intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Hoàng Hoa Thám, hiện thực lịch sử và những phiên bản văn chương

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:179

15
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài có cấu trúc gồm 4 chương trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài luận án; Hoàng Hoa Thám trong phiên bản folklore; Hoàng Hoa Thám trong phiên bản văn học viết; Hoàng Hoa Thám trong đời sống cộng đồng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Hoàng Hoa Thám, hiện thực lịch sử và những phiên bản văn chương

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRIỆU THỊ LINH HOÀNG HOA THÁM, HIỆN THỰC LỊCH SỬ VÀ NHỮNG PHIÊN BẢN VĂN CHƯƠNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2017
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRIỆU THỊ LINH HOÀNG HOA THÁM, HIỆN THỰC LỊCH SỬ VÀ NHỮNG PHIÊN BẢN VĂN CHƯƠNG Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62 22 01 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. TRẦN THỊ HẢI YẾN 2. PGS.TS. DƯƠNG THU HẰNG THÁI NGUYÊN - 2017
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 10 năm 2017 Tác giả luận án Triệu Thị Linh
  4. ii LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài. Tôi xin cảm ơn Lãnh đạo Trường Đại học Tân Trào, Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Giang, Chính quyền và nhân dân Yên Thế đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành công trình nghiên cứu. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến TS. TRẦN THỊ HẢI YẾN - người đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo và nâng đỡ để tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này. Bên cạnh đó, tôi xin cảm ơn PGS.TS. Dương Thu Hằng đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thiện công trình và bảo vệ luận án. Tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến gia đình, người thân, các bạn đồng nghiệp, những người luôn động viên, khuyến khích và giúp đỡ về mọi mặt để tôi có thể hoàn thành công việc nghiên cứu của mình. Thái Nguyên, tháng 10 năm 2017 Tác giả luận án Triệu Thị Linh
  5. iii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................ii MỤC LỤC ................................................................................................................. iii MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Lý do lựa chọn đề tài ............................................................................................... 1 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 2 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 4 4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 5 5. Đóng góp mới của luận án ...................................................................................... 6 6. Bố cục của luận án .................................................................................................. 6 NỘI DUNG ................................................................................................................ 7 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................ 7 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu các phiên bản văn chương và folklore về Hoàng Hoa Thám ........................................................................................................ 7 1.2. Cơ sở giải quyết các vấn đề của luận án ........................................................... 11 1.2.1. Cơ sở lý thuyết ................................................................................................ 11 1.2.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................ 19 1.3. Phiên bản lịch sử về Hoàng Hoa Thám và khởi nghĩa Yên Thế…………………28 1.3.1. Hoàng Hoa Thám qua kiến tạo lịch sử……………………………………….. .28 1.3.2. Khởi nghĩa Yên Thế qua kiến tạo lịch sử……………………………………34 Chương 2: HOÀNG HOA THÁM TRONG PHIÊN BẢN FOLKLORE .......... 38 2.1. Hoàng Hoa Thám trong thơ ca dân gian và các hình thức văn vần ................. 38 2.1.1. Hoàng Hoa Thám qua các bài ca dao .............................................................. 38 2.1.2. Hoàng Hoa Thám trong các hình thức văn vần .............................................. 39 2.2. Hoàng Hoa Thám trong phiên bản truyện kể dân gian ..................................... 49 2.3. Hoàng Hoa Thám trong lễ hội dân gian ............................................................ 61 Chương 3: HOÀNG HOA THÁM TRONG PHIÊN BẢN VĂN HỌC VIẾT ....... 69 3.1. Hoàng Hoa Thám trong phiên bản văn học viết trước 1945 ............................. 70
  6. iv 3.1.1. Truyện “Chân tướng quân” (Phan Bội Châu) ................................................. 70 3.1.2. Phóng sự “Bóng người Yên Thế” (Việt Sinh) và truyện “Cầu Vồng Yên Thế” (Trần Trung Viên) ............................................................................................ 76 3.1.3. Truyện “Lịch sử quân Đề-Thám Yên-Thế” (Ngô Tất Tố và L.T.S) ............... 86 3.1.4. Truyện “Hoàng Hoa Thám” trong tập truyện danh nhân “Tôn Thất Thuyết và những văn thân trong phong trào Cần Vương” (Cố Nhi Tân) ................. 92 3.2. Hoàng Hoa Thám trong phiên bản văn học viết sau 1945 ................................ 99 3.2.1. Tiểu thuyết lịch sử “Núi rừng Yên Thế” (Nguyên Hồng) và “Người trăm năm cũ” (Hoàng Khởi Phong) ................................................................................. 100 3.3.2. Truyện ngắn “Mưa Nhã Nam” (Nguyễn Huy Thiệp) ................................... 116 Chương 4: HOÀNG HOA THÁM TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG ........ 129 4.1. Hoàng Hoa Thám và đời sống tâm linh ........................................................... 129 4.2. Phiên bản văn - sử về Hoàng Hoa Thám trong chương trình giáo dục phổ thông toàn quốc và địa phương Bắc Giang ............................................................ 138 4.2.1. Phiên bản văn học ......................................................................................... 139 4.2.2. Phiên bản lịch sử ........................................................................................... 140 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .......................................................................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152 PHỤ LỤC
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Văn học và lịch sử có mối quan hệ rất khăng khít, nhất là ở các nước phương Đông. Ở Việt Nam thời trung đại, chịu ảnh hưởng Trung Hoa, văn-sử cùng với triết tạo nên một “tổ hợp” dường như không tách biệt, mà ta quen gọi là “văn sử triết bất phân”. Tình hình này dần thay đổi, đặc biệt ở thời cận hiện đại, khi khoa học phương Tây (cả tự nhiên và xã hội) du nhập và phát triển. Và kể từ giai đoạn này, văn-sử tồn tại thành những khu vực riêng nhưng vẫn gắn bó mật thiết. Văn học phản ánh, soi chiếu, tìm hiểu con người và hiện thực, trong đó có lịch sử; còn lịch sử cung cấp những dữ liệu (như sự kiện, nhân vật) cho nhà văn sáng tác. Tuy nhiên, khi thành những khu vực khác biệt, văn chương và lịch sử cũng có những nguyên tắc tồn tại và “vận hành” riêng. Đó là lý do để vấn đề hiện thực và hư cấu trong tác phẩm văn chương viết về lịch sử thường được trở đi trở lại trong nghiên cứu phê bình văn học. Cuộc khởi nghĩa Yên Thế do vị thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám lãnh đạo thuộc giai đoạn lịch sử chống thực dân Pháp kiên cường nhưng bi thiết của dân tộc. Dẫn dắt cuộc khởi nghĩa nông dân chống Pháp lớn nhất trong lịch sử cận đại và kéo dài trên 20 năm, Hoàng Hoa Thám hiển nhiên trở thành một nhân vật lịch sử, một anh hùng dân tộc. Cuộc đời thực, giai thoại luôn đan xen xung quanh ông. Chiến công và chất hư-thực đó đã cuốn hút sự chú ý của các nhà văn (nghệ sĩ), trở thành chất liệu cho nhiều tác phẩm văn chương nghệ thuật về Hoàng Hoa Thám. Vì vậy, tìm hiểu những sáng tác văn chương về nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám một mặt sẽ bổ sung cho những nghiên cứu đã có về mối quan hệ giữa hiện thực lịch sử và sáng tạo văn chương; mặt khác sẽ có ích cho việc nghiên cứu những đổi thay trong quan niệm về mối quan hệ này cũng như sự đổi thay trong nghệ thuật viết của các nhà văn. Hơn nữa, từ những câu chuyện lịch sử chống ngoại xâm còn có thể hiểu thêm vấn đề dân tộc và những cách hình dung về nó qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Đồng thời, nghiên cứu Hoàng Hoa Thám theo hướng này còn có thể gợi mở cho việc tiếp cận các nhân vật lịch sử hoặc sự kiện lịch sử khác của Việt Nam. Và
  8. 2 theo khảo sát của chúng tôi, cách tiếp cận như vậy, cho đến thời điểm này, chưa thành một lựa chọn nghiên cứu riêng và tập trung. Vì lẽ đó, chúng tôi chọn "Hoàng Hoa Thám, hiện thực lịch sử và những phiên bản văn chương" là đề tài nghiên cứu. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là hình ảnh Hoàng Hoa Thám trong các ghi chép lịch sử, trong các hình thức folklore, và trọng tâm là trong tác phẩm văn học viết. Bên cạnh đó, luận án còn khảo sát việc lưu truyền và phổ biến hình ảnh nhân vật này trong đời sống cộng đồng (lễ hội và giáo dục phổ thông). 2.2. Phạm vi nghiên cứu Trước khi xác lập phạm vi cho nghiên cứu này, chúng tôi xin trình bày quan niệm về nội hàm hai khái niệm “văn bản” và “phiên bản”. Có nhiều cách diễn giải khác nhau về khái niệm “văn bản”. Ở đây chúng tôi quan tâm đến khái niệm của Iu. M. Lotman (1922-1993) - người được coi là người sáng lập và dẫn dắt trường phái hình thức Nga - “một khuynh hướng khoa học hoạt động sôi nổi vào những năm 1960-1980, liên quan đến nhiều lĩnh vực: nghiên cứu văn học, kí hiệu học, ngôn ngữ học, văn hoá học”. Bởi, hướng quan tâm đến chủ nghĩa cấu trúc trong văn hóa học này, như Lã Nguyên phân tích, “góp phần quan trọng làm thay đổi các quan niệm ký hiệu học truyền thống…, khái niệm văn bản sẽ phải thay đổi về cơ bản” [113]. Vậy “văn bản”, theo quan niệm của Lotman nói riêng và các nhà ký hiệu học nói chung là gì? Đó là “một thông báo” được mã hóa hai lần - bằng ngôn ngữ tự nhiên và ngôn ngữ đặc thù [113], là “bất kỳ chuỗi ký hiệu nào có khả năng tiềm tàng có thể đọc ra nghĩa được, bất kể là do ký hiệu ngôn ngữ tạo thành hay không” [26, tr.395]. Theo cách diễn giải này, “văn bản” không chỉ được coi là có giao tiếp đa dạng, đa chiều với chủ thể tạo văn bản cũng như với người tiếp nhận văn bản mà còn có một biên độ rộng rãi hơn hẳn định nghĩa truyền thống về văn bản vốn chỉ coi là các phương tiện liên quan đến ngôn ngữ1. Với tư 1 Quan niệm này định nghĩa “Văn bản là: “1/Bản ghi bằng chữ viết hoặc chữ in một phát ngôn hoặc một thông báo bằng ngôn từ; 2/Phương tiện tri giác cảm xúc của tác phẩm ngôn từ (trong đó có văn học), được biểu đạt và ghi lại bằng các ký hiệu ngôn ngữ; 3/Đơn vị nhỏ nhất của giao tiếp bằng ngôn ngữ” [26, tr.373].
  9. 3 cách một ký hiệu văn hoá, văn bản [của Lotman] không còn bị hạn định trong một loại ngôn ngữ đặc thù nào đó, cũng không còn chỉ thuộc về những chất liệu hoặc phương tiện nhất định1 mà chỉ cần thỏa mãn các tiêu chí: là một thông báo, được mã hoá (2 lần), và nằm trong tương tác với chủ thể và với người tiếp nhận. “Văn bản”, như cách hiểu trên đây, thực chất đã nới rộng quan niệm cũ và bao trùm cả khái niệm “phiên bản”. Ngoài ra, khái niệm “phiên bản” mà chúng tôi sử dụng còn được hiểu trong quan hệ với “nguyên bản”. “Phiên bản” xuất sinh từ “nguyên bản” nhưng có thể khác nguyên bản; từ một nguyên bản có thể có một hoặc nhiều biến thể khác nhau, chúng tôi gọi những biến thể này gọi là “phiên bản”. Trong trường hợp này, Hoàng Hoa Thám là nhân vật lịch sử, là một lõi hiện thực - đó là nguyên bản. Sau đó, theo thời gian không gian, có các ghi chép sự kiện (sử liệu), các giai thoại, truyền thuyết, thơ ca, lễ hội... (thuộc văn học dân gian); và truyện lịch sử, tiểu thuyết lịch sử, thơ ca, kịch bản... (thuộc văn học viết). Những “văn bản” (text) này đều dựa trên cốt lịch sử nói trên, và vì thế là các phiên bản. Nội hàm “phiên bản” nói trên thực chất là cách xác lập theo quan niệm phản ánh luận, cho rằng văn chương nghệ thuật là sự mô phỏng thực tại. Nhưng dưới cái nhìn của lý thuyết diễn ngôn và các nhà hậu hiện đại chủ nghĩa (mà chúng tôi sẽ trình bày ở mục “Cơ sở lý thuyết” dưới đây) - mà điểm phân biệt quan trọng với quan niệm phản ánh luận là từ chối cách quy chiếu văn bản văn chương nghệ thuật theo thực tại - thì trong 3 dạng phiên bản về Hoàng Hoa Thám nói trên không có phiên bản nào được coi là gốc mà chúng đều chỉ là những phiên bản liên quan đến nhau nhưng đồng đẳng, tức là có thể tương tác với nhau nhưng không nhất thiết lệ thuộc vào bất kỳ một phiên bản nào trong hai phiên bản kia. Từ các nội hàm khái niệm “văn bản”, “phiên bản” như vậy, luận án sẽ có phạm vi nghiên cứu là: phiên bản lịch sử, phiên bản folklore và phiên bản văn học viết liên quan đến nhân vật Hoàng Hoa Thám có niên đại từ khi xảy sự kiện đến ngày nay. Tuy nhiên, với văn học viết, để tập trung vào các nội dung nghiên cứu đã xác định, và cũng do khuôn khổ luận án (về dung lượng và thời gian làm việc), chúng tôi xin được gác lại, không khảo sát mảng văn học trình diễn (gồm kịch nói 1 “Do đó một nghi thức, một điệu múa, một nét mặt, một bài thơ,… đều là văn bản” [26, tr.395].
  10. 4 và kịch hát). Ngoài ra, trong thơ, chỉ trường ca hay diễn ca lịch sử mới ít nhiều có cốt truyện, có chân dung nhân vật, thế nhưng hiện tại sưu tầm của chúng tôi chỉ mới có một đơn vị tác phẩm thuộc thể loại này. Và quan trọng hơn, theo tìm hiểu bước đầu của chúng tôi, tác phẩm này quá ít chất liệu (cả về nội dung và hình thức) đủ để thành một phần tương đương với truyện, tiểu thuyết trong bố cục nghiên cứu. Vì vậy, phần nghiên cứu văn bản văn học viết của đề tài cũng sẽ không bàn riêng về mảng thơ viết về Hoàng Hoa Thám, mà chỉ dùng nó để tham chiếu khi cần. Chúng tôi chọn nghiên cứu những tác phẩm tiêu biểu cho từng giai đoạn, cho từng thể loại và quan điểm viết lịch sử của các nhà văn. Cụ thể xin xem phần mở đầu Chương 3. Với phiên bản lịch sử, do hạn chế về tiếng Pháp, nên nghiên cứu sinh sẽ sử dụng các bản dịch được tập hợp trong Hoàng Hoa Thám (1836-1913) (của Khổng Đức Thiêm). 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Từ việc phân tích, đối sánh hai loại dữ liệu là tư liệu lịch sử và sáng tác văn chương, chúng tôi sẽ tìm hiểu và chỉ ra những điểm gặp gỡ và tách biệt giữa sử liệu và văn liệu trong việc phục dựng một nhân vật lịch sử. Cụ thể: Đối sánh sử liệu và văn liệu để tìm hiểu các sáng tác văn chương đã quan tâm đến nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám và cuộc khởi nghĩa Yên Thế trên các phương diện: nội dung lịch sử, số phận con người và dân tộc. Cách thức kết hợp sử liệu và hư cấu văn chương ra sao khi truyền tải những nội dung đó ở từng thể loại (tức phương thức sáng tạo nghệ thuật). Đồng thời, từ lịch trình văn chương hóa Hoàng Hoa Thám, luận án cũng sẽ chỉ ra những thay đổi trong việc tiếp cận, lý giải, biểu tả và sử dụng sử liệu, tư liệu folklore (về sự kiện, nhân vật) trong các giai đoạn khác nhau của văn chương (chủ yếu là hai dấu mốc 1945 và 1986). Đây là nhiệm vụ của chương 1 (mục 1.3) và toàn bộ chương 3. 3.2. Trên cơ sở thống kê, phân loại các dữ liệu dân gian do người đi trước sưu tầm, chúng tôi bổ sung thêm các khảo sát thực địa, và điều tra xã hội học (tập trung ở khu vực diễn ra cuộc khởi nghĩa Yên Thế), để tìm hiểu việc lưu truyền những câu
  11. 5 chuyện về Hoàng Hoa Thám (giai thoại, sử truyện, sử liệu, tác phẩm văn chương...) trong tâm thức công chúng trước kia và hiện nay. Đây chính là quá trình dân gian hóa sử liệu, là quá trình ký ức cộng đồng tiếp nhận, lưu giữ hình ảnh của nhân vật lịch sử, tức quá trình truyền thuyết, giai thoại, sử liệu, văn liệu... quay trở lại tồn tại trong thực tế. Toàn bộ dữ liệu dân gian, điều tra xã hội học và khảo sát thực địa sẽ được sử dụng để làm rõ thêm sự tác động của lịch sử, văn chương đến thực tại. Mặt khác, đây cũng là căn cứ để khảo sát chiều tác động ngược lại của truyền khẩu dân gian đến cách viết sử, cách sáng tạo văn chương. Các phương diện khảo sát nói trên và mối quan hệ giữa chúng có thể được hình dung theo sơ đồ dưới đây (trong đó mỗi quan hệ đều mang tính hai chiều, và chiều quan hệ với văn học viết là chỗ tập trung của luận án) Văn học dân gian Sử liệu Văn học viết Các phần việc này là nhiệm vụ của hai chương: 2 và 4. 3.3. Tất cả những nhiệm vụ cụ thể nói trên sẽ nhắm đến mục tiêu chung của luận án là chỉ ra những tương đồng, dị biệt trong các phiên bản về nhân vật Hoàng Hoa Thám và thử lý giải chúng với tư cách những liên văn bản, theo quan niệm truyền thống về mối quan hệ giữa lịch sử và các văn bản về lịch sử, cũng như theo những gợi mở của một số lý thuyết hiện đại liên quan đến mối quan hệ này, như một số gợi ý của lý thuyết diễn ngôn và quan niệm mang tính hậu hiện đại. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài chọn hướng tiếp cận là liên ngành, vì đối tượng và định hướng nghiên cứu liên quan đến lịch sử, văn học, văn học dân gian, và phần nào đến giáo dục học. Việc khảo sát, phân tích sử liệu và folklore học sẽ là những phương pháp dùng phối hợp với phương pháp nghiên cứu văn học trong một số phần của luận án. Các mục tiêu nghiên cứu sẽ được thực hiện bằng một phương pháp xuyên suốt là nghiên cứu lịch sử, tức là tìm hiểu/nghiên cứu các hiện tượng trong hoàn cảnh và trục diễn tiến thời gian lịch sử của chính nó. Trong đó, phương pháp văn
  12. 6 học sử được sử dụng tập trung ở chương 3 khi chúng tôi chọn tiếp cận từng tác phẩm riêng lẻ, hoặc nhóm tác phẩm lại theo tiêu chí nhất định chứ không nghiên cứu theo vấn đề. Điền dã kết hợp điều tra xã hội học là hai phương pháp bổ sung, hỗ trợ để tạo những tiếp cận đa hướng đối với vấn đề nghiên cứu. Các thao tác cụ thể để thực hiện đề tài là: thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh. 5. Đóng góp mới của luận án 5.1. Đây là công trình khoa học chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu về các phiên bản Hoàng Hoa Thám trong văn chương (từ văn học dân gian đến văn học viết) và trong đời sống cộng đồng (ở lễ hội và giáo dục), đặt trong tương tác với nguồn sử liệu của cả Pháp và Việt Nam. 5.2. Mối quan hệ giữa hư cấu văn chương và sự thật lịch sử là một đề tài bàn luận chưa bao giờ có điểm kết. Từ việc nghiên cứu trường hợp Hoàng Hoa Thám, chúng tôi góp thêm một ý kiến không chỉ làm rõ hơn vấn đề này mà còn đưa ra một đề xuất về cách diễn giải “sự thật lịch sử”. 6. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận án được chia thành 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài luận án Chương 2: Hoàng Hoa Thám trong phiên bản folklore Chương 3: Hoàng Hoa Thám trong phiên bản văn học viết Chương 4 : Hoàng Hoa Thám trong đời sống cộng đồng
  13. 7 NỘI DUNG Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu các phiên bản văn chương và folklore về Hoàng Hoa Thám Giai đoạn đầu thế kỉ XX, đặc biệt là quãng 1935, một số nhà văn đã đưa hình tượng Đề Thám vào tác phẩm văn chương, cụ thể là ở thể loại truyện kể lịch sử và tác phẩm báo chí. Có thể kể đến các tác phẩm: Chân tướng quân của Phan Bội Châu, năm 1917; phóng sự dài Bóng người Yên Thế của Việt Sinh đăng trên báo Ngày Nay; truyện Cầu Vồng Yên Thế của Trần Trung Viên, truyện lịch sử Lịch sử quân Đề-Thám Yên-Thế của Ngô Tất Tố và L.T.S, đều được công bố năm 1935; tập tiểu truyện Tôn Thất Thuyết và những văn thân trong phong trào Cần Vương của Cố Nhi Tân biên soạn năm 1943,… Sau năm 1945, Đề Thám đã trở thành nhân vật trong nhiều hình thức văn chương. Ông xuất hiện qua hồi ức của con gái trong Kỷ niệm thời thơ ấu (1975) - tập hồi kí của Hoàng Thị Thế về tuổi thơ ở Yên Thế. Đề Thám cũng là nhân vật chính trong những chuyện kể lịch sử và cả những tiểu thuyết đậm đà chất hư cấu như Hoàng Hoa Thám - một vùng rừng (trường ca, Đỗ Vinh, 1988), Tướng quân Hoàng Hoa Thám (tiểu thuyết lịch sử, Lê Minh Quốc, 1996), Mưa Nhã Nam (truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp, 2001), Hoàng Hoa Thám (tiểu thuyết, Huy Cờ, 2003), Vợ Ba Đề Thám (Huy Cờ sưu tầm, 2004), Người trăm năm cũ (tiểu thuyết, Hoàng Khởi Phong, 2009), Rừng thiêng Yên Thế (tiểu thuyết, Huy Cờ, 2013)… Đây là những chất liệu cho các nhà nghiên cứu văn chương thực hiện nhiều đánh giá cụ thể. Tìm hiểu về Đề Thám trong các sáng tác trước năm 1945, có hai nghiên cứu đáng chú ý của các tác giả Cao Thị Hảo và Hoàng Thị Hiên. Tác giả Cao Thị Hảo trong bài viết Nhân vật người anh hùng trong một số truyện kí của Phan Bội Châu đã phân tích các tác phẩm của Phan Bội Châu, trong
  14. 8 đó có truyện Chân tướng quân để tìm hiểu các phương thức nghệ thuật được nhà văn sử dụng để tạo nên sự đổi mới trong việc khắc họa nhân vật người anh hùng. Tác giả chỉ ra sự đổi mới của Phan Bội Châu khi xây dựng nhân vật Hoàng Hoa Thám lần lượt từ việc miêu tả nguồn gốc xuất thân, hành trạng hoạt động và cái chết của nhân vật. Theo tác giả, "các nhân vật anh hùng truyền thống thường được nhấn mạnh ở nguồn gốc xuất thân thần kì, khắc họa ở chi tiết sinh nở kì lạ thì nhân vật anh hùng của Phan Bội Châu không được chú trọng ở yếu tố này" [27, tr.64]. Đồng thời tác giả cũng khẳng định "Phan Bội Châu đã đưa người anh hùng từ thế giới cao sang trở về đời thường, bình dân và xác định được mẫu người anh hùng tiêu biểu của thời đại mình: người anh hùng lấy lí tưởng cứu nước làm lẽ sống" [27, tr.64]. Trong luận văn Nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám trong các sáng tác văn học trước 1945, học viên Hoàng Thị Hiên đã tìm hiểu cách thức kết hợp, xử lí tư liệu lịch sử và hư cấu trong các sáng tác văn học cũng như đặc điểm của việc hình dung, phác họa nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám trong văn chương trước 1945. Đồng thời, tác giả bước đầu chỉ ra được những tương đồng và khác biệt trong cách nhìn của người Pháp và người Việt về Hoàng Hoa Thám cũng như cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Từ đó, tác giả lí giải hiện tượng này với tư cách những biểu đạt tinh thần dân tộc từ một vài gợi ý của các nghiên cứu văn chương thời thực dân [29, tr.64]. Có thể nói, đây là nghiên cứu đầu tiên và rõ nét nhất về nhân vật Đề Thám trong sáng tác văn chương trước 1945. Kết quả nghiên cứu của tác giả đã cho chúng tôi có thêm một ý kiến về vấn đề: phương thức ứng xử của các nhà văn trước 1945 đối với nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám như thế nào. Về hình tượng Đề Thám trong các tác phẩm văn chương sau 1945, chúng tôi nhận thấy vấn đề này chỉ được nhắc đến ở một số nghiên cứu chung về tiểu sử, sự nghiệp hay phong cách của các nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Khởi Phong,... Tác giả Nguyễn Vy Khanh, trong bài viết Nguyễn Huy Thiệp: những chuyện huyền kì, núi, sông và nước... phần giới thuyết về truyện ngắn Mưa Nhã Nam, có nhận xét: "Hùm thiêng Yên Thế của Nguyễn Huy Thiệp là một anh hùng, cũng là một người nhu nhược, anh hùng cũng có những cái hữu hạn" [63, tr.378]. Còn cuốn tiểu thuyết Người trăm năm cũ của Hoàng Khởi Phong được cho rằng đã:
  15. 9 "bám khá sát tư liệu lịch sử, có ngày có tháng cùng những sự kiện liên quan nhưng không phải cuốn biên niên sử về cụ Hoàng Hoa Thám mà là cuốn tiểu thuyết về cuộc đời như tiểu thuyết của cụ" [108]. Các khảo sát trên chú ý đến Đề Thám trong mối quan hệ rộng lớn với những người anh hùng khác như Bà Ba Cẩn, Cả Trọng, Cai Sơn, Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm,... Đặc biệt, nhân vật Hoàng Hoa Thám được phân tích là "một bi kịch của lịch sử, một phản anh hùng vì hành cử đấu tranh của ông đã cùng lúc chuẩn bị cho cái chết của chính ông và nhóm của ông" [110]. Bên cạnh văn học viết, nhiều tư liệu dân gian về Hoàng Hoa Thám (giai thoại, truyền thuyết, thơ ca,...) cũng được sưu tầm, biên soạn và công bố, như: Tìm hiểu về Hoàng Hoa Thám: qua một số tài liệu và truyền thuyết (Tôn Quang Phiệt sưu tầm, 1984), Kể chuyện Hoàng Hoa Thám (Hải Vy sưu tầm, biên soạn, 2010), Truyện kể dân gian về Hoàng Hoa Thám và các tướng lĩnh nghĩa quân Yên Thế (Trịnh Tiến Lưu, Nguyễn Văn Phong đồng chủ biên, 2011),… Việc nghiên cứu và đánh giá khối tư liệu này, trong khả năng tiếp cận của mình, chúng tôi có một khóa luận tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Văn học dân gian là Hình tượng Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân trong văn học dân gian và lễ hội tưởng niệm ở vùng Yên Thế - Bắc Giang của sinh viên Nguyễn Thị Tâm. Trong tiểu luận này, tác giả đã khảo sát hình tượng Đề Thám và nghĩa quân Yên Thế tập trung ở hai thể loại (truyền thuyết, vè) và trong lễ hội địa phương Hưng Yên (tập trung vào các trò diễn dân gian). Nghiên cứu vấn đề này, mục đích của tác giả là: làm sáng tỏ truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, cung cấp thêm cho văn học dân gian một hình tượng mới bắt nguồn từ sự kiện lịch sử, vì vậy, tác giả đã bước đầu đề cập đến những sự kiện lịch sử và xem những sáng tác dân gian này xuất phát từ sự kiện lịch sử. Có thể nói, tác giả đã chạm đến vấn đề mối quan hệ giữa folklore và lịch sử, tuy nhiên, do giới hạn của khóa luận nên cơ sở lí thuyết về vấn đề này cũng như những căn cứ lịch sử hầu như chưa được thiết lập rõ ràng và thảo luận kĩ. Điểm dừng của khóa luận sẽ là cơ hội để chúng tôi nghiên cứu rộng và sâu hơn mối quan hệ giữa lịch sử và folklore qua nhân vật Đề Thám. Về tư liệu, khóa luận chủ yếu sử dụng nguồn dã sử, một số sách nghiên cứu về văn hóa dân gian nói chung, các ghi chép về lễ hội Yên Thế của Sở văn hóa Bắc Giang và giới hạn tại
  16. 10 thời điểm trước năm 2004. Còn trong luận án này, chúng tôi đã mở rộng phạm vi khảo sát và nghiên cứu các nguồn tư liệu đến thời điểm năm 2017: sử liệu (Pháp và Việt, thành văn và dã sử), văn liệu (dân gian, hiện đại, đương đại), tư liệu của Sở văn hóa tỉnh, phòng văn hóa huyện, tư liệu điền dã, điều tra của cá nhân,… Có thể nói, thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám là một nhân vật lịch sử được các nhà văn quan tâm trong non một thế kỉ, dù không liên tục nhưng khối lượng tác phẩm viết về ông tương đối đồ sộ. Theo đó, trong giới nghiên cứu cũng có nhiều công trình, bài viết đánh giá các sáng tác trên. Tuy nhiên, hầu hết những bài viết đều ở dạng đánh giá giá trị biểu dương một nhân vật lịch sử, hoặc nằm trong nghiên cứu chung về sự nghiệp, hoặc nghệ thuật viết của các tác giả. Trong số các nghiên cứu về Hoàng Hoa Thám, có hai luận văn gần gũi nhất với đề tài của chúng tôi, là: Nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám trong các sáng tác văn học trước 1945 của tác giả Hoàng Thị Hiên và Hình tượng Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân trong văn học dân gian và lễ hội tưởng niệm ở vùng Yên Thế - Bắc Giang của tác giả Nguyễn Thị Tâm. Tuy nhiên, các tác giả chỉ dừng lại khảo sát, nghiên cứu ở phạm vi hẹp (các tác phẩm văn chương về Hoàng Hoa Thám giai đoạn trước 1945) hoặc giới hạn thể loại, loại hình nhất định (truyền thuyết, vè, trò diễn dân gian). Trong khi đó, mảng truyện kể, thơ ca và lễ hội dân gian cũng như những tác phẩm văn chương sau năm 1945 viết về Hoàng Hoa Thám khá phong phú, chưa kể đến lễ hội hiện đại và việc lưu truyền nhân vật này trong giáo dục địa phương cũng còn rất nhiều vấn đề cần bàn tới. Thêm nữa, chúng tôi nhận thấy, cho đến nay chưa có một chuyên luận nào tìm hiểu xâu chuỗi các diễn giải về nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám: từ góc độ sử liệu (Việt và Pháp), từ văn chương (văn học dân gian, văn học viết), trong lễ hội (từ dân gian đến hiện đại), và trong giáo dục (ở các môn văn - sử và các cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông). Chính vì những thực tế nghiên cứu nói trên, chúng tôi hy vọng đề tài: "Hoàng Hoa Thám, hiện thực lịch sử và những phiên bản văn chương" sẽ có một giá trị tìm mới nhất định, góp phần mở rộng thêm những vấn đề đã đặt ra, đồng thời mở ra hướng nghiên cứu mới về các nhân vật lịch sử khác được quan tâm trong văn chương nói chung, tiểu thuyết lịch sử nói riêng.
  17. 11 1.2. Cơ sở giải quyết các vấn đề của luận án 1.2.1. Cơ sở lý thuyết 1.2.1.1. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật Về nguyên tắc, mối quan hệ này cần được khảo sát ở cấp độ lý thuyết qua mọi thể loại văn chương. Tuy nhiên, trên thực thế, những luận bàn của các nhà nghiên cứu ở cả phương Tây và phương Đông thường tập trung vào thể loại tiểu thuyết, bởi đây là hình thức tự sự hư cấu xuất hiện thường xuyên hơn, điển hình hơn so với hình thức tự sự trữ tình. Nói khác đi, những thảo luận về quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu tập trung ở tiểu thuyết thường được coi là đại diện cho văn chương nói chung. Vì vậy, những luận thuật dưới đây của chúng tôi xin được thu gọn trong phạm vi sự thật lịch sử - hư cấu trong tiểu thuyết. Ở phương Tây Nhìn từ cấp độ đơn giản nhất của khái niệm, mục từ "Historical novel" (Tiểu thuyết lịch sử) đã được lý giải như sau: Tiểu thuyết lịch sử là một tiểu thuyết mà ở đó hành động diễn ra trong một thời kỳ lịch sử nhất định trước khi nó được viết ra (thường là trước đó một hay hai thế hệ, thi thoảng là vài thế kỷ), và cố gắng khắc họa chính xác những tập tục và trạng thái tinh thần của thời kỳ lịch sử đó. Nhân vật chính - thực hoặc tưởng tượng - thường bị giằng xé về lòng trung thành trong một xung đột lịch sử rộng lớn mà độc giả đã biết.1 Hoặc: Một tiểu thuyết lịch sử là một tiểu thuyết có bối cảnh quen thuộc là một giai đoạn quan trọng của lịch sử, và tìm cách chuyển tải tinh thần, tập tục và điều kiện xã hội của thời quá khứ một cách chi tiết hiện thực và trung thực (trong nhiều trường hợp chỉ có vẻ ngoài trung thực) với thực tế lịch sử. Tác phẩm có thể nói về những nhân vật lịch sử có thực... hay có thể là sự hòa trộn giữa nhân vật hư cấu và lịch sử.2 Cả hai quan niệm đều nhấn mạnh việc khắc họa chính xác những tập tục và trạng thái tinh thần của thời kỳ lịch sử và chuyển tải tinh thần, tập tục và điều kiện 1 Trần Hải Yến dịch theo Từ điển Literary Terms của Oxford. 2 Trần Hải Yến dịch theo Từ điển Encyclopædia Britannica.
  18. 12 xã hội của thời quá khứ một cách chi tiết hiện thực và trung thực của tiểu thuyết lịch sử, tức là coi trọng yếu tố lịch sử trong một cuốn tiểu thuyết lịch sử1. Ở ý kiến thứ hai bắt đầu đề cập đến sự hòa trộn giữa nhân vật hư cấu và lịch sử. Đây là những định nghĩa có phần khác với quan niệm coi nhẹ sự thật lịch sử khi sáng tác đề tài lịch sử của Alexandre Dumas, một nhà tiểu thuyết lịch sử người Pháp. Ông cho rằng: “Lịch sử đối với tôi là gì? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo các bức họa của tôi mà thôi” [dẫn theo 57, tr.22]. Tức là với Dumas sự kiện lịch sử chỉ là phương tiện để nhà văn viết tiểu thuyết và gửi gắm tư tưởng riêng của mình mà thôi. Xử lý sâu hơn các vấn đề của tiểu thuyết lịch sử là công trình The Historical Novel (Tiểu thuyết lịch sử, 1936-1937) của Georg Lukacs - triết gia, nhà văn, nhà mỹ học, nhà phê bình văn học người Hungary. Ở nghiên cứu này, Lukacs trình bày các vấn đề: Cảm thức lịch sử, theo Lukacs là yếu tố quan trọng trong việc sáng tác tiểu thuyết lịch sử: "Lịch sử là cái tồn tại, là tiến trình liên tục của các thay đổi và nó trực tiếp can thiệp vào cuộc đời của từng con người. Các sự kiện lịch sử làm cho con người cảm nhận được điều kiện lịch sử của sự tồn tại của mình, rằng có cái gì đó trong lịch sử liên quan đến bản thân họ" [18, tr.41]. Nói khác đi, lịch sử đã chi phối người cầm bút sáng tác thông qua tác động xã hội mà anh ta đang sống, tác động này sẽ ảnh hưởng đến cái nhìn lịch sử của anh ta, đến lựa chọn viết thể loại tiểu thuyết lịch sử hoặc chọn đề tài và thời đại lịch sử nào. Một số yêu cầu của tiểu thuyết lịch sử: Về nhân vật, Lukacs cho rằng nhân vật tiểu thuyết lịch sử "phải sinh động hơn các nhân vật lịch sử vì các nhân vật của tiểu thuyết lịch sử được trao cho sự sống, còn các các nhân lịch sử thì đã sống" [18, tr.41]. 1 Quan niệm trên khá tương đồng với L. Tôn xtôi - người đã dành một phần tư thế kỉ để nghiên cứu về thời đại Piốt đệ nhất, tác giả của bộ tiểu thuyết lịch sử Chiến tranh và Hòa bình (1863), ông khẳng định: "Bộ tiểu thuyết của tôi chính xác như một tác phẩm nghiên cứu lịch sử và đó chính là sức mạnh của nó". Cùng quan niệm với các nhà văn phản ảnh trung thành lịch sử trên, vào những năm 40 của thế kỉ XX còn có một số nhà viết tiểu thuyết lịch sử nước Anh, như bà Hope Muntz - người đã phải tốn 16 năm để nghiên cứu sử liệu mới viết nổi cuốn tiểu thuyết The golden warrior (1949) nói về William the Conqueror và Harold the Saxon. Còn bà Sylvia Townsend Warner thì phải mất 10 năm để thám hiểm cuộc sống trong một tu viện ở Anh vào thế kỉ XIV, cuốn tiểu thuyết chân thực đến nỗi độc giả cảm thấy rằng chắc bà đã sống ở tu viện mới viết nổi cuốn tiểu thuyết The corner that held them (1947) [72, tr.168].
  19. 13 Về nhiệm vụ của tiểu thuyết lịch sử,theo Lukacs, là "chứng minh sự tồn tại của hoàn cảnh và nhân vật lịch sử bằng công cụ nghệ thuật" [18, tr.41]. Về mối quan hệ giữa hư cấu và sự thật lịch sử, Lukacs cho rằng: "Hư cấu cho phép các nhân vật diễn đạt tình cảm, tư tưởng về các quan hệ lịch sử có thực rõ nét hơn những con người của thời ấy đã từng trải nghiệm, nhưng phải luôn xác thực về mặt lịch sử, xã hội" [18, tr.41]. Lukacs cũng kỳ vọng tiểu thuyết lịch sử phải tạo nên tri giác về kết nối nhân văn giữa con người ở những thời - không khác nhau: "Tiểu thuyết lịch sử phải tái trải nghiệm (re-experience) tâm lý và đạo đức của con người quá khứ như một giai đoạn phát triển của nhân loại, có liên quan và tác động đến con người đương đại chúng ta" [18, tr.41]. Như vậy, Lukacs nghiêng về quan niệm tiểu thuyết lịch sử phải có nhiệm vụ nghệ thuật hóa lịch sử trên cơ sở nhà văn phải đảm bảo luôn xác thực về mặt lịch sử xã hội để tác động vào con người hiện tại. Góp thêm ý kiến về vấn đề thời gian gián cách giữa nhà văn và hiện thực lịch sử được phản ánh, Hội tiểu thuyết lịch sử cũng đã đề xuất một số tiêu chí sơ bộ để nhận diện Tiểu thuyết lịch sử, trong đó có tiêu chí: Tiểu thuyết phải được viết tối thiểu 50 năm sau những sự kiện được miêu thuật, hay được biết bởi một người không sống trong thời của những sự kiện nọ (do vậy chỉ tiếp cận chúng qua nghiên cứu). Như vậy, theo Hội tiểu thuyết lịch sử thì tác giả không trực tiếp trải nghiệm sự kiện lịch sử được trình hiện, mà chỉ tri nhận thông qua nghiên cứu sử liệu, phục dựng lịch sử dựa trên tri thức lịch sử đã có. Tựu trung, quan niệm của phương Tây đã tách biệt sự thật lịch sử và hư cấu. Đồng thời cho rằng tác phẩm nghệ thuật có đề tài lịch sử cần tham gia vào đời sống đương đại như một trải nghiệm mới. Ở phương Đông Có thể nói, quan niệm về mối quan hệ giữa văn - sử được thể hiện rõ nhất ở Trung Quốc. Thời cổ đại, Trung Quốc có quan niệm "văn sử triết bất phân" - văn sử cùng triết tạo thành một tổ hợp gắn bó khăng khít, dường như không tách rời nhau, tạo nên một đặc trưng trong văn học. Quan niệm này chi phối mạnh mẽ các sáng tác của văn học phương Đông cổ đại. Chính vì vậy, nó đã tạo nên hiện tượng "vào
  20. 14 khoảng thế kỉ XIV xuất hiện một thể loại văn trần thuật cỡ lớn, có nguồn gốc từ Văn học dân gian truyền miệng, tạm gọi là sử thi. Thể loại này được sáng tạo dựa trên cơ sở của các chuyện kể có cốt truyện kết hợp với biên niên sử/ hoặc nhiều đoạn trích từ các tài liệu sử khoảng thế kỉ XIII, XIV. Đa số các sáng tác loại này tường thuật về lịch sử, miêu tả sự kiện lịch sử dân tộc từ ngày khai thiên lập địa đến triều Minh. Cùng thời điểm thế kỉ XVI, ở Trung Quốc cũng xuất hiện những cuốn sử thi- anh hùng ca (Thủy hử), hoặc tác phẩm trần thuật cỡ lớn về cuộc đời riêng một người (Kim Bình Mai)" [78, tr.32]. Lỗ Tấn trong Sơ lược lịch sử của tiểu thuyết Trung Quốc có nói: Ban đầu thể loại tiểu thuyết là những thoại bản đời Tống Nguyên. Thoại bản tức là văn bản mà nghệ nhân hay người kể chuyện (thuyết thoại nhân) dùng để kể cho người khác nghe về truyện xưa tích cũ, một hình thức văn nghệ dân gian xuất hiện từ đời Đường và đặc biệt thịnh hành vào giai đoạn Tống Nguyên. Có thể chia thoại bản Trung Quốc thành hai loại lớn: tiểu thuyết và giảng sử. Thoại bản giảng sử viết bằng văn ngôn, đôi khi cũng pha văn bạch thoại. Loại thoại bản này chịu nhiều ảnh hưởng của chính sử. Sử-văn không tách biệt mà nội dung dựa vào truyện tích lịch sử là chính [82, tr.10]. Cùng với việc phát triển của thoại bản thì hình thức diễn nghĩa lịch sử đặc biệt được ưa chuộng đời Tống, Nguyên. Các truyện được kết cấu theo kiểu chương hồi, mỗi chương/hồi kể một câu chuyện tương đối hoàn chỉnh. Có thể kể đến: Tam quốc diễn nghĩa, Đông Chu liệt quốc, Thủy hử, Tây du ký,… trong đó Tam quốc diễn nghĩa là một trong những cuốn tiểu thuyết chương hồi ra đời sớm nhất, lưu hành rộng rãi nhất Trung Quốc. Cũng nằm trong truyền thống của tiểu thuyết Viễn đông là tiểu thuyết Nhật Bản. Tsubouchi Shoyo - kịch gia, tiểu thuyết gia, phê bình gia và dịch giả nổi tiếng của Nhật Bản thời cận đại - trong công trình quan trọng đầu tiên của nghiên cứu văn chương Nhật Bản hiện đại, Chân tủy của tiểu thuyết (1885-1886), đã nhắc đến một lịch sử huy hoàng của tiểu thuyết Nhật Bản trong đó có truyện lịch sử. Những tên tuổi ông nhắc đến đều sống vào khoảng thế kỷ X, cho thấy tiểu thuyết, đặc biệt là truyện lịch sử xuất hiện khá sớm ở Nhật Bản. Tsubouchi Shoyo cũng dành một chương để nói về việc xây dựng cốt truyện của tiểu thuyết lịch sử. Điều ông nhấn mạnh là: tiểu thuyết gia khi viết cần phân biệt tiểu thuyết lịch sử và lịch sử, phân biệt tiểu thuyết
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2