Chuyên đề Trách nhiệm xã hội: Nghiên cứu đánh giá bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và 1 phần nhỏ bộ tiêu chuẩn ISO 14000 được áp dụng ở Việt Nam có những mặt tích cực cũng như những thiếu xót cần phải khắc phục
lượt xem 18
download
Đề tài giới thiệu bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000, phân tích đánh giá việc áp dụng tại Việt Nam, những ưu khuyết điểm cần, kết luận – kiến nghị đánh giá thực trạng cũng như các biện pháp khắc phục. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chuyên đề Trách nhiệm xã hội: Nghiên cứu đánh giá bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và 1 phần nhỏ bộ tiêu chuẩn ISO 14000 được áp dụng ở Việt Nam có những mặt tích cực cũng như những thiếu xót cần phải khắc phục
- LỜI MỞ ĐẦU 1/ Lý do chọn đề tài: Với việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sân chơi WTO, sự phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế trong khu vực và trên trên thế giới. Đất nước ta dần dần đổi mới sau chiến tranh và hiện nay đang có những bước tiến quan trọng trong các lĩnh vực về văn hóa kinh tế, xã hội đặc biệt là trong sản xuất kinh doanh. Việc cạnh tranh và phát triển là nhu cầu tất yếu của các doanh nghiệp nhà nước lẫn tư nhân. Vì thế việc các doanh nghiệp cần có những chính sách hợp lý cũng như xây dựng được những đội ngũ nhân viên lành nghề trình độ kỹ thuật và áp dụng các công nghệ vào sản xuất là điều thiết yếu. Giúp được doanh nghiệp có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt không những trong nước mà còn vươn ra tầm thế giới. Chính vì thế việc tìm kiếm lợi nhuận và thu hút được vốn – nhân tài chính là mục tiêu hàng đầu và cũng là mối quan tâm tất yếu của các doanh nghiệp trong thời buổi kinh tế ngày càng cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Do việc chạy theo l ợi nhu ận được đặt lên hàng đầu mà một số doanh nghiệp đã bất chấp chất lượng sản phẩm, làm ra những sản phẩm kém chất lượng, lỗi và gây ảnh hưởng lớn cho người tiêu dùng. Đồng thời rất nhiều doanh nghiệp cũng không hề quan tâm đến việc sử lý chất thải độc hại mà thải trực tiếp ra môi trường gây ảnh hưởng đến đời sống dân cư ở các con sông, cũng như các ao hồ. Các vụ việc tiêu biểu như công ty Vedan xả nước thải trực tiếp xuống sông thuộc tỉnh Đồng Nai, hoặc việc công ty AC Food bị lực lượng chức năng phát hiện hơn 3600 hộp sữa kém chất lượng tại địa bàn thành phố Cần Thơ…. Qua những vụ việc trên làm dấy lên hồi chuông báo động về chất lượng sản phẩm cũng như trách nhiệm của các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Và câu hỏi được đặt ra ở đây là các doanh nghiệp ngoài việc đặt lợi ích cá nhân vì mục tiêu làm giàu còn phải quan tâm đến trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội và con người. Vậy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở đây là gì ? Trong một bài báo viết cho tờ New York Times tháng 9/1970, Milton Friedman nêu rõ: “Doanh nghiệp chỉ có một trách nhiệm duy nhất là tối đa hóa lợi nhuận, gia tăng giá trị cổ đông, trong khuôn khổ luật chơi của thị truờng là cạnh tranh trung thực và công bằng.” Theo ông, nguời quản lý doanh nghiệp (thành viên hội dồng quản trị và ban giám đốc) là những nguời dại diện cho chủ sở hữu/ cổ dông đứng ra quản lý công ty. Họ được bầu hoặc đuợc thuê để dẫn dắt công ty theo cách mà các cổ đông muốn, đa phần là làm ra lợi nhuận càng nhiều càng tốt, dồng thời tuân thủ các quy tắc xã hội cơ bản vốn đã được thể hiện trong luật và các nguyên tắc đạo đức phổ biến. Ðó chính là bản chất vì lợi nhuận (forprofit) của doanh nghiệp và nguời quản lý doanh nghiệp chỉ có trách nhiệm đối với cổ đông là người chủ sở hữu công ty đã lựa chọn họ để làm đại diện. Do đó, nếu nguời quản lý công ty muốn, anh ta có toàn quyền để thực hiện các trách nhiệm xã hội dựa trên nhận thức và tình cảm của riêng mình và bằng thời gian và tiền bạc của cá nhân, nhưng không
- được sử dụng nguồn lực của công ty và nhân danh công ty, nếu không được cổ đông ủy thác để làm việc đó. Thứ hai, công ty vốn là một chủ thể “vô tri vô giác” do con người tạo ra; do đó công ty không thể tự nhận thức và gánh vác nghĩa vụ đạo đức vốn chỉ có con nguời mới có. Bởi vì chỉ có từng cá nhân con nguời mới có lương tâm để nhận thức sự việc đúng sai. Hơn nữa, các trách nhiệm xã hội thuộc lĩnh vực của nhà nuớc, là chủ thể cung cấp các dịch vụ công, vì lợi ích công cộng và phi lợi nhuận. Chỉ có nhà nuớc mới có đủ thông tin để quyết định đúng đắn trong việc phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả. Và cấu trúc tam quyền phân lập đã đảm bảo sự phân bổ đó được công bằng và có kiểm soát. Trách nhiệm của doanh nghiệp là tạo ra giá trị gia t ăng, phát triển công nghệ (bởi vì doanh nghiệp là chủ thể vì lợi nhuận duy nhất trong xã hội), đem lại lợi nhuận, tạo ra việc làm và thu nhập cho nguời lao động. Trách nhiệm chính của doanh nghiệp đối với nhà nước là đóng góp thuế. Và trách nhiệm của nhà nuớc là làm sao sử dụng tiền thuế đó hiệu quả nhất vì lợi ích công cộng. Như vậy, nếu doanh nghiệp cùng thực hiện các trách nhiệm xã hội thì sẽ có sự trùng lặp và doanh nghiệp sẽ trở thành người vừa đóng thuế, vừa quyết dịnh việc chi tiêu khoản thuế đó ra sao. Người quản lý doanh nghiệp khi ấy sẽ trở thành một nhân viên công vụ hơn là một người đại diện cho lợi ích của cổ đông. Mặt khác, kể cả khi một nguời quản lý doanh nghiệp đuợc sử dụng nguồn lực của công ty để thực hiện trách nhiệm xã hội dựa trên phán đoán chủ quan của mình, thì không có gì đảm bảo rằng quyết dịnh của anh ta là sáng suốt và đúng đắn cho mục tiêu xã hội cuối cùng, vì anh ta không phải là một chuyên gia về xã hội, mà là một chuyên gia về quản lý và kinh doanh và đó là lý do anh ta được cổ đông cử làm đại diện và gửi gắm niềm tin trong việc quản lý doanh nghiệp. Do đó, nếu muốn thực hiện trách nhiệm xã hội, các cổ dông có thể làm với tư cách cá nhân, tự nguyện và tách biệt với công ty (vốn có sở hữu của cả các cổ đông khác) mà không nên thông qua công ty và những người quản lý công ty. Từ quan điểm này, truờng phái phản đối CSR cho rằng các chuong trình của doanh nghiệp lấy tên “trách nhiệm xã hội” chỉ là những chuong trình PR đạo đức giả, mà thực chất mục tiêu cuối cùng vẫn là vì lợi nhuận của doanh nghiệp mà thôi. Những nguời ủng hộ CSR không bác bỏ toàn bộ những lập luận trên. Nhưng họ đưa ra một lập luận khác cũng hết sức thuyết phục là bản thân công ty khi đi vào hoạt động đã là một chủ thể của xã hội, sử dụng nguồn lực của xã hội và môi truờng, do dó có thể tác động tiêu cực tới xã hội và môi truờng. Vì vậy, doanh nghiệp phải có ý thức về những tác động từ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và có trách nhiệm với chính hành vi của mình trước xã hội. Henry Mintzberg đã lấy ví dụ công ty Dow Chemicals quyết định bán chất Napalm cho quân đội Mỹ dể sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, để lại hậu quả nặng nề cho hàng triệu nạn nhân chất dộc da cam [5]. Có thể nói bản chất của doanh nghiệp không thể chỉ
- vì lợi nhuận mà doanh nghiệp ngay từ đầu đã đóng vai trò của một “công dân” trong xã hội với tất cả nghĩa vụ và quyền lợi thích hợp của mình trong đó. Chính khái niệm “công dân doanh nghiệp” (corporate citizenship) đã ra đời trong trào lưu CSR này. Thực vậy, nếu chỉ nhìn nhận đơn giản khi cho rằng doanh nghiệp hoạt động duy nhất vì lợi nhuận và bù dắp lại chi phí xã hội, cung nhu “trả tiền” cho các dịch vụ công mà doanh nghiệp huởng lợi thông qua việc đóng thuế, chúng ta sẽ thấy những ô nhiễm môi truờng và chi phí xã hội mà doanh nghiệp gây ra có thể lớn hơn rất nhiều lần lợi ích mà công ty này mang lại từ tiền thuế hay tạo việc làm (như truờng hợp công ty Vedan). Doanh nghiệp không thể kêu gọi sự “trung tính” của mình. Tất cả sự kiện của doanh nghiệp như khai trương dòng sản phẩm mới, đặt một nhà máy, đóng cửa một chi nhánh…. đều kéo theo những hệ quả xã hội nhất dịnh. Do đó, không thể tách rời hoàn toàn giữa tính chất kinh tế và xã hội khi nhìn nhận bản chất và hoạt động của doanh nghiệp. Và nguời quản lý với tư cách là người thác quản doanh nghiệp cần thực hiện các trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp vì nghĩa vụ và lợi ích của chính doanh nghiệp mình. Trách nhiệm của họ không phải là việc quyết định điều gì tốt hay xấu cho xã hội, mà là đáp ứng những điều mà xã hội mong muốn và trông đợi ở doanh nghiệp như một thành viên đầy đủ trong đó. CSR chính là lực cản cuối cùng giúp giữ doanh nghiệp không đi quá đà vì lợi ích kinh tế mà vi phạm các chuẩn mực đạo đức (vốn không phải lúc nào cũng được thể hiện đầy đủ bằng các quy định pháp luật), bỏ quên những tác động tiêu cực của mình đến các thành phần khác trong xã hội. Doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội còn vì lợi ích tăng trưởng và phát triển bền vững của chính mình. Ðiều tra của Bowman & Haire từ năm 1973 đã cho thấy nhóm các công ty cam kết với CSR có tỷ lệ lợi nhuận trên vốn (ROE) cao hơn các công ty khác (14.7% so với 10.2%). Khác với mô hình công ty gia đình trước kia, doanh nghiệp hiện đại thường là các công ty cổ phần đại chúng, hoạt động đa ngành nghề, đa quốc gia. Do đó, ngày nay doanh nghiệp không chỉ hoạt động trong môi trường đơn nhất được giám sát bởi các cơ chế thị trường thuần túy kinh tế (giá cả, cạnh tranh, thị truờng chứng khoán), mà còn chịu tác dộng của các cơ chế xã hội chính trị môi trường. Ðáng chú ý, hai hệ thống này có sự tác động qua lại với nhau. Thực tế cho thấy nguời tiêu dùng và nhà đầu tư ngày càng tính đến các tiêu chí thành tích của công ty về đạo đức, lao động, môi trường, xã hội trong các quyết định tiêu dùng hay đầu tư của mình. Hơn thế nữa, không chỉ liên quan đến tính cạnh tranh, CSR còn liên quan trực tiếp đến tính bền vững của công ty. Những vụ đổ vỡ của tập đoàn Enron, công ty kiểm toán Arthur Anderson, hoặc ngay vụ các cây xăng gian lận bị rút giấy phép là những minh chứng rõ nét nhất cho thấy rằng thiếu CSR, doanh nghiệp sẽ tự loại mình ra khỏi thị trường và cộng đồng doanh nghiệp. CSR đã trở thành một phong trào thực thụ và trưởng thành, phát triển rộng khắp thế giới. Nếu chúng ta tra cứu các cụm từ có gốc “trách nhiệm xã hội của doanh
- nghiệp” bằng tiếng Anh trên Google, chúng ta sẽ thấy có hơn 70 triệu lượt tìm kiếm (chưa kể các cụm từ về CSR ở từng nước cụ thể). Hàng vạn bài báo, nghiên cứu, sách, tạp chí, diễn đàn, trang web của các tổ chức NGOs, giới khoa học, doanh nghiệp, tư vấn, báo chí và chính phủ bàn về chủ đề CSR. Nguời tiêu dùng tại các nước ÂuMỹ hiện nay không chỉ quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà còn coi trọng cách thức các công ty làm ra sản phẩm đó, có thân thiện với môi trường sinh thái, cộng đồng, nhân đạo, và lành mạnh. Nhiều phong trào bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và môi trường phát triển rất mạnh, chẳng hạn như phong trào tẩy chay thực phẩm gây béo phì (fringe foods) nhằm vào các công ty sản xuất đồ ăn nhanh, nước giải khát có ga; phong trào thương mại công bằng FairTrade (bảo đảm điều kiện lao động và giá mua nguyên liệu của nguời sản xuất ở các nước thế giới thứ 3), phong trào tẩy chay sản phẩm sử dụng lông thú, tẩy chay sản phẩm bóc lột lao động trẻ em (nhằm vào công ty Nike, Gap), phong trào tiêu dùng theo lương tâm (shopping with a conscience)… Truớc áp lực từ xã hội, hầu hết các công ty lớn đã chủ động đưa CSR vào chương trình hoạt động của mình một cách nghiêm túc. Hàng nghìn chương trình đã được thực hiện như tiết kiệm năng lượng, giảm khí thải carbon, sử dụng vật liệu tái sinh, năng luợng mặt trời, cải thiện nguồn nước sinh hoạt, xóa mù chữ, xây dựng trường học, cứu trợ, ủng hộ nạn nhân thiên tai, thành lập quỹ và trung tâm nghiên cứu vắcxin phòng chống Aids và các bệnh dịch khác ở các nước nhiệt đới, đang phát triển. Có thể kể đến một số tên tuổi đi đầu trong các hoạt động này nhu TNT, Google, Intel, Unilever, CocaCola, GE, Nokia, HSBC, Levi Strauss, GlaxoSmithKline, Bayer, DuPont, Toyota, Sony, UTC, Samsung, Gap, BP, ExxonMobil…. . Theo tổ chức Giving USA Foundation, số tiền các doanh nghiệp đóng góp cho các hoạt động xã hội trên toàn thế giới lên đến 13,77 tỷ USD (năm 2005) và gần 1.000 công ty được đánh giá là “công dân doanh nghiệp tốt”. Nổi bật là trường hợp ngân hàng Grameen do TS. Muhammad Yunus đã cung cấp tín dụng vi mô cho 6,6 triệu người, trong đó 97% là phụ nữ nghèo ở Bangladesh vay tiền để cải thiện cuộc sống (ông đã được trao giải Nobel hòa bình năm 2006). Hiện nay, hầu hết các công ty đa quốc gia đều xây dựng các bộ quy tắc ứng xử (code of conduct) có tính chất chuẩn mực áp dụng đối với nhân viên của mình trên toàn thế giới. Lợi ích đạt được qua những cam kết CSR đã được ghi nhận. Không những hình ảnh công ty được cải thiện trong mắt công chúng và người dân địa phương giúp công ty tăng doanh số bán hàng hay thực hiện các thủ tục đầu tư được thuận lợi hơn, mà ngay trong nội bộ công ty, sự hài lòng và gắn bó của nhân viên với công ty cũng tăng lên, cũng như các chương trình tiết kiệm năng lượng giúp giảm chi phí hoạt động cho công ty không nhỏ. Có thể nói CSR đã có chỗ đứng khá vững chắc trong nhận thức của giới doanh nghiệp. Một số trung tâm, viện nghiên cứu về trách nhiệm doanh nghiệp đã được các trường đại học ở Mỹ thành lập. 78% sinh viên ngành quản trị doanh nghiệp cho rằng chủ đề CSR nên được đưa vào các chương trình giảng dạy. Trong cuộc khảo sát của công ty McKinsey năm 2007, 4 84% số quản trị viên cao cấp được hỏi cho
- rằng việc đóng góp vào các mục tiêu xã hội của cộng đồng cần được tiến hành song song với việc gia tăng giá trị cổ đông, trong khi chỉ có 16% cho rằng lợi nhuận là mục tiêu duy nhất. 51% và 48% ý kiến lần lượt cho rằng môi truờng (trong số 15 vấn đề chính trị xã hội khác nhau) là vấn dề hàng dầu tập trung sự chú ý của công luận, và có ảnh huởng tiêu cực hoặc tích cực nhất đối với giá trị cổ đông trong năm năm tới. Khi được hỏi về ảnh huởng xấu mà các công ty lớn có thể gây ra cho cộng đồng, 65% trả lời ô nhiễm môi truờng, 40% đặt lợi nhuận lên trên sức khỏe con nguời, 30% gây áp lực chính trị. Về các ảnh huởng tích cực mà doanh nghiệp đem lại thì tạo việc làm được xếp cao nhất (65%), tiến bộ khoa học công nghệ (43%), cung cấp sản phẩm dịch vụ cho nhu cầu con nguời (41%), nộp thuế (35%). Cũng từ đó các bộ tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm cũng như môi trường đã ra đời nhằm bảo vệ người tiêu dùng cũng như góp phần đảm bảo môi trường sống cho con người.Do đó các bộ tiêu chuẩn về ISO 9000,9001ISO 14000…đã được rất nhiều doanh nghiệp hiện đã và đang áp dụng cho công ty của mình. Vậy nội dung chính cũng như những yêu cầu chủ yếu của những bộ tiêu chuẩn như ISO 9000 – 14000 là gì? Cách thực hiện nó và áp dụng ở Việt Nam hiện nay có gì khó khăn cũng như thuận lợi phù hợp với luật pháp cũng như những yêu cầu của xã hội Việt Nam hay không. Vì thế em muốn tìm hiểu và đánh giá khách quan về 2 bộ tiêu chuẩn trên như là điển hình được các doanh nghiệp hiện đang áp dụng có hiệu quả ra sao ở Việt Nam. Và cũng là lý do để em chọn đề tài: “ Nghiên cứu đánh giá bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và 1 phần nhỏ bộ tiêu chuẩn ISO 14000 được áp dụng ở Việt Nam có những mặc tích cực cũng như những thiếu xót cần phải khắc phục”. Nội dung của chuyên đề này chủ yếu xoáy quanh các vấn đề sau: _ Giới thiệu bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000. _ Phân tích đánh giá việc áp dụng tại Việt Nam _ Những ưu khuyết điểm cần. _ Kết luận – kiến nghị đánh giá thực trạng cũng như các biện pháp khắc phục. 2/ Đối tượng phạm vi tìm hiểu – nghiên cứu: 2.1/ Đối tượng nghiên cứu: Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 – ISO 14000. Các văn bản luật do nhà nước Việt Nam ban hành có liên quan. 2.2/ Phạm vi:
- Tại Việt Nam trong khoảng thời gian từ đầu tháng 4 đến 12/5/2010. 2.3/ Giới thiệu bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000. a/ Bộ tiêu chuẩn ISO 9000. Bộ Tiêu chuẩn ISO 9000 qui tụ kinh nghiệm của Quốc tế trong lĩnh vực quản lý và đảm bảo chất lượng trên cơ sở phân tích các quan hệ giữa người mua và người cung cấp (nhà sản xuất). I. Ý nghĩa của Bộ Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000 Bộ Tiêu chuẩn ISO 9000 qui tụ kinh nghiệm của Quốc tế trong lĩnh vực quản lý và đảm bảo chất lượng trên cơ sở phân tích các quan hệ giữa người mua và người cung cấp (nhà sản xuất). Đây chính là phương tiện hiệu quả giúp các nhà sản xuất tự xây dựng và áp dụng hệ thống bảo đảm chất lượng ở cơ sở mình, đồng thời cũng là cũng là phương tiện để bên mua có thể căn cứ vào đó tiến hành kiểm tra người sản xuất, kiểm tra sự ổn định của sản xuất và chất lượng trước khi ký hợp đồng. ISO 9000 đa ra các chuẩn mực cho một hệ thống chất lượng và có thể áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. ISO 9000 Hướng dẫn các tổ chức cũng như các doanh nghiệp xây dựng một mô hình quản lý thích hợp và văn bản hoá các yếu tố của hệ thống chất lượng theo mô hình đã chọn. II. cấu trúc của Bộ Tiêu chuẩn ISO 9000 Bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2000 bao gồm nhiều tiêu chuẩn. Trong đó tiêu chuẩn chính ISO 9001: Hệ thống quản lý chất lượng, các yêu cầu, nêu ra các yêu cầu đối với hệ thống quản lý chất lượng mà doanh nghiệp cần phải đáp ứng. Ngoài ra còn các tiêu chuẩn hỗ trợ và Hướng dẫn thực hiện, bao gồm: ∙ISO 9000: thuật ngữ và định nghĩa ∙ISO 9004: Hướng dẫn cải tiến hiệu quả ∙ISO 19011: Hướng dẫn đánh giá hệ thống quản lý ISO 9001 là tiêu chuẩn chính nêu ra các yêu cầu đối với hệ thống chất lượng và bao quát đầy đủ các yếu tố của hệ thống quản lý chất lượng. Doanh nghiệp khi xây dựng hệ thống theo tiêu chuẩn này cần xác định phạm vi áp dụng tuỳ theo hoạt động thực tế của doanh nghiệp. ISO 9001: 2000 quy định các yêu cầu đối với một hệ thống quản lý chất lượng cho các tổ chức cần chứng tỏ khả năng cung cấp một cách ổn định sản phẩm thoả mãn các yêu cầu của khách hàng. Tiêu chuẩn ISO 9001:2000 đã được sắp xếp lại d ới dạng tiện dụng cho người sử dụng với các từ vựng dễ hiểu đối với doanh nghiệp trong tất cả các lĩnh vực. Tiêu chuẩn này dùng cho việc chứng nhận và cho các mục
- đích cá biệt khác khi tổ chức muốn hệ thống quản lý chất lượng của mình được thừa nhận. Tiêu chuẩn bao gồm 5 phần, quy định các hoạt động cần thiết phải xem xét trong khi triển khai hệ thống chất lượng. 5 phần trong ISO 9001: 2000 quy định những gì một tổ chức phải làm một cách nhất quán để cung cấp các sản phẩm đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và yêu cầu pháp định, chế định được áp dụng. Thêm vào đó, tổ chức phải tìm cách nâng cao sự thoả mãn của khách hàng bằng cách cải tiến hệ thống quản lý của mình. ISO 9004: 2000 được sử dụng nhằm mở rộng hơn những lợi ích đạt được từ ISO 9001: 2000 không những đối với bản thân tổ chức mà còn đối với tất cả các bên liên quan đến hoạt động của tổ chức. Các bên liên quan bao gồm nhân viên, chủ sở hữu, các người cung ứng của tổ chức, và rộng hơn là cả xã hội. ISO 9001: 2000 và ISO 9004 : 2000 đã được xây dựng nh là một cặp thống nhất của bộ tiêu chuẩn để làm thuận tiện hơn trong việc sử dụng. Sử dụng tiêu chuẩn theo cách này sẽ làm chúng ta có thể liên kết nó với các hệ thống quản lý khác (ví dụ như Hệ thống quản lý môi trường), hoặc những yêu cầu cụ thể trong một số lĩnh vực (ví dụ nh: ISO/TS/6949 trong ngành công nghiệp ô tô) và giúp cho việc đạt được sự công nhận thông qua các chương trình chứng nhận quốc gia. Cả ISO 9004: 2000 và ISO 9001: 2000 thống nhất về bố cục và từ vựng nhằm giúp tổ chức chuyển một cách thuận tiện từ ISO 9001: 2000 sang ISO 9004: 2000 và ng ợc lại. Cả hai tiêu chuẩn đều sử dụng phương pháp tiếp cận quá trình. Các quá trình được xem như bao gồm một hay nhiều hoạt động có liên kết, có yêu cầu nguồn lực và phải được quản lý để đạt được đầu ra quy định trước. Đầu ra của một quá trình có thể trực tiếp tạo thành đầu vào của một quá trình tiếp theo và sản phẩm cuối cùng thờng là kết quả của một mạng l ới hoặc một hệ thống các quá trình. Để cho bộ ISO 9000 duy trì được tính hiệu lực, những tiêu chuẩn này được xem xét định kỳ (khoảng 5 năm một lần) nhằm cập nhật những phát triển mới nhất trong lĩnh vực quản lý chất lượng và thông tin phản hồi từ người sử dụng. Ban kỹ thuật của Tổ chức tiêu chuẩn hoá Quốc tế ISO/TC 176 bao gồm các chuyên gia từ các doanh nghiệp và tổ chức trên toàn thế giới theo dõi việc áp dụng các tiêu chuẩn để xác định những cải tiến cần thiết nhằm thoả mãn những đòi hỏi và mong muốn của người sử dụng và đa vào phiên bản mới. ISO/TC176 sẽ tiếp tục kết hợp các yếu tố đảm bảo chất lượng, quản lý chất lượng, những sáng kiến trong các ngành cụ thể và các chương trình chứng nhận chất lượng khác nhau trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000. Cam kết của ISO với việc duy trì động lực ISO 9000 thông qua các xem xét, cải tiến
- và hợp lý hoá các tiêu chuẩn đảm bảo sự đầu tư của tổ chức vào ISO 9000 hôm nay sẽ tiếp tục mang lại những hiệu quả trong tương lai. III. Các bước áp dụng ISO 9000 Việc áp dụng ISO 9000 đối với một doanh nghiệp sẽ được tiến hành theo 9 bước: Bước 1: Tìm hiểu tiêu chuẩn và xác định phạm vi áp dụng. Bước đầu tiên khi bắt tay vào việc xây dựng và áp dụng hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 là phải thấy được ý nghĩa của nó trong việc duy trì và phát triển tổ chức. Lãnh đạo doanh nghiệp cần định Hướng cho các hoạt động của hệ thống chất lượng, xác định mục tiêu và phạm vi áp dụng để hỗ trợ cho các hoạt động quản lý của mình đem lại lợi ích thiết thực cho tổ chức. Bước 2: Đào tạo cho cán bộ lãnh đạo các thành viên, cần phải phổ biến để nhân viên nhận thức đúng, đủ về ISO 9000 vì sự tham gia tích cực và hiểu biết của mọi thành viên trong công ty đối với ISO 9000 giữ vai trò quyết định. Bước 3: Lập ban chỉ đạo thực hiện dự án ISO 9000:2000. Việc áp dụng ISO 9000 có thể xem như là một dự án lớn, vì vậy các Doanh nghiệp cần tổ chức điều hành dự án sao cho có hiệu quả. Nên có một ban chỉ đạo ISO 9000 tại doanh nghiệp, bao gồm đại diện lãnh đạo và đại diện của các bộ phận nằm trong phạm vi áp dụng ISO 9000. Cần bổ nhiệm đại diện của lãnh đạo về chất lượng để thay lãnh đạo trong việc chỉ đạo áp dụng hệ thống quản lý ISO 9000 và chịu trách nhiệm trước lãnh đạo về các hoạt động chất lượng. Bước 4: Đánh giá thực trạng của doanh nghiệp và so sánh với tiêu chuẩn. Đây là bước thực hiện xem xét kỹ lưỡng thực trạng của doanh nghiệp để đối chiếu với các yêu cầu trong tiêu chuẩn ISO 9000, xác định xem yêu cầu nào không áp dụng, những hoạt động nào tổ chức đã có, mức độ đáp ứng đến đâu và các hoạt động nào chưa có để từ đó xây dựng nên kế hoạch chi tiết để thực hiện. Sau khi đánh giá thực trạng, công ty có thể xác định được những gì cần thay đổi và bổ sung để hệ thống chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn. Bước 5: Thiết kế và lập văn bản hệ thống chất lượng theo ISO 9000. Thực hiện những thay đổi hoặc bổ sung đã xác định trong đánh giá thực trạng để hệ thống chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9000. Cần xây dựng và hoàn chỉnh tài liệu theo yêu cầu của tiêu chuẩn, ví dụ: ∙Xây dựng sổ tay chất lượng ∙Lập thành văn bản tất cả các quá trình và thủ tục liên quan
- ∙Xây dựng các Hướng dẫn công việc, quy chế, quy định cần thiết. Bước 6: áp dụng hệ thống chất lượng theo ISO 9000 Công ty cần áp dụng hệ thống chất lượng đã thiết lập để chứng minh hiệu lực và hiệu quả của hệ thống. Trong bước này cần thực hiện các hoạt động sau: ∙Phổ biến cho tất cả mọi cán bộ công nhân viên trong công ty nhận thức về ISO 9000. ∙Hướng dẫn cho cán bộ công nhân viên thực hiện theo các quy trình, thủ tục đã được viết ra. ∙Phân rõ trách nhiệm ai sử dụng tài liệu nào và thực hiện theo đúng chức năng nhiệm vụ mà thủ tục đã mô tả. ∙Tổ chức các cuộc đánh giá nội bộ về sự phù hợp của hệ thống và đề ra các hoạt động khắc phục đối với sự không phù hợp. Bước 7: Đánh giá nội bộ và chuẩn bị cho đánh giá chứng nhận. Việc chuẩn bị cho đánh giá chứng nhận bao gồm các bước sau: ∙Đánh giá trước chứng nhận: Đánh giá trước chứng nhận nhằm xác định xem hệ thống chất lượng của công ty đã phù hợp với tiêu chuẩn chưa và có được thực hiện một cách có hiệu quả không, xác định các vấn đề còn tồn tại để khắc phục. Việc đánh giá trước chứng nhận có thể do chính công ty thực hiện hoặc do tổ chức bên ngoài thực hiện. ∙Lựa chọn tổ chức chứng nhận: Tổ chức chứng nhận hay đánh giá của bên thứ ba là tổ chức đã được công nhận cho việc thực hiện đánh giá và cấp chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn phù hợp ISO 9000. Về nguyên tắc, mọi chứng chỉ ISO 9000 đều có giá trị nh nhau không phân biệt tổ chức nào tiến hành cấp. Công ty có quyền lựa chọn bất kỳ tổ chức nào để đánh giá và cấp chứng chỉ. Bước 8: Tiến hành đánh giá chứng nhận. Tổ chức chứng nhận đã được công ty lựa chọn tiến hành đánh giá chứng nhận chính thức hệ thống chất lượng của công ty. Bước 9: Duy trì hệ thống chất lượng sau khi chứng nhận. ở giai đoạn này cần tiến hành khắc phục các vấn đề còn tồn tại phát hiện quan đánh giá chứng nhận và tiếp tục thực hiện các hoạt động theo yêu cầu của tiêu chuẩn để duy trì và cải tiến không ngừng hệ thống chất lượng của công ty. b/ Bộ tiêu chuẩn ISO 14000
- Giới Thiệu BỘ TIÊU CHUẨN VỀ HỆ THỐNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG ISO 14000 ISO 14001 là tiêu chuẩn quốc tế được ban hành bởi Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế, là một trong bộ gồm nhiều tiêu chuẩn có chuỗi số 140XX. ISO 14001 “Hệ thống quản lý môi trường Các yêu cầu và hướng dẫn sử dụng” là tiêu chuẩn được công nhận rộng rãi nhất và là tiêu chuẩn duy nhất được sử dụng cho mục đích chứng nhận. Ngoài ISO 14001, bộ tiêu chuẩn ISO 14000 còn bao gồm hơn 20 tiêu chuẩn, hướng dẫn, báo cáo kỹ thuật dùng để đánh giá tổ chức và đánh giá sản phẩm, chúng cũng có thể chia thành các nhóm đối tượng nhỏ hơn như sau: Để được chứng nhận, tổ chức không nhất thiết phải đáp ứng đầy đủ các chỉ tiêu môi trường cụ thể được nêu ra trong tiêu chuẩn ngay tại thời điểm chứng nhận, tuy nhiên họ cần chứng minh rằng đã nhận biết được các khía cạnh môi trường có ý nghĩa và có kế hoạch nhằm đáp ứng được các mục tiêu cải tiến liên tục mà họ đã thiết lập, phải chứng minh đang có các hoạt động cụ thể để đạt được các mục tiêu này. Bởi vì đây là một tiêu chuẩn quản lý nên tổ chức không phải vượt qua một mức độ nào đó về môi trường trước khi được chứng nhận theo ISO 14001. Việc thiết lập HTQLMT có thể giúp cho tổ chức tạo được lòng tin với các bên hữu quan:
- Có sự cam kết của lãnh đạo để đáp ứng các điều khoản của chính sách, mục đích và mục tiêu của tổ chức; Có thể đưa ra chứng cứ về sự quan tâm hợp lý và sự phù hợp với các yêu cầu, luật định; Thiết kế của hệ thống kết hợp chặt chẽ với quá trình cải tiến liên tục, chú trọng vào phòng ngừa hơn là khắc phục; Những lợi ích tiềm tàng gắn liền với HTQLMT có hiệu quả bao gồm: Đảm bảo cho khách hàng những cam kết về quản lý môi trường; Duy trì tốt được những quan hệ với công chúng/cộng đồng; Thoả mãn chuẩn cứ của người đầu tư và cải tiến sự tiếp cận với vốn; Có được hợp đồng bảo hiểm với chi phí hợp lý; Nâng cao uy tín và thị phần; Đáp ứng được chuẩn cứ chứng nhận của người cung cấp; Cải tiến việc kiểm soát chi phí; Hạn chế được các rắc rối về pháp lý; Chứng tỏ được sự quan tâm hợp lý; Bảo toàn được nguyên vật liệu và năng lượng đầu vào; Tạo thuận lợi cho việc xin giấy phép và uỷ quyền; Tăng cường sự phát triển và chia sẻ các giải pháp về môi trưòng; Cải thiện các mối quan hệ giữa công nghiệp chính phủ. Một lợi ích khi áp dụng hệ thống quản lý môi trường mà đôi khi các tổ chức không dễ dàng nhận ra, đó là tiết kiệm chi phí. Bởi vì mục tiêu của quản lý môi trường không chỉ là xử lý chất thải đạt yêu cầu (biện pháp cuối đường ống) mà còn là giảm thiểu phát thải và sử dụng có hiệu quả tài nguyên, bao gồm cả việc tái sử dụng. Những yếu tố này hoàn toàn có thể tính ra bằng tiền để cho thấy lợi ích thiết thực của việc áp dụng một cách có hiệu quả hệ thống quản lý môi trường. 2.4/ Tìm hiểu phân tích đánh giá việc áp dụng những ưu khuyết điểm. ISO 9000 là phương tiện hiệu quả giúp các nhà sản xuất tự xây dựng và áp dụng hệ thống bảo đảm chất lượng ở cơ sở mình đồng thời cũng là phương tiện để bên mua có thể căn cứ vào đó kiểm tra người sản xuất, kiểm tra sự ổn định của sản xuất và chất lượng sản phẩm trước khi kí hợp đồng. ISO 9000 đưa ra các chuẩn mực cho một hệ thống chất lượng và có thể áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ. ISO 9000:2008 được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia vì nó có những ưu thế vượt trội hơn hẳn so với các hệ thống chất lượng khác: a) Chất lượng quản trị có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Mối quan hệ giữa chất lượng quản trị với chất lượng sản phẩm, dịch vụ là mối quan hệ nhân quả. Việc áp dụng ISO 9000
- là nhằm mục đích tạo ra những sản phẩm và dịch vụ có chất lượng ổn định, phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Bộ tiêu chuẩn tập chung hướng dẫn các tổ chức doanh nghiệp thiết lập và duy trì một hệ thống quản trị bài bản, chặt chẽ với sự phân bổ trách nhiệm, quyền hạn từng thành viên với đầy đủ các quy trình, thủ tục hướng dẫn các công việc… nhằm hạn chế các sai xót có ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Một hệ thống quản trị hoàn hảo như vậy tất yếu sẽ tạo ra những sản phẩm và dịch vụ có chất lượng ổn định đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. VD: Một doanh nghiệp may có quy mô sản xuất rất lớn với hàng ngàn công nhân, với thiết bị máy móc và công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, hệ thống quản trị của doanh nghiệp thì hết sức lỏng lẽo, nhiều người trong doanh nghiệp không biết rõ chức năng và nhiệm vụ của mình là gì, nhiều bộ phận không có sự phối hợp làm việc, ngay cả những thành phần lao động trực tiếp cũng không được hướng dẫn công việc cụ thể. Không có những thủ tục, quy trình nghiên cứu và soạn thảo cẩn thận để mọi người đọc hiểu và tuân thủ khi làm việc. Kết quả là sản phẩm làm ra có chất lượng không đồng đều, tỉ lệ khuyết tật và phế phẩm cao. Mặc khác khi có sản phẩm khuyết tật,phế phẩm cũng không thể tìm ra nguyên nhân là do khâu nào, do ai vì không giải quyết kiểm soát toàn bộ quá trình. Ngoài ra khâu dịch vụ trong giai đoạn phân phối và tiêu thụ hàng cũng luôn gây phiền lòng cho khách hàng vì thiếu sự phối hợp đồng bộ. Một doanh nghiệp khác có quy mô nhỏ hơn, máy móc trang thiết bị không lấy gì làm hiện đại nhưng lại có một hệ thống quản trị chặt chẽ khoa học. Mỗi thành viên trong doanh nghiệp đều hiểu rõ nhiệm vụ và công việc của mình, luôn có sự phối hợp và hổ trợ lẫn nhau trong công việc. Mọi quá trình đều được quy định trình tự thực hiện bằng các thủ tục. Ngay cả những công nhân đứng máy cũng đều có các hướng dẫn công việc cụ thể. Việc kiểm soát được thực hiện ở từng công đoạn nhỏ trong suốt quá trình sản xuất, kinh doanh. Nhờ vậy, sản phẩm làm ra chắc chắn sẽ có chất lượng ổn định và khách hàng sẽ tin tưởng, nhận hàng, có thể sẽ không cần phải kiểm tra để loại bỏ sản phẩm khuyết tật. b) Cần phải làm đúng ngay từ đầu không nên làm việc theo kiểu sai đâu sửa đó do đó sẽ làm tăng năng suất và hạ giá thành sản phẩm. Đây là triết lý đơn giản nhất, quan trọng nhất của bộ tiêu chuẩn. Việc làm đúng ngay từ đầu không chỉ tiết kiệm được thời gian, chi phí cho khâu sửa sai và làm lại… mà còn giúp giảm thiểu bỏ hẳn khâu kiểm tra, thử nghiệm cuối cùng vốn rất khó thực hiện đầy đủ và gây nhiều tốn kém. Trong sản xuất, nếu thiết kế không đúng ngay từ đầu, không xuất phát từ nhu cầu của khách hàng và người tiêu dùng để thiết kế sản phẩm thì sẽ dẫn đến sản xuất ra những sản phẩm không phù
- hợp, những sản phẩm sẽ phải bỏ đi hoặc tồn đọng. Bộ ISO 9000 khuyên chúng ta nên thiết kế cẩn thận toàn bộ quá trình kinh doanh trong suốt vòng đời sản phẩm như: Thiết kế quá trình điều tra marketinh. Thiết kế các mẫu sản phẩm và loại hình dịch vụ. Thiết kế thẩm định chọn mẫu sản phẩm. Thiết kế quá trình sản xuất thử. Thiết kế công nghệ và sản xuất. Thiết kế quảng cáo mạng lưới phân phối. Thiết kế quá trình bán hàng và dịch vụ sau bán. Làm đúng ngay từ đầu chỉ có thể thực hiện tốt nếu các nhà quản trị biết dự báo tương đối chính xác nhu cầu thị trường, xu thế tiêu dùng, thị hiếu khách hàng…. VD: Về việc thường xuyên đào bới đường xá trong thành phố. Do không biết cách làm đúng ngay từ đầu nên biết bao con đường vừa mới rải nhựa xong chưa được bao lâu đã bị đào xới lên để đặt đường ống nước, sau khi lấp không lâu lại phải đào lên để đi cáp điện thoại… . Lãng phí tiền của,công sức có thể lên tới hàng chục tỉ đồng. Nhưng các nhà quản lý lại nói không sao chỉ cần rút “kinh nghiệm” và “sửa sai”. c) Tăng tính cạnh tranh của công ty: có được một hệ thống quản lý chất lượng phù hợp tiêu chuẩn ISO 9000 sẽ đem đến cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh vì thông qua việc chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với ISO 9000 doanh nghiệp sẽ có bằng chứng đảm bảo với khách hàng là các sản phẩm họ sản xuất phù hợp với chất lượng mà họ đã cam kết. d) Tăng uy tín của công ty về đảm bảo chất lượng: áp dụng quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 sẽ cung cấp bằng chứng khách quan để chứng minh chất lượng sản phẩm, dịch vụ của công ty và chứng minh cho khách hàng thấy rằng rằng các hoạt động của công ty đều được kiểm soát. e)
- \ ISO 14000 Điều kiện cần để áp dụng ISO 14000 và các bước thực hiện Để đảm bảo việc áp dụng ISO 14000 đạt hiệu quả, khi tham gia xây dựng doanh nghiệp cần ít nhất 4 điều kiện và thực hiện 16 bước cơ bản sau: ĐIỀU KIỆN CẦN ĐỂ ÁP DỤNG ISO 14000:
- 1. Định hướng và quyết tâm của lãnh đạo doanh nghiệp: Tìm hiểu và nắm vững nội dung cơ bản của bộ tiêu chuẩn ISO 14000. Xác định yêu cầu của tiêu chuẩn và mức độ đáp ứng của doanh nghiệp. Quyết tâm và chỉ đạo chặt chẽ quá trình triển khai áp dụng ISO 14000. Hoạch định chính sách, mục tiêu và cam kết về môi trường. Cung cấp đủ nguồn lực cần thiết để đào tạo và triển khai. 2. Thành viên của Doanh nghiệp – Yếu tố quyết định: Hiểu được ý nghĩa, mục đích của quản lý môi trường. Ý thức được trách nhiệm của mình trong công việc được giao. Chấp hành nghiêm chỉnh các qui định đối với công việc cụ thể. 3. Trình độ công nghệ, thiết bị: Có khả năng kiểm soát các thông số ảnh hưởng đến môi trường. Đáp ứng các qui định của nhà nước, của ngành. 4. Chuyên gia tư vấn: Có khả năng và kinh nghiệm trong triển khai tư vấn áp dụng ISO 14000. Có công nghệ tư vấn bài bản, chuyên nghiệp, phù hợp, hiệu quả và có tính thuyết phục. Có lực lượng chuyên gia có năng lực và kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực về Môi trường CÁC BƯỚC THỰC HIỆN ISO 14000: 1. Xác định nhu cầu của doanh nghiệp. 2. Khảo sát thực tế, đánh giá hiện trạng và tác động môi trường của doanh nghiệp. 3. Thành lập Ban môi trường và ban dự án ISO. 4. Thống nhất chương trình hành động. 5. Tiến hành đào tạo ISO 14000 cho Ban ISO và các cán bộ chủ chốt tham gia dự án. 6. Hướng dẫn xây dựng hệ thống tài liệu. 7. Xây dựng hệ thống tài liệu, thủ tục. 8. Đánh giá, sửa chữa, phê duyệt tài liệu, thủ tục. 9. Triển khai vận hành hệ thống theo tài liệu biên soạn và hướng dẫn của chuyên gia tư vấn. 10. Đào tạo chuyên gia đánh giá nội bộ. 11. Tiến hành đánh giá nội bộ hệ thống. 12. Thu thập thông tin và chọn nơi đánh giá chứng nhận. 13. Đánh giá thử hệ thống.
- 14. Hoàn chỉnh hệ thống, chuẩn bị cho đánh giá chứng nhận. 15. Đánh giá chứng nhận. 16. Hướng dẫn duy trì và cải tiến hệ thống sau chứng nhận. Do sự phát triển mạnh mẽ của công cuộc đô thị hóa và công nghiệp hóa, do phải cạnh tranh trong đấu thầu với các công ty sản xuất vật liệu xây dựng cũng như đấu thầu cung cấp vật liệu cho các công ty xây dựng nước ngoài, hoạt động áp dụng và chứng nhận ISO 9000, ISO 14000 trong ngành sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng diễn ra khá sớm và chiếm một tỷ lệ khá cao so với các ngành hàng, sản phẩm khác. Lợi ích của việc áp dụng và chứng nhận ISO 9000 và ISO 14000 Xây dựng và áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng, môi trường theo ISO 9000, ISO 14000, doanh nghiệp có thể: + Giảm giá thành sản phẩm do sử dụng hợp lý nguồn lực, giảm tỷ lệ tiêu hao nguyên liệu, giảm chi phí xử lý sản phẩm hỏng và xử lý chất thải, hạn chế sự cố thiết bị, tai nạn nghề nghiệp và sự cố môi trường. + Đáp ứng yêu cầu của luật định, thực hiện trách nhiệm pháp lý của Giám đốc có liên quan đến chất lượng, môi trường, an toàn và vệ sinh. + Thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ, đạo đức kinh doanh, ý thức bảo vệ môi trường và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. + Gia tăng cơ hội cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế thông qua việc khẳng định khách quan và uy tín của tổ chức chứng nhận cũng như tổ chức công nhận. + Tạo niềm tin, sự gắn bó và tự hào trong cán bộ, nhân viên, góp phần nâng cao năng suất lao động và phát huy sáng kiến cải tiến. + Đem lại lòng tin và dễ dàng nhận được sự ủng hộ từ các nhà đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức tài chính, bảo hiểm và cộng đồng dân cư. + Dễ dàng thâm nhập thị trường quốc tế, trở thành đối tác của các các công ty
- hàng đầu thế giới nhờ cơ chế thừa nhận song phương, đa phương của các tổ chức chứng nhận và công nhận. + Đem lại nhiều thời gian và trí tuệ cho Người đứng đầu trong việc định hướng chiến lược và phát triển nhờ giảm thời gian dùng cho việc chỉ đạo các công việc sự vụ hàng ngày. + Thay đổi nếp nghĩ, nếp làm, nếp giao tiếp và truyền đạt thông tin của tất cả mọi người trong doanh nghiệp, từ người lãnh đạo cao nhất đến người lao động thấp nhất, xây dựng văn hóa doanh nghiệp. + Làm nền tảng cho việc chứng nhận chất lượng sản phẩm cho các sản phẩm cụ thể phục vụ cho công tác đấu thầu, kêu gọi đầu tư qua thị trường chứng khoán,... Việc áp dụng ISO 9000 và ISO 14000 trong ngành sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng ở Việt Nam Tại Việt Nam, do sự phát triển mạnh mẽ của công cuộc đô thị hóa và công nghiệp hóa, do phải cạnh tranh trong đấu thầu với các công ty sản xuất vật liệu xây dựng cũng như đấu thầu cung cấp vật liệu cho các công ty xây dựng nước ngoài, hoạt động áp dụng và chứng nhận ISO 9000, ISO 14000 trong ngành sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng diễn ra khá sớm và chiếm một tỷ lệ khá cao so với các ngành hàng, sản phẩm khác. Ngoài ra, các đơn vị sản xuất vật liệu xây dựng còn là những đơn vị rất chú trọng đến chứng nhận sản phẩm hợp chuẩn theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN, nước ngoài (ASTM, JIS, BS, GOST...) và ISO. Với ISO 14000, các đơn vị được chứng nhận trong ngành sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng chủ yếu là các công ty Xi măng. Với ISO 9000, số doanh nghiệp được chứng nhận trong ngành sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng chiếm khoảng 23% trong tổng số gần 1000 doanh nghiệp, tập trung chủ yếu vào các công ty sản xuất xi măng, thép, gạch ngói, bê tông,... Trong số những doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất vật liệu xây dựng được chứng nhận, không ít doanh nghiệp đã áp dụng tích hợp và được chứng nhận nhiều hệ thống quản lý đồng thời với chứng nhận các sản phẩm mang nhãn hiệu thương mại khác nhau. Chẳng hạn, Công ty TNHH LUSK Xi măng Thừa Thiên Huế đã được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000, OHSAS 18000 (tiêu chuẩn Hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp) và 7 tiêu chuẩn sản phẩm (TCVN và ASTM). Khá nhiều công ty khác như Công ty Xi măng Hoàng Thạch, Công ty Xi măng CHINFON Hải Phòng, Công ty Xi măng Hà Tiên 2 Cần Thơ, Công ty Xi măng Hoàng Mai, Công ty Xi măng Sài Sơn,... đã được chứng nhận cho cả ISO 9000, ISO 14000 và sản phẩm.
- Tiêu chuẩn hệ thống quản lý nói chung, tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000 nói riêng đã trở thành những công cụ quản lý hữu hiệu và không thể thiếu trong quá trình phát triển và hội nhập của hầu hết những doanh nghiệp có tên tuổi ở Việt Nam. Vì thế việc xây dựng, áp dụng, chứng nhận, duy trì, cải tiến và chứng nhận lại theo các tiêu chuẩn sau mỗi chu kỳ 3 năm đã trở thành thường lệ với khá nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Cùng với áp dụng và chứng nhận theo các tiêu chuẩn quản lý hệ thống, việc chứng nhận chất lượng sản phẩm cũng đang trở nên phổ biến hơn trong các ngành, kể cả ngành vật liệu xây dựng, bởi lẽ, các doanh nghiệp đã dần hiểu ra rằng cái đích cuối cùng của các nhà sản xuất vẫn là khẳng định đẳng cấp của chất lượng sản phẩm, còn hệ thống quản lý chỉ là công cụ hỗ trợ mà thôi. VD: Doanh nghiệp… vừa áp dụng ISO...! đó là câu giới thiệu được nhiều doanh nghiệp đưa ra như một niềm tự hào. Tuy nhiên, liệu ISO có đem lại hiệu quả quản lý thực sự? Đó là câu hỏi không dễ trả lời. Vào buổi sáng cách đây 6 tháng, Giám đốc công ty A đang phải đứng trước lựa chọn quan trọng tiếp tục duy trì việc áp dụng ISO 9000 hay dừng. Chỉ vài phút trước, Phó Giám đốc kinh doanh vừa rất bức xúc phàn nàn với ông về việc nhân viên phòng kinh doanh không tập trung vào làm gói thầu rất quan trọng của công ty mà ngay chiều đó phải nộp. Trong khi đó, thư ký nhóm làm thầu lại... đi lo hoàn thiện hồ sơ các dự án đã triển khai trước đó để chuẩn bị cho đợt đánh giá giám sát vào ngày hôm sau. Theo Phó Giám đốc kinh doanh, các thủ tục của ISO đang cản trở tiến độ thực hiện các công việc của kinh doanh. Không những vậy, ông này thẳng thắn: Công ty nên dừng việc áp dụng ISO! Theo ông giám đốc, đây không phải lần đầu tiên cán bộ của công ty phàn nàn về các phiền hà do việc áp dụng ISO 9000 đem lại. Phòng kinh doanh phàn nàn rằng các thủ tục ISO quá rườm rà, mất thời gian mà không có giá trị gia tăng nào. Phòng kỹ thuật lại cho rằng thủ tục ISO làm giảm sự sáng tạo cản trở mọi người trong việc thay đổi phương pháp làm việc. Phòng vật tư từ khi áp dụng ISO luôn phải làm thêm giờ vì phải điền dữ liệu vào rất nhiều sổ khác nhau để đủ hồ sơ cho đánh giá ISO. Đại diện lãnh đạo về chất lượng cũng phàn nàn vì thỉnh thoảng lại phải giải quyết các tranh cãi của xưởng sản xuất và phòng KCS. Cả hai đơn vị cùng kiểm tra chất lượng sản phẩm, phòng KCS quyết định là lô hàng sản xuất không đạt nhưng xưởng sản xuất cũng kiểm tra trong quá trình sản xuất và thấy rằng theo tiêu chí của xưởng đề ra thì lô hàng vẫn đạt yêu cầu. Rõ ràng, có rất nhiều ý kiến cho rằng việc áp dụng ISO đem lại nhiều rắc rối và phiền hà. Tuy nhiên, Giám đốc công ty thấy rằng việc áp dụng ISO cũng đã đem lại nhiều lợi ích cho công ty. Nếu như trước đây, hồ sơ thầu thường xuyên có sai sót, có khi dẫn tới thua thầu chỉ vì những sai sót nhỏ thì từ khi chuẩn hóa quá trình lập và kiểm tra hồ sơ thầu, không còn sai sót phát sinh và tỷ lệ thắng thầu đã cao hơn.
- Cũng từ khi áp dụng ISO 9000, nhân viên mới được tuyển dụng dễ dàng thực hiện công việc theo đúng yêu cầu vì đã có các hướng dẫn cụ thể cho từng bước thực hiện công việc. Mỗi khi có sự cố về chất lượng, phân xưởng sản xuất có thể tìm ra nguyên nhân rất nhanh chóng để tìm giải pháp khắc phục nhờ tra cứu lại các sổ sách theo dõi quá trình sản xuất. Nhờ đó, chất lượng sản phẩm đã được ổn định hơn và số lần xảy ra sự cố giảm đi trông thấy. Cũng nhờ áp dụng ISO 9000 mà công ty có nhiều thông tin phản hồi của khách hàng về chất lượng sản phẩm và nhờ đó, nhiều sáng kiến cải tiến sản phẩm đã được triển khai và đem lại hiệu quả kinh tế. Làm thế nào để vẫn giữ được các lợi ích của việc áp dụng ISO và giảm thiểu phiền hà do ISO đem lại? Giám đốc công ty đem câu hỏi này đi hỏi lãnh đạo các công ty đã áp dụng ISO và các đơn vị tư vấn và có được các lời khuyên khá trái ngược nhau. Có lãnh đạo đã quyết định bỏ áp dụng ISO ngay sau khi gặp những rắc rối và cản trở do ISO đem lại. Có lãnh đạo khuyến khích cán bộ kiên trì, bỏ thêm một chút thời gian để cố gắng giữ được chứng chỉ ISO. Và cũng có lãnh đạo đã bỏ thời gian, công sức để tìm hiểu gốc rễ vấn đề và tìm giải pháp khắc phục. Kinh nghiệm thành công được các đồng nghiệp này chia sẻ đã giúp Giám đốc công ty A tìm ra giải pháp để trả lời câu hỏi trên. Ông đã cùng các cán bộ quản lý công ty xây dựng kế hoạch thực hiện trong vòng 4 tháng để cải cách toàn diện hệ thống ISO của công ty. Việc đầu tiên là đưa toàn bộ các tài liệu ISO và các tài liệu phục vụ quản lý của công ty lên mạng nội bộ, đơn giản hóa thủ tục sửa đổi các tài liệu đã phê duyệt, giúp cán bộ nhân viên dễ dàng tìm hiểu và cải tiến các bước thực hiện công việc khi có nhu cầu. Tiếp theo là rà soát lại toàn bộ thủ tục đã ban hành, áp dụng các công cụ của sản xuất tiết kiệm (Lean manufacturing) để làm đơn giản hóa các bước thực hiện công việc trong thủ tục và tạo sự phối hợp công việc giữa các đơn vị một cách mạch lạc. Các biểu mẫu được số hóa dần để các dữ liệu liên quan tới toàn bộ quá trình kinh doanh, mua hàng, sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm được đưa lên mạng giúp quá trình phân tích dữ liệu, dự báo sản xuất, phát hiện các vấn đề về chất lượng được thực hiện nhanh và đồng bộ, giảm thiểu việc lưu hồ sơ giấy với dữ liệu vừa không chính xác vừa khó phân tích. Tất cả các công việc cải tiến đều đi kèm chính sách khen thưởng đối với cán bộ tích cực tham gia và có nhiều sáng kiến được áp dụng. Kết quả sau 4 tháng triển khai kế hoạch cải tiến toàn diện hệ thống ISO, giám đốc công ty đã có thể rất hài lòng vì thay cho các lời phàn nàn trước đây là các ý kiến khen ngợi về các giá trị gia tăng do hệ thống ISO đem lại. Đồng thời, mọi cán bộ nhân viên đều tích cực cải tiến thêm các quy trình thực hiện công việc để hiệu quả cao hơn.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp: Đánh giá thực trạng áp dụng bộ tiêu chuẩn TNXH về lao động tại công ty TNHH Mây Tre Bình Minh
30 p | 329 | 59
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp: Thực trạng áp dụng bộ tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội ISO SA8000 tại tổng Công ty Dệt may Hòa Thọ
28 p | 385 | 55
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hộ của doanh nghiệp: Thực hiện Bộ tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội ISO 26000 tại Công ty cổ phần sữa Vinamilk Việt Nam
24 p | 258 | 53
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lao động: Một số khó khăn (bất cập) khi áp bộ tiêu chuẩn TNXH về lao động SA8000 tại công ty TNHH dịch vụ kỹ thuật Bình Nguyên
32 p | 147 | 41
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội của Doanh nghiệp: Trách nhiệm xã hội của Ajinomoto Việt Nam về vấn đề môi trường
26 p | 218 | 39
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hộ của doanh nghiệp: Đánh giá thực trạng áp dụng bộ tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội về lao động của doanh nghiệp tại Công ty Cổ phần bao bì nhựa Tân Tiến
26 p | 119 | 38
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội: Trách nhiệm xã hội về bảo vệ môi trường của tập đoàn Unilever
22 p | 378 | 37
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lĩnh vực lao động: Thực trạng áp dụng SA8000 tại Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Tuấn
32 p | 163 | 32
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lĩnh vực lao động: Vấn đề thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tại Công ty TNHH Dệt may Thái Tuấn
19 p | 165 | 31
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội: Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tại Công ty CP NANO
23 p | 163 | 30
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lĩnh vực lao động: Thực trạng áp dụng tiêu chuẩn SA8000 tại Công ty cổ phần Sản xuất và Thương mại Sơn Kim
22 p | 124 | 25
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Sự cần thiết của việc thực hiện trách nhiệm xã hội theo tiêu chuẩn SA 8000 của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập WTO
49 p | 123 | 24
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Thực trạng áp dụng tiêu chuẩn SA 8000
23 p | 117 | 22
-
Bài chuyên đề cuối khóa: Nghiên cứu và phân tích thực trạng của hoạt động trách nhiệm xã hội tại Công ty cổ phần Dệt may Đầu tư Thương mại Thành công
28 p | 105 | 19
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lĩnh vực lao động: Trách nhiệm xã hội của Công ty cổ phần tập đoàn Thái Tuấn về việc quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO- 9000
30 p | 108 | 15
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Vấn đề trách nhiệm xã hội với SA8000 tại Việt Nam
24 p | 93 | 14
-
Chuyên đề Trách nhiệm xã hội: So sánh bộ tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội về lao động với Bộ luật lao động Việt Nam hiện nay
26 p | 128 | 9
-
Đề tài môn Chuyên đề chuyên sâu: Thực trạng tư vấn dịch vụ trách nhiệm xã hội ở Việt Nam
22 p | 83 | 9
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn