gieo tính cách gặt số phận”. Vào những tiết <br /> sinh hoạt tập thể, ngoài việc nhận xét, nhắc nhở các hoạt động học tập trong tuần,  <br /> tôi luôn dành phần lớn thời gian để các em sinh hoạt tập thể như: ca hát, đóng kịch,  <br /> các trò chơi hay các cuộc triển lãm nho nhỏ, kiểm tra vệ sinh cá nhân hay đồ  dùng  <br /> học tập. Qua đó rèn cho học sinh các kĩ năng như vệ sinh cá nhân, kĩ năng giao tiếp,<br /> … <br /> Có thể nói tất cả những cử chỉ, hành động của chúng ta trong con mắt trẻ thơ <br /> luôn là khuôn mẫu. Vì thế  người giáo viên phải luôn mẫu mực trong mọi cử  chỉ,  <br /> hành động, lời nói, phải nghiêm minh, công bằng khách quan trong đánh giá học <br /> sinh. Giáo viên cần gương mẫu về  mọi mặt như:   về  trang phục và thời gian làm <br /> việc; về  chào hỏi, xưng hô, xã giao, khi tiếp đón khách, tiếp dân, ứng xử  trong sử <br /> dụng điện thoại, ứng xử  trong liên hoan,  ứng xử  đối với những bất đồng, mâu <br /> thuẫn, ứng xử trong công bố, tiếp nhận thông tin.<br /> Ví dụ:  Khi chuẩn bị bước vào hội thi “Viết chữ đẹp cho giáo viên Tiểu học  <br /> cấp huyện”, trường tôi có tổ  chức thi lựa chọn những giáo viên xuất sắc để  tham <br /> gia. Hằng ngày trên lớp, vào giờ ra chơi tôi thường luyện viết bảng. Khi luyện viết,  <br /> tôi thường gọt phấn để  viết chữ  có nét thanh nét đậm. Thế  rồi, bẵng đi một thời <br /> gian, vào các buổi dạy tôi thường thấy  ở  lớp có nhiều bụi phấn. Ban đầu tôi rất  <br /> ngạc nhiên, nhưng sau một hồi hỏi han, tôi phát hiện học trò đã dùng kéo gọt phấn  <br /> để  luyện viết bảng con. Lúc đó, tôi đã hiểu, có những thứ  tôi không cần dạy mà <br /> học trò vẫn học được từ tôi.<br />   Như chúng ta đã biết ở học sinh lớp 1, các em tham gia các hoạt động học  <br /> tập dưới hình thức: "Chơi mà học, học mà chơi". Không có cách giáo dục nào hiệu  <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 12<br /> Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> quả hơn là tổ chức các trò chơi học tập. Khi tham gia trò chơi, các em sẽ cảm thấy <br /> hứng thú, thoải mái, phát huy tính độc lập, khả năng tư duy sáng tạo, sự nhanh trí và <br /> cả  tinh thần tập thể.  Có rất nhiều  trò chơ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2