Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
lượt xem 23
download
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 được thực hiện với mục tiêu nhằm tìm hiểu sâu hơn về cây bút tài hoa của Nguyễn Minh Châu trong những tác phẩm của ông. Ngoài ra, người viết muốn khám phá, tìm hiểu những giá trị nghệ thuật trong tác phẩm truyện ngắn sau 1975. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975 NGUYỄN HỒNG NHI Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975 Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỊ MỸ NHUNG NGUYỄN HỒNG NHI Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn, cùng với những nổ lực của bản thân, người viết nhận được sự động viên, giúp đỡ của rất nhiều người. Người viết xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Th.S Nguyễn Thị Mỹ Nhung. Cô đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn người viết trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Xin chân thành cảm ơn thầy cô giáo trong Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ Văn, Thạc Sĩ Vũ Thúy Kiều, đã hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để người viết hoàn thành luận văn. Xin cảm ơn cha mẹ, anh chị và bạn bè đã động viên, khích lệ người viết trong suốt quá trình làm luận văn. Người viết xin chân thành cảm ơn! Hậu Giang, ngày 29 tháng 05 năm 2012 Người viết Nguyễn Hồng Nhi i
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng luận văn này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập và kết quả phân tích trong luận văn là trung thực, luận văn không trung thực với bất cứ đề tài nghiên cứu khoa học nào. Sinh viên thực hiện (Kí và ghi rõ họ tên) Nguyễn Hồng Nhi ii
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU .... ...................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ..................................................................1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................... 1 3. Mục đích nghiên cứu ......................................................... 3 4. Phạm vi nghiên cứu ........................................................... 4 5. Phương pháp nghiên cứu .................................................. 4 Chương 1: Đôi nét về tác giả và đặc điểm truyện ngắn 1.1 Vài nét về nhà văn Nguyễn Minh Châu ......................................5 1.1.1 Tiểu sử ............................................................................. 5 1.1.2 Sự nghiệp sáng tác ........................................................... 6 1.2 Đặc điểm truyện ngắn................................................................ 9 1.2.1 Khái niệm. ........................................................................ 9 1.2.2 Đặc điểm truyện ngắn ....................................................... 9 Chương 2: Đặc điểm nội dung truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 2.1 Hệ thống đề tài ....................................................................... 12 2.1.1 Đề tài về người lính......................................................... 12 2.1.2 Đề tài về người phụ nữ .................................................... 16 2.1.3 Đề tài về người nông dân ................................................ 19 2.2 Cảm hứng tư tưởng ................................................................ 22 2.2.1 Cảm hứng hiện thực ....................................................... 22 2.2.2 Cảm hứng nhân văn. ....................................................... 25 2.3 Quan niệm về con người ......................................................... 27 2.3.1 Con người đời tư thế sự .................................................. 27 2.3.2 Con người tự vấn............................................................. 30 Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 3.1 Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện .................................. 38 3.1.1 Tình huống tự nhận thức ................................................ 38 iii
- 3.1.2 Tình huống thắt nút ......................................................... 40 3.1.3 Tình huống tương phản .................................................. 42 3.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................ 44 3.2.1 Nhân vật được miêu tả qua ngoại hình............................. 44 3.2.2 Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật .................................. 47 3.3 Giọng điệu .............................................................................. 53 3.3.1 Giọng điệu triết lí ............................................................ 53 3.3.2 Giọng điệu hài hước ....................................................... 57 3.3.3 Nhân vật trữ tình ............................................................. 59 KẾT LUẬN ...... ........................................................................................... 62 Tài liệu tham khảo ....... ............................................................................... 64 iv
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nguyễn Minh Châu là một trong những người mở đường cho sự nghiệp văn xuôi Việt Nam hiện đại trong quá trình đổi mới. Đặc biệt, trong thể loại truyện ngắn, với những tác phẩm đã đi vào lòng người như: “Chiếc thuyền ngoài xa, Bến quê, Cỏ lau, Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Khách ở quê mới ra, Phiên chợ Giát…”. Suốt cuộc đời ông sống là để cống hiến cho nghệ thuật văn chương và ông luôn luôn có trách nhiệm với ngòi bút của mình. Cho nên có thể nói rằng, Nguyễn Minh Châu là một trong những viên ngọc sáng ngời của nền văn học Việt Nam sau 1975. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu không chỉ đáp ứng nhu cầu cho bạn đọc mà còn đi sâu vào tâm lý, tiềm thức của con người. Bởi, văn ông không chỉ viết về đề tài chiến tranh trong thời kì lúc bấy giờ mà còn viết về cuộc sống bình thường hằng ngày, số phận cá nhân trong cộng đồng, một cách nhìn về con người, vấn đề về đạo đức, dưới con mắt và ngòi bút của ông đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lí sâu sắc. Nguyễn Minh Châu là một nhà văn đã có vị trí, tên tuổi và được nhiều bạn đọc yêu mến. Đề tài về “Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975” là một cơ hội để giúp tôi có thể tìm hiểu rõ hơn về tác giả và tác phẩm của ông. 2. Lịch sử vấn đề Từ sau Đại thắng mùa xuân 1975, đất nước hoàn toàn giải phóng, cuộc chiến tranh chống Mỹ qua đi. Trong niềm vui lớn, mỗi gia đình, mỗi con người Việt Nam đều đứng trước những vấn đề, những hoàn cảnh gây cấn, hậu quả của hai mươi năm đằng đẳng chia cắt, nay cả nước ta đã tập trung bắt tay vào việc khôi phục và xây dựng đất nước. Song song với sự đổi mới đất nước thì văn học nghệ thuật cũng thay đổi theo. Trong thời gian này đã xuất hiện nhiều cây bút với nhiều thể loại khác nhau. Đặc biệt là thể loại truyện ngắn đã thu hút nhiều bạn đọc. Có những nhà văn trong giai đoạn này đã thể hiện xuất sắc những tác phẩm của mình như: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, …Trong đó có nhà văn Nguyễn Minh Châu đã rất thành công với thể loại truyện ngắn. 1
- Đồng thời, nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng là một cây bút ưu tú của văn xuôi Việt Nam hiện đại được nhiều nhà phê bình biết đến và đã có nhiều công trình đầy tâm huyết dành cho truyện ngắn của ông. Trong nghiên cứu các nhà phê bình, bình luận văn học về Nguyễn Minh Châu đã đề cập đến nhiều vấn đề nhiều khía cạnh. Tuy nhiên, đó chỉ là những ý kiến mang tính lịch sử, khái quát. Qua các công trình nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Minh Châu, các nhà nghiên cứu đã có một số nhận định sau: Trong quyển “ Nhà văn Việt Nam thế kỉ XX”, Tô Hoài cho rằng: “Đọc Nguyễn Minh Châu người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên trang giấy của người viết tài năng. Những cái tưởng như bình thường lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý”.[15;tr.77]. Đối với việc đổi mới tư duy nghệ thuật thì Nguyễn Minh Châu là một trong những người đi đầu về thể loại truyện ngắn. Nguyễn Minh Châu luôn tìm tòi và khám phá những nét đẹp trong ngòi bút của mình. Trong quyển “ Nhà văn Việt Nam thế kỉ XX”, Trần Đình Sử cho rằng: “Trong những nhà văn trăn trở tìm tòi đổi mới tư duy nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu là một ngòi bút gây nhiều hứng thú. Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh rồi tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và nay là tập Bến quê, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu xuất hiện như là một hiện tượng văn học mới, một phong cách trần thuật mới…”[15;tr.75-76]. Trong quyển “ Nguyễn Minh Châu tác gia và tác phẩm” của Nguyễn Trọng Hoàn thì Vũ Tú Nam nhận xét: “ Tôi rất yêu quý sự tìm tòi của Nguyễn Minh Châu, nhưng một vài truyện anh tìm chưa tới, chưa đạt. Khi xây dựng nhân vật cá biệt, có lúc anh đã tuỳ tiện, bất chấp cả logich thông thường, nên ta có cảm giác giả, không vào đọc một cách dễ dàng”.[8;tr203]. Mỗi tác giả đều có một cái riêng, một dấu ấn cá nhân để thể hiện cá tính trong ngòi bút của mình. Đó là cái riêng mà tác giả Nguyễn Minh Châu muốn đem đến cho người đọc những cảm giác mới lạ và đầy cảm xúc. Trong “Nhà văn Việt Nam thế kỉ XX” thì Dũng Hà đã nhận xét: “Những trang sách của anh để lại, lịch sử văn học sẽ mãi nhắc tới như là những trang sách vừa 2
- tài hoa vừa thấm đậm một tình thương vô bờ bến đối với con người, với đất đai xứ sở. và qua đó chúng ta cũng hiểu sự nghiệp của Nguyễn Minh Châu không phải là con đương dễ dãi mà là một con đường đầy những nổ lực vất vả, thậm chí có cả những khúc nguy hiểm tưởng như không thể nào bước tiếp được. ”.[15;tr.79-80]. Trong quyển “ Nguyễn Minh Châu tác gia và tác phẩm”, Phong Lê đã nhận xét: “Đúng là Nguyễn Minh Châu là người có giọng điệu riêng, mà nói đúng hơn anh là người đa giọng điệu. Cái đa giọng điệu, cái đa thanh của cuộc đời đã vào anh. Tất cả các cung bậc có trong đời, cái cao thượng, cái ti tiện, cả cái bi lẫn cái hài, anh điều đưa vào truyện.[15;tr77]. Hoạt động văn học của Nguyễn Minh Châu khá phong phú và đa dạng, chỉ riêng về lĩnh vực sáng tác, nhiều tác phẩm đã trở thành đề tài tìm hiểu của hàng trăm bài báo, bài nghiên cứu và những truyện luận khoa học trong và ngoài nước. Đọc lại những trang viết của ông, có thể thấy rằng: về cuộc đời và sự nghiệp còn nhiều tìm ẩn, nhiều vấn đề. Đã trãi qua nhiều chặng đường lịch sử nghiên cứu nhưng cũng phải nhìn nhận rằng văn chương Nguyễn Minh là một “kho ngữ liệu”. Trãi qua biết bao công trình nghiên cứu, từ thế hệ này sang thế hệ khác vẫn miệt mài tìm kiếm các giá trị trong những đứa con tinh thần của Nguyễn Minh Châu. Từ đó, có thể nói rằng những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu luôn lôi cuốn nhiều bạn đọc và các nhà phê bình. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài “Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975” tôi muốn tìm hiểu sâu hơn về cây bút tài hoa của Nguyễn Minh Châu trong những tác phẩm của ông. Ngoài ra, tôi muốn khám phá, tìm hiểu những giá trị nghệ thuật trong tác phẩm truyện ngắn sau 1975. Qua việc nghiên cứu vấn đề trên người nghiên cứu muốn đóng góp công sức của mình trong lĩnh vực văn chương và nhìn nhận lại những đóng góp hết sức to lớn của Nguyễn Minh Châu cho nền văn học Việt Nam. Việc nghiên cứu đề tài này góp phần khẳng định tầm quan trọng vào tác phẩm của Nguyễn Minh Châu về phương diện nội dung đến nghệ thuật. Người nghiên cứu muốn tìm hiểu nhiều hơn về tác giả Nguyễn Minh Châu, một nhà văn chân chính của nền văn học nước nhà. 3
- 4. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về “ Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975” nên khi nghiên cứu đề tài này người nghiên cứu dựa trên những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975 để bàn luận về vấn đã đặt ra. Vấn đề nghiên cứu chỉ giới hạn từ sau năm 1975 nên phạm vi nghiên cứu của tôi cũng chỉ một số truyện ngắn đặc sắc của ông . 5. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành tốt khóa luận của mình, người viết sử dụng những phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp hệ thống, phân tích- tổng hợp, so sánh. Phương pháp hệ thống: người viết sử dụng phương pháp này nhằm xác định phạm vi truyện ngắn Nguyễn Minh Châu nằm trong giai đoạn nào. Phương pháp phân tích- tổng hợp: Người nghiên cứu đưa ra những dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu, có chọn lọc. Tiếp đó, dựa trên những dẫn chứng đó để tìm kiếm, khám phá các giá trị làm nổi bậc lên cái tài về viết truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu có sự độc đáo của ông so với các nhà văn cùng thời. Phương pháp so sánh: Người viết dùng phương pháp này để so sánh những đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu với truyện ngắn cùng thời để thấy rõ hơn những nét đặc sắc trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. 4
- Chương 1: ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN 1.1.Vài nét về nhà văn Nguyễn Minh Châu 1.1.1.Tiểu sử Nguyễn Minh Châu là nhà văn lớn của văn học Việt Nam. Đồng thời, ông cũng là một chiến sĩ cách mạng, một nhà văn được trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Từ đó, nung đúc nên một nhà văn đa tài Nguyễn Minh Châu. Nguyễn Minh Châu sinh ngày 20 tháng 10 năm 1930, ở làng Thơi, thuộc xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông xuất thân trong một gia đình nông dân khá giả, là con út trong gia đình có sáu người con, cho nên ông có điều kiện học hành khá chu đáo. Từ năm 1944 đến năm 1945, ông được học trường Kỹ Nghệ Huế và sau khi Nhật đảo chính Pháp Nguyễn Minh Châu về quê học tiếp, đỗ tốt nghiệp thành chung và tiếp tục học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An. Năm 1950, ông nhập ngũ và được kết nạp Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1951, Nguyễn Minh Châu là học viên trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Trung đội trưởng thuộc Sư đoàn 320. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại ban tác chiến, ban tham mưu tiểu đoàn 722 và tiểu đoàn 706 và cũng vào giai đoạn này Nguyễn Minh Châu bắt đầu viết truyện ngắn (1954). Sau đó ông chuyển công tác về làm chính trị viê đại đội, trợ lí văn hóa Thanh niên trung đoàn 64 trong gần 3 năm ( từ năm 1956 đến 1958). Năm 1958, Nguyễn Minh Châu được phong hàm trung úy và được đưa đi học bảo túc quân sự khóa 2. Viết tài liệu tổng kết chiến đấu ở quân khu Tả Ngạn. Năm 1959 Dự hội nghị bạn viết toàn quân. Đến năm 1960, ông công tác tại phòng Văn nghệ, Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và đi học trường văn hóa Lạng Sơn năm 1961. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu chuyển về công tác tại phòng Văn nghệ Quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ Quân đội và phục vụ cho đến khi ông qua đời. Ông mất ngày 23 tháng 01 năm 1989, tại Hà Nội. Trong hoạt động cách mạng của mình, ông đã có nhiều đóng góp đáng kể mà đặc biệt trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu lần lượt được phong các hàm vì những đóng góp của mình như: Thượng úy(1963), Đại úy(1973), Thiếu 5
- tá(1977) và Đại tá(1986). Năm 1972, ông được Hội Nhà văn Việt Nam kết nạp vào làm hội viên. Đến năm 1983, ông được vinh dự là đại biểu chính thức dự Đại Hội nhà văn Việt Nam lần thứ 3 tại Hà Nội và trúng cử vào Ban Chấp hành hội khóa 3. Với những cống hiến xuất sắc của mình trong hoạt động văn học nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Minh Châu được nhận: Giải thưởng Bộ Quốc Phòng (năm 1984-1989) cho toàn bộ tác phẩm của ông viết về chiến tranh và người lính. Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1988-1989) cho tập truyện vừa Cỏ lau. Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật cho các tác phẩm Dấu chân người lính, Cửa sông, Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. Năm 2000 Nguyễn Minh Châu được Nhà nước phong tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật. 1.1.2 Sự nghiệp sáng tác Nguyễn Minh Châu sinh ra và lớn lên trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta. Cả cuộc đời ông gắn liền với những năm tháng chiến tranh khốc liệt. Chính vì vậy, ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đã dựng nên một sống thực với tính chất nhiều mặt của nó: chiến đấu và sản xuất, lý tưởng và tình yêu, hiện tại và quá khứ, chiến trường và hậu phương… Con đường sáng tác của Nguyễn Minh Châu chia ra thành hai giai đoạn: trước và sau năm 1975. Giai đoạn trước năm 1975 Nguyễn Minh Châu là nhà văn mặc áo lính, ông ý thức sâu sắc về sứ mệnh cao cả, nhiệm vụ thiêng liêng của người cầm bút trong giai đoạn khốc liệt nhất của chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Tâm niệm sáng tác của ông lúc này là hướng đến cuộc “ chiến đấu vì sự sống còn của cả dân tộc, đất nước”, do vậy nhà văn đã dành gần hai chục năm sung túc của cuộc đời để tìm tòi, khám phá, thành tâm và say sưa ca ngợi vẻ đẹp lung linh, kì ảo của cuộc sống và tâm hồn con người trong chiến tranh. Trong giai đoạn này ông đã sáng tác những tác phẩm với những thể loại khác nhau như: tiểu thuyết, truyện ngắn. Với thể loại tiểu thuyết có những tác phẩm như: Cửa sông (1966), Dấu chân người lính (1972), Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977)… Trong đó tiểu thuyết “ Dấu chân người lính” là tiểu thuyết nổi bật trong các tiểu thuyết trong giai đoạn này. Tiểu thuyết này đã được Nguyễn Minh Châu miêu tả 6
- chân thực người lính trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhưng đồng thời họ là người lính trẻ của một thời đại mới. “ Dấu chân người lính” như một bản hùng ca trong chiến đấu. Người đọc bắt gặp nhiều những nét hào hùng, cao cả của những người lính ở chiến tranh, những trận đánh thắng lợi, những niềm vui lạc quan trong chiến đấu. Nói chung tiểu thuyết trong giai đoạn này đều ca ngợi vẻ đẹp hào hùng của người lính trong chiến đấu, ca ngợi lí tưởng cộng sản và con đường đi xây dựng chủ nghĩa xã hội… Trong giai đoạn này Nguyễn Minh Châu đã thành công tập truyện ngắn “ Những vùng trời khác nhau” (1970). Truyện ngắn trong giai đoạn này Nguyễn Minh thường viết về người cán bộ, chiến sĩ quân đội. Ngoài ra, Nguyễn Minh Châu còn khám phá vẻ đẹp trong tâm hồn của người Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh. Trong tập truyện ngắn “ Những vùng trời khác nhau”, ông đặc biệt thành công với truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng”. Ở truyện ngắn này ông đặc biệt ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Nguyệt và mối tình trong sáng giữa Lãm và Nguyệt. Ông không đi sâu vào đề tài chiến tranh khốc liệt đau thương mà Nguyễn Minh Châu chủ yếu đưa người đọc đến việc cảm nhận trữ tình trong tâm hồn con người. Còn nhân vật Nguyệt với tình yêu trong sáng với Lãm. Trong khói lửa của đạn bom nhưng lại có một truyện tình rất đẹp, sự thủy chung son sắc giữa Nguyệt và Lãm. Một sự hy sinh cao cả vì sự nghiệp chung của cả dân tộc đành nén lại những cảm xúc của cá nhân mà hướng vể đất nước. Trong thời điểm này sự hy sinh mất mát là không thể nào tránh khỏi, số phận con người với bao hy sinh, mất mát, chia lìa… nhưng phải dằn lòng nén lại và hướng về nhân dân, đất nước. Giai đoạn sau năm 1975 Nguyễn Minh Châu là nhà văn trưởng thành trong thời kì chống Mỹ và cũng chính ông đã cho chúng ta hiểu hơn con người Việt Nam với những hy sinh vô bờ bến trong cuộc kháng chiến trường kì gian khổ trước đây cũng như trong cuộc tái thiết đất nước sau này. Cùng với xu hướng tái hiện lại kí ức chiến tranh, những sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu còn đề cập các khía cạnh mới mẻ mà những người lính một thời chỉ quen hành quân và cầm súng chiến đấu với kẻ thù, nay bước vào cuộc sống hòa bình tiếp tục công cuộc lao động xây dựng và tái thiết đất nước. Văn học trở về với cuộc sống thường nhật, hằng ngày. 7
- Sau 1975, Nguyễn Minh Châu có 23 truyện ngắn, gồm 8 truyện in trong tập “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, 9 truyện in trong tập “Bến quê”, 3 truyện in trong tập “Cỏ lau”, 3 truyện đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội (Chú chim, Chợ Tết, Sân cỏ Tây Ban Nha – xem Phụ lục, Nguyễn Minh Châu toàn tập, tập 5). Điểm qua quá trình sáng tác truyện ngắn của ông, ta có thể nhận thấy số lượng truyện ngắn viết sau 1975 dù không nhiều hơn bao nhiêu nhưng có chất lượng vượt trội so với các truyện viết trước 1975. Những truyện được đánh giá cao như: Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa, Khách ở quê ra, Cỏ lau, Phiên chợ Giát…Ngoài ra, Nguyễn Minh Châu còn viết về tiểu thuyết thiếu nhi có các tác phẩm như: “Từ giả tuổi thơ” (1974), “Những ngày lưu lạc” (1981), “Đảo đá kì lạ”(1985)…đều thuộc về giai đoạn thứ hai này. Căn cứ vào thời gian ra đời và những chuyển đổi trên nhiều phương diện nghệ thuật, có thể coi Bức tranh là tác phẩm đánh dấu bước ngoặt trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu qua hai giai đoạn trước và sau 1975. Thiên truyện này được viết từ 1976, ngay sau khi kết thúc chiến tranh nhưng mãi đến 1982 mới được in. Dù không phải là tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu nhưng truyện ngắn này đã cắm một cột mốc quan trọng trong hành trình sáng tạo văn học của nhà văn, dự báo cho sự ra đời những tác phẩm tiếp theo với một quan niệm, một mô hình, một bút pháp hoàn toàn mới. Từ đây, cái nhìn của nhà văn đã thay đổi theo hướng tiến gần đến sự thực hơn, quan tâm nhiều hơn đến hiện thực đời thường với số phận của con người cá nhân. Ngòi bút của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn sau năm 1975 đã gần gũi với đời sống thực tại hơn, giản dị và sâu sắc hơn. Những tác phẩm của ông đi sâu vào phản ánh đời sống khó khăn khi đất nước đã hòa bình và cuộc sống mà nhân dân ta phải đối mặt. Trong thời kì sau năm 1975 ngòi bút của Nguyễn Minh Châu thật sự trưởng thành. Đặc biệt với thể loại truyện ngắn ông thật sự gây được tiếng vang trong nền văn học dân tộc và trong lòng người đọc. Mỗi câu truyện chứa những đều mà làm ta đáng suy ngẫm. Qua những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu giúp chúng ta hiểu hơn về cách làm người và cách đối nhân xử thế. 8
- 1.2 Đặc điểm truyện ngắn 1.2.1 Khái niệm Thuật ngữ “truyện ngắn”(tiếng Pháp là nouvelle, tiếng Anh là short story, Trung Quốc gọi là đoản tiên tiểu luận). Có nhiều quan niệm và định nghĩa về truyện ngắn. Ở nước ngoài như: K.Pauxtopxki định nghĩa truyện ngắn “ tôi nghĩ rằng truyện ngắn là một truyện viết ngắn gọn, trong đó có cái không bình thường và có cái bình thường hiện ra như một cái không bình thường” [11;tr.105]. Ngoài ra còn có quan niệm của Norman Fridman về truyện ngắn “Hình thức hư cấu tự sự ngắn bằng văn xuôi”[5;tr.398] Ở Việt Nam, các nhà văn, nhà nghiên cứu cũng có nhiều quan niệm và định nghĩa về truyện ngắn: Nguyễn Công Hoan quan niệm rằng: “Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ bằng thái độ với cách đặt câu dùng từ có căn nhắc. Muốn truyện là truyện ngắn chỉ nên lấy một ý chính làm chủ đề cho truyện chỉ nên xoay quanh chủ đề ấy”[12;tr.13-14]. Còn Nguyên Ngọc thì cho rằng: “truyện ngắn là một bộ phận tiểu thuyết. Nói chung, không nhất thiết trói buộc truyện ngắn vào khuôn mẫu gò bó. Truyện ngắn với nhiều vẻ, có truyện viết cả một đời người, lại có truyện chỉ một vài giây thoáng qua”.[11;tr.26]. Vậy, truyện ngắn là truyện có những chi tiết cô đúc, có dung lượng nhỏ và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Truyện ngắn là một thể loại gần gũi với đời sống hằng ngày, súc tích, dễ đọc, lại thường gắn liền với hoạt động báo chí, do có tác dụng, ảnh hưởng kịp thời trong đời sống. Truyện hàm chứa cái thú vị của những chiều sâu sắc trong một hình thức nhỏ, đầy truyền cảm, truyền đạt nhanh những thông tin đến cho độc giả. 1.2.2 Đặc điểm truyện ngắn Yếu tố ngắn là đặc điểm đầu tiên để nhận dạng loại truyện này là dung lượng của tác phẩm “truyện ngắn là tác phẩm tự sự có kích cở nhỏ, nội dung của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống đời tư, thế sự hay sử thi nhưng cái độc đáo là ngắn”.[14;tr.1846]. Trong văn học Việt Nam hiện đại có truyện ngắn như: Đời thừa của Nam Cao, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh 9
- Châu, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh…Truyện ngắn với hình thức ngắn gọn, nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu thực tế cuộc sống. Cốt truyện trong truyện ngắn cũng là một phương thức nghệ thuật đáng chú ý. Trong quyển lí luận văn học, Hà Minh Đức đã dẫn “cốt truyện là một hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống và nhất là cái xung đột xã hộ một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong các mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm”.[6;tr.137]. Mô ôm- nhà văn viết truyện ngắn cũng khẳng định: “nhà văn sống bằng cốt truyện, y như họa sĩ sống bằng màu và bút vẻ vậy”.[12;tr.194]. A Tônxtôi cũng cho rằng: “cần tìm cho được cốt truyện. Đôi khi chỉ xảy ra chốt lát và vài giây thôi, nhưng giống như một thứ thuốc đậm đặc, những cốt truyện hay có khả năng khiến cho tư tưởng, những quan sát và những hiểu biết đang chồng chất hỗn loạn hiện ra thành lớp lang rành mạch. Những cốt truyện cỡ đó là cả một tìm tòi, phát hiện.[12;tr.98]. Yếu tố tình huống xem như là một thao tác để triển khai cốt truyện. Tình huống thường gặp trong truyện ngắn: tình huống- kịch, tình huống- tâm trạng, tình huống tượng trưng. Việc phân chia các tình huống khác nhau là thao tác cần thiết để tìm hiểu các phương tiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của mỗi nhà văn. Các nhà văn sử dụng truyện ngắn làm “ thể loại năng động đã “bấm nguyệt” đời sống bằng cách sáng tạo các tình huống sáng tạo nghệ thuật đặc sắc để phản ánh sự đa dạng và phức tạp của đời sống”.[17;tr.125]. Chi tiết trong truyện ngắn đóng vai trò quan trọng, nó là “ các tiểu thuyết của tác phẩm nghệ thuật văn xuôi tự sự, có khả năng biểu hiện tư tưởng và cảm xúc”.[17;tr.83]. Chi tiết bao giờ cũng có tính chất biểu tượng và truyện ngắn sống được là nhờ vào các chi tiết hay và cũng chính nó mà không khí, tình huống, tính cách, hành động, tâm tư của nhân vật được bộc lộ đầy đủ. Kết cấu của truyện ngắn “là sự sắp xếp phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật, tức là sự cấu tạo của tác phẩm tùy theo nội dung và thể tài, kết cấu gắn kết các yếu tố hình thức và phối thuộc chúng với tư tưởng. Các quy luật của kết cấu- là kết quả của nhận thức thẩm mĩ, phản ánh những liên hệ bề sâu của thực tại. Kết cấu nội dung có tính độc lập. Các phương pháp và thủ pháp kết cấu sẽ cảm biến và đào sâu hàm nghĩa của cái được mô tả”.[1;tr57]. Kết cấu là phương tiện cơ bản của 10
- sáng tác nghệ thuật, ngoài các kết cấu thông thường còn có những kết cấu theo thời gian, kết cấu theo nhân vật, kết cấu theo tâm lý…Nhà văn Ma Văn kháng ý thức rõ về vai trò của kết cấu “vấn đề là anh tổ chức sao cho truyện của anh thành một lát cắt gọn ghẽ. Nhưng ta vẫn nói toàn truyện là cái vòng kép kín, không quá trình, không quá ngắn, không xô đẩy, xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào”.[13;tr.114]. Ngôn ngữ cũng là một quan trọng không thể thiếu trong truyện ngắn. Người viết văn phải có vốn ngôn ngữ và từ vựng phong phú, từ đó làm cho tác phẩm của mình có giá trị về mặt nội dung và nghệ thuật. Ngôn ngữ trong truyện ngắn phải là một thứ ngôn ngữ cô đọng, trong sáng và chính xác thể hiện theo phong cách riêng của mỗi nhà văn. Như vậy ngôn ngữ của truyện ngắn phải mang sức sống của tác phẩm, nó phải thật sinh động để diễn tả hết ý nghĩa của chủ đề tư tưởng và nhân vật. Ngôn ngữ của truyện ngắn mang dấu ấn cá nhân của người viết. Yếu tố quan trọng trong truyện ngắn là nhân vật, bởi vì truyện ngắn được hình thành là nhờ vào nhân vật. Nhân vật là “thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật, một trong những dấu hiệu chỉ tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho đặc điểm giống với con người”.[1;tr.642]. Trong tác phẩm, nhân vật là “nơi duy nhất tập trung hết thảy trong sáng tác”, “ chỉ có nhân vật mới kiểm tra được cốt truyện, nhân vật mới có quyền chi phối ý chính, ý phụ”[13; tr.181]. Trong truyện ngắn mỗi nhân vật chỉ thể hiện về phương diện nào đó trong cuộc đời. Mỗi nhà văn viết truyện ngắn điều có một kiểu nhân vật riêng, mỗi nhân vật chỉ thể hiện về một phương diện, một khía cạnh nào đó của cuộc đời. 11
- Chương 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU 2.1 Hệ thống đề tài 2.1.1 Đề tài về người lính Nhân vật người lính không xuất hiện dưới vầng hào quang chiến thắng hay được tỏa sáng bởi những phẩm chất anh hùng mà là với những nỗi đau, những thiệt thòi, mất mát. Chiến tranh không chỉ có thắng lợi, vinh quang mà còn là những mất mát không thể nào bù đắp, là những bi kịch mà chỉ những người trong cuộc mới thấu hiểu hết. Bước ra từ chiến tranh, trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu xuất hiện kiểu con người thương tích, mang trên mình những vết thương đau đớn, dai dẳng trong tâm hồn, theo suốt cả cuộc đời. Trở lại vấn đề chiến tranh và người lính những năm tám mươi của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Một nhà văn có một nhận thức lại cuộc chiến đấu và con người thời chống Mỹ qua hàng loạt tác phẩm như: Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành…Nhà văn đã khai thác chiều sâu của sự đau thương, tổn thất của từng số phận cá nhân của người lính. Mỗi người lính là một tấm gương sáng, mẫu người lí tưởng của thời đại. Trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nên vẻ đẹp tâm hồn của các nhân vật trong Những vùng trời khác nhau hiện lên qua những giây phút suy tư, ngẫm ngợi. Họ cũng có những hành động dũng cảm, những giây phút anh hùng khi đối mặt với kẻ thù nhưng ấn tượng đẹp của người đọc về họ là ở những lúc họ suy nghĩ về mình, về đồng đội, về quê hương. Trong suốt chiều dài câu chuyện, Lê suy nghĩ nhiều về Sơn, về những nét đẹp vừa được khám phá từ người đồng đội thân thiết. Từ cảm nhận về Sơn, anh say mê tự cắt nghĩa cho chính mình về cái nguyên cớ đẹp đẽ đã đưa họ đến với nhau, “bên nhau trên một khẩu pháo…,cùng chung tấm giát nằm, mặc chung nhau vài chiếc áo”[3; tr 41], để cùng bảo vệ vùng trời chung thiêng liêng. Giàu xúc cảm nhất là đoạn diễn tả tình cảm của Lê khi bất chợt đang trên đường hành quân bỗng nghe thấy âm thanh quen thuộc của “một giọng hò và nhịp mái chèo” quê hương, anh “trở thành một người mơ mộng thực sự. Anh nghe rất rõ tiếng mái chèo đặc biệt của con sông quê anh. Tiếng mái chèo đò dọc chậm rãi và uể oải xuôi sông Lam thưở lọt lòng Lê đã nghe rồi nhớ không dứt ra được…” 12
- [3; tr 44] . Những hình ảnh của những lính thật đẹp biết bao khi đã cố hiến bản thân mình cho quê hương, đất nước. Nhưng đến khi hòa bình lập lại họ chẳng được hưởng những phút bình yên trong cuộc sống mà đổi lai số phận của những lính lại có một hoàn cảnh trớ trêu và đầy nghiệt ngã. Đề tài về người lính trong Cỏ lau là một bi kịch của số phận con người sau chiến tranh, một thứ mặt trái của tấm huy chương. Có thể thấy trong truyện cả một tập hợp những mảnh đời bất hạnh, từ cha con Lực cho đến Thai, người chồng sau của Thai,… Tất cả họ, với những mức độ khác nhau, đều là những nạn nhân của chiến tranh mà người chịu nhiều mất mát hơn cả là Lực. Chiến tranh đã lấy đi của Lực tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc gia đình và cả những tháng ngày bình yên cuối cuộc đời. Là một con người từng trải đã sống gần trọn cuộc đời mình trong những năm tháng chiến tranh, đến cuối đời anh đã thấm thía nhận ra: “Chiến tranh, kháng chiến, không phải như một số người khác, đến bây giờ tôi không hề mảy may hối tiếc đã dốc tất cả tuổi trẻ vào đấy cống hiến cho nó, nhưng nó như một nhát dao phạt ngang mà hai nửa cuộc đời tôi bị chặt lìa thật khó gắn liền lại như cũ”[3; tr470] . Đây là cảm nhận về chiến tranh của một người lính giờ đây đang đối diện với hoàn cảnh éo le của số phận riêng. Số phận trớ trêu như đùa giỡn với anh, ngày trở về của anh đáng ra phải ngập tràn trong niềm vui đoàn tụ nhưng hóa ra không phải vậy, thay vào đó là nỗi cay đắng, ngậm ngùi. Người cha của anh không còn nhận ra anh, vợ anh giờ đã có một gia đình khác, em trai chết, bản thân anh cũng có một ngôi mộ của riêng mình. Sự xuất hiện của anh trở thành một tình thế khó xử cho tất cả mọi người. Và dù cho anh không nỡ phá sự yên ổn của gia đình Thai, thì liệu chăng anh, Thai và cả ông Quảng có thể tìm thấy được sự thanh thản trong tâm hồn những tháng ngày còn lại. Quyết định chạy trốn Thai và chọn một cuộc sống cô đơn cho những ngày cuối đời của mình bên bờ sông Đồng Vôi là một sự lựa chọn hết sức đau đớn của Lực. Sự lựa chọn ấy đã góp phần cho thấy vẻ đẹp nhân hậu, vị tha trong tâm hồn nhân vật nhưng đồng thời cũng khắc sâu thêm nỗi bất hạnh mà anh phải gánh chịu. Cả anh và Thai sẽ tiếp tục chịu đựng hi sinh như đã từng trong chiến tranh nhưng giờ đây không phải cho những lí tưởng cao xa mà cho một hiện thực đã an bài, để giữ lại cho nhau những điều tốt đẹp nhất có thể. 13
- Tuy Lực đã anh dũng trong cuộc chiến đấu, cao thượng trong tình yêu, ứng xử tốt với mọi người, chấp nhận hạnh phúc của mình cho con người khác nhưng có lúc Lực cũng nhỏ nhen, ích kỉ, tự ái. “Chỉ có người đứng ngoài thấy chứ Phi Phi có biết gì, cô đang quan tâm với cái nắp tiểu sành không được bằng. Cô cuốn mấy lá lau gập làm tư làm tám chêm vào, xòe mười ngón tay ấn thử, chiếc nắp tiểu vẫn gò xuống thành tiểu lạch cạch, cô rút chiếc cặp tóc theo cả mái tóc đỗ ra, cầm luôn mấy tờ giấy bạc cung cái cặp tóc nhét đệm vào”.[3; tr511]. Lực cũng có lúc sám hối, tự thú về những lỗi lầm của mình, chỉ vì một cơn giận người khác, lại chút tư thù đầy nhỏ nhen với người chiến sĩ liên lạc Phi phải chết. Đây là điểm nói lên sự sai xót của Lực khi thực hiện kế hoạch tập kích bị thất bại. Cỏ lau lại dựng lên một nhóm tượng đài kí ức về những con người bất hạnh, những thân phận nỗi chìm trong chiến tranh, trong đó có nhân vật đứng người sau, kẻ mờ người đậm đều quần tụ xung quanh những hình người bằng đá đầy cô đơn giữa trời xanh. Họ điều là nạn nhân của chiến tranh với những cuộc đời éo le, ngang trái. Chiến tranh như “nhát dao phạt ngang” xé lìa cuộc đời thành hai nửa không thể gắn liền lại như cũ rồi lại ghép lẫn lộn những nữa đời khác biệt với nhau tạo nên những bi kịch đau đớn, nặng nề cho bộ ba Lực- Thai- Quảng. Trong truyện ngắn Bức tranh còn nổi bật một hình tượng nhân vật nữa, đó là anh thợ cắt tóc- người lính Trường Sơn năm xưa là một con người hết sức bình dị, lẫn vào trong số đông anh cũng như bao nhiêu người lao động bình thường khác. Từ chiến trường trở về, anh trở lại với công việc cắt tóc trong cái quán sơ sài trên hè phố. Lúc ở bộ đội cũng như khi trở về anh vẫn “ trở về làm một anh thợ cắt tóc cũng như lúc ở bộ đội, anh vẫn lẳng lặng sống như vậy, để cho người chung quanh tự phán xét lấy những công việc đã làm” [3;tr 134] . Trong lúc ở chiến trường, anh đã không ngại khó khăn, nguy hiểm để thồ tranh và giúp đỡ người họa sĩ nhưng anh chỉ mong rằng người họa sĩ vẽ bức tranh chân dung mình để gửi về cho mẹ ở quê nhà để làm vật chứng minh là mình vẫn còn sống “ vừa rồi tôi gặp một cậu tân binh ở ngoài mới bổ sung vào. Mới biết, không hiểu sau gia đình tôi ngoài Bắc lại nghe tin tôi hy sinh. Thư từ ngoài đây gửi về ngoài ấy mất một năm. Mấy năm nay tôi định gửi về nhà một cái ảnh theo cái đều ước của tôi từ lâu, mà không chụp được! Tôi ngắt lời anh: 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
79 p | 100 | 38
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Tình huống truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
89 p | 36 | 21
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc điểm truyện ngắn lãng mạn của Macxim Gorki
72 p | 42 | 18
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Phương thức chiếu vật trong một số tác phẩm của Nam Cao
79 p | 45 | 18
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Thi pháp tập truyện Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân
69 p | 45 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt
72 p | 24 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật trí thức tiểu tư sản trong sáng tác của Nam Cao
86 p | 24 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Hình ảnh người phụ nữ trong thơ Nguyễn Duy
85 p | 19 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cơ chế tạo hàm ý trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
68 p | 21 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cảm hứng lãng mạn trong tập thơ "Gió lộng" của Tố Hữu
72 p | 22 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ địa phương trong ca dao Nam bộ
80 p | 23 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ chỉ đồ dùng trong gia đình và công cụ nông nghiệp trong ca dao Nam bộ
81 p | 18 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Nhân vật mang tính tự thuật trong tác phẩm của Nam Cao
85 p | 28 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc điểm truyện Ba Phi
87 p | 20 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Tìm hiểu địa danh trong ca dao đồng bằng sông Cửu Long
70 p | 17 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ chỉ động vật trong ca dao Nam bộ
103 p | 23 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Chàng trai và cô gái trong ca dao Nam bộ về tình yêu đôi lứa
79 p | 13 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Hình ảnh người phụ nữ trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng
84 p | 17 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn