intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ, văn học và văn hóa Việt Nam: Lập luận trên diễn đàn quốc hội qua những phiên chất vấn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:229

36
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận án là làm rõ đặc điểm của lập luận nhìn từ cấu trúc nội tại của từng lượt lời và đặc điểm lập luận đặt trong sự vận động, tương tác tranh luận, nhận xét một số vấn đề sử dụng lập luận trong các lượt lời hỏi/ chất vấn, trả lời, điều hành, mô hình tranh luận trên diễn đàn Quốc hội Việt Nam (đặc biệt chú ý hướng đến lập luận hiệu quả trong bối cảnh chất vấn và ngữ cảnh tranh luận).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ, văn học và văn hóa Việt Nam: Lập luận trên diễn đàn quốc hội qua những phiên chất vấn

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN DIỆU THƢƠNG LẬP LUẬN TRÊN DIỄN ĐÀN QUỐC HỘI QUA NHỮNG PHIÊN CHẤT VẤN N : Ngôn ngữ Việt NamMã số: 92201 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM 1. 2. GS.TS. Nguyễn Đức Dân 3. PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc \ THÁI NGUYÊN - 2022
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN DIỆU THƢƠNG LẬP LUẬN TRÊN DIỄN ĐÀN QUỐC HỘI QUA NHỮNG PHIÊN CHẤT VẤN Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số: 9220102 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM 1. 2. GS.TS. Nguyễn Đức Dân Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS Nguyễn Đức Dân 2. PGS.TS Nguyễn Văn Lộc 3. PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc \ THÁI NGUYÊN - 2022
  3. n2. PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc 4. PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các ngữ liệu trong luận án là xác thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Tác giả Nguyễn Diệu Thƣơng NGUYỄN DIỆU THƢƠNG i
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................. i MỤC LỤC .......................................................................................................................ii QUY ƯỚC VIẾT TẮT .................................................................................................. iii DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................................. iv DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ ............................................................................. v MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................................... 1 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 2 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 3 4. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu............................................................... 3 5. Đóng góp của luận án .................................................................................................. 5 6. Cấu trúc của luận án .................................................................................................... 5 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................................................................................ 6 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................................... 6 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về lập luận ở nước ngoài .................................................... 6 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về lập luận tại Việt Nam .................................................. 16 1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn ........................................................................................ 20 1.2.1. Cơ sở lí luận ......................................................................................................... 20 1.2.2. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................................... 37 1.3. Tiểu kết ................................................................................................................... 39 Chƣơng 2: CẤU TRÚC NỘI TẠI CỦA LẬP LUẬN TRONG CÁC LƢỢT LỜI TRÊN DIỄN ĐÀN QUỐC HỘI (QUA PHIÊN CHẤT VẤN)......................... 41 2.1. Dẫn nhập ................................................................................................................. 41 2.1.1. Phân tích trường hợp ........................................................................................... 41 2.1.2. Định hướng tiếp cận ............................................................................................ 42 2.2. Thành phần lập luận trong các lượt lời trên diễn đàn Quốc hội (qua phiên chất vấn) ..... 43 2.2.1. Chỉ dẫn lập luận trong các lượt lời (qua phiên chất vấn) .................................... 43 2.2.2. Luận cứ (dữ kiện) và lí lẽ (biện minh) trong các lượt lời (qua phiên chất vấn)............ 54 2.2.3. Kết luận trong các lượt lời (qua phiên chất vấn) ...................................................... 76 ii
  5. 2.3. Mô hình lập luận trong các lượt lời trên diễn đàn Quốc hội (qua phiên chất vấn)........... 78 2.3.1. Mô hình lập luận dựa vào mối tương quan vị trí giữa luận cứ và kết luận ......... 78 2.3.2. Mô hình lập luận dựa vào mức độ phức tạp của cấu trúc lập luận ...................... 78 2.4. Tiểu kết ................................................................................................................... 82 Chƣơng 3: LẬP LUẬN TRONG HỘI THOẠI TRANH LUẬN TRÊN DIỄN ĐÀN QUỐC HỘI (QUA PHIÊN CHẤT VẤN) ........................................................ 85 3.1. Dẫn nhập ................................................................................................................. 85 3.1.1. Phân tích trường hợp ........................................................................................... 85 3.1.2. Định hướng tiếp cận ............................................................................................ 90 3.2. Đặc điểm lập luận qua các hành vi ngôn ngữ trên diễn đàn Quốc hội (qua phiên chất vấn).................................................................................................... 91 3.2.1. Đặc điểm lập luận qua hành vi hỏi/ chất vấn, trả lời chất vấn................................... 91 3.2.2. Đặc điểm lập luận qua hành vi điều khiển của người điều hành ............................. 99 3.3. Tranh luận trên diễn đàn Quốc hội (qua phiên chất vấn) ..................................... 101 3.3.1. Mô hình tranh luận (qua phiên chất vấn) .......................................................... 102 3.3.2. Chất lượng tranh luận (qua phiên chất vấn) ...................................................... 103 3.4. Nhận xét về việc sử dụng lập luận trong hội thoại tranh luận trên diễn đàn Quốc hội (qua phiên chất vấn) .......................................................................... 124 3.4.1. Nhận xét về việc sử dụng lập luận qua hành vi chất vấn, trả lời, điều hành ..... 124 3.4.2. Nhận xét về việc sử dụng lập luận trong tương tác hội thoại tranh luận ........... 124 3.5. Tiểu kết ................................................................................................................. 145 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 152 PHỤ LỤC ......................................................................................................................... iii
  6. QUY ƢỚC VIẾT TẮT KÍ HIỆU VIẾT TẮT CHO SƠ ĐỒ LL THEO MÔ HÌNH S. TOULMIN B yếu tố hỗ trợ biện minh C kết luận D dữ liệu/ luận cứ Q yếu tố hạn định R yếu tố phản bác W yếu tố biện minh KÍ HIỆU VIẾT TẮT PHÉP SUY LUẬN LOGIC  thuộc/ tập con của ->, => kéo theo/ suy ra /\ và (phép hội) \/ hoặc (phép tuyển) =, , chính là/ là tương đương > lớn hơn/ coi trọng hơn KÍ HIỆU VIẾT TẮT KHÁC CDLL chỉ dẫn lập luận CV chất vấn ĐLL đại lập luận NH người hỏi NTL người trả lời KL kết luận KT2VT kết tử 2 vị trí KT3VT kết tử 3 vị trí KTDN kết tử dẫn nhập LC luận cứ LLY/S (LLCTP) lập luận yếu/ sai (lập luận chưa thuyết phục) SĐ sơ đồ LĐPB lược đồ phản biện iii
  7. SĐS sơ đồ lập luận yếu/ sai (/ chưa thuyết phục) Sp1 người nói 1 Sp2 người nói 2 TLL tiểu lập luận TT tác tử TTTT tác tử tình thái iv
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1. Các kiểu hội thoại tranh luận .................................................................. 31 Bảng 1.2. Phân loại một số lập luận sai ................................................................... 35 Bảng 2.1. Phân loại KT theo số lượng thành phần tối thiểu trong cấu trúc lập luận (đơn vị: lượt) ................................................................................... 43 Bảng 2.2. Chức năng của các KTDNLC trong các lượt lời (qua phiên chất vấn)... 45 Bảng 2.3. Tần suất KTDNKL trong các lượt lời (qua phiên chất vấn) ................... 46 Bảng 2.4. Tác tử lập luận trong các lượt lời chất vấn- trả lời.................................. 47 Bảng 2.5. Tác tử tình thái có tác dụng thay đổi sức mạnh hành vi ở lời trong các lượt lời (qua phiên chất vấn) ............................................................. 48 Bảng 2.6. Luận cứ trong các lượt lời (qua phiên chất vấn) ..................................... 54 Bảng 2.7. Các loại lí lẽ trong các lượt lời (qua phiên chất vấn) .............................. 57 Bảng 2.8. Vị trí của kết luận trong lập luận (qua phiên chất vấn) ........................... 76 Bảng 2.9. Phân loại lập luận dựa vào mức độ phức tạp trong cấu trúc ................... 78 Bảng 3.1. Phân loại câu hỏi/ chất vấn và mục đích hỏi ........................................... 92 Bảng 3.2. Phân loại phương pháp hỏi/ chất vấn (đơn vị: lượt) ............................... 95 Bảng 3.3. Phân loại câu trả lời theo tiêu chí tính quan yếu, tính rõ ràng và tính đầy đủ ....... 96 Bảng 3.4. Lập luận- tranh luận chưa thuyết phục (qua phiên chất vấn) ................ 106 iv
  9. DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ Hình 3.1. ............................................................................................................ 88 Hình 3.2 ............................................................................................................ 89 Hình 3.3 .......................................................................................................... 125 Hình 3.4 .......................................................................................................... 125 Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ các phương pháp trả lời (đơn vị: %)........................................... 98 Biểu đồ 3.2: Mô hình lượt tương tác hội thoại tranh luận (giai đoạn tranh luận- đối chất) (đơn vị: %) ......................................................................... 102 v
  10. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Từ thực tiễn nghiên cứu về lập luận ở nước ngoài Lập luận là đối tượng chính trong nghiên cứu về logic. Theo đó, lập luận cũng được các nhà nghiên cứu trên thế giới tìm hiểu đặt trong sự soi chiếu bởi logic hình thức và logic phi hình thức. Logic hình thức nghiên cứu các lập luận dưới góc độ logic cổ điển (gắn với cấu trúc tam đoạn luận) và hiện nay là logic toán học, khoa học máy tính, trí tuệ nhân tạo. Có thể thấy rõ được thành quả nghiên cứu của logic học hình thức đã tạo nên cuộc cách mạng công nghiệp với sự phát triển như vũ bão của trí tuệ nhân tạo. Bên cạnh đó, logic học phi hình thức cũng có vai trò quan trọng khi xem xét đến những lập luận trong các diễn ngôn đời thường, trong mọi phạm vi, lĩnh vực ứng dụng: khoa học, giáo dục, y tế, pháp lí, truyền thông... Vấn đề nghiên cứu về logic phi hình thức và lập luận đời thường đã là một xu hướng phát triển mạnh mẽ trên thế giới từ vài thập kỉ qua. Các học giả từ nhiều lĩnh vực đã cùng nhau thảo luận về lập luận tại các hội nghị quốc tế được tổ chức bởi Đại học Amsterdam (Hà Lan) và Hiệp hội Nghiên cứu Lập luận Quốc tế (ISSA). Những hội nghị quốc tế khác phải kể đến là hội nghị được tổ chức tại Alta, Utah, tài trợ bởi Hiệp hội truyền thông quốc gia (Mĩ) và Hiệp hội pháp lí (Mĩ) (American Forensics Association), Hiệp hội nghiên cứu tranh luận Ontario (OSSA). Ngoài ra, còn có hội thảo Châu Âu về lập luận (The European Conference on Argumentation- ECA). Hội thảo này được tổ chức lần đầu tiên tại Lisbon, Bồ Đào Nha. Hiện đã có các tạp chí dành riêng cho các công bố về logic phi hình thức (Informal logic Journal) và lập luận (Journal of Argumentation). Trong đó, tạp chí Logic phi hình thức cũng khẳng định phạm vi công bố trên tạp chí này bao gồm cả vấn đề lí thuyết, lí lẽ và lập luận thực tế. 1.2. Từ thực tiễn nghiên cứu về lập luận tại Việt Nam Trong khi nghiên cứu về lập luận đã và đang là xu thế phát triển mạnh mẽ trên thế giới; hiện tại, ở Việt Nam, nghiên cứu về lập luận vẫn còn những hạn chế. Nghiên cứu về lập luận trong địa hạt ngôn ngữ tại Việt Nam bắt đầu từ một số công trình có tính chất gợi dẫn của các tác giả: Đỗ Hữu Châu (1996) và Nguyễn Đức Dân (1996, 1998). Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu dừng lại xem xét lập luận trên cứ liệu tiếng Việt dựa theo quan điểm logic hình thức [3, tr.5- 406] hoặc theo quan điểm của O. Ducrot [2, tr.163-244], [4]. Sau đó, xuất hiện các luận án nghiên cứu lập luận gắn liền với các phạm vi ứng dụng cụ thể trong tiếng Việt. Nhưng, tất cả mới chỉ dừng lại phân tích lập luận dựa trên cấu trúc nội tại, chưa xem xét lập luận trong sự vận động, tương tác hội thoại. Nói cách khác, nghiên cứu lập luận ở Việt Nam chủ yếu dưới quan điểm xem lập luận là kết quả của quá trình suy luận logic từ các tiền đề. Nghiên cứu về lập luận trong bối cảnh tranh luận (nơi mà lập luận thể hiện rõ nhất vai trò của nó) tại Việt Nam vẫn còn là một khoảng trống. 1
  11. 1.3. Từ thực tiễn nhu cầu lập luận trong Nghị trường Quốc hội Việt Nam Sử dụng lập luận từ nói năng hàng ngày đến các cuộc tranh luận trong khoa học, chính trị… là rất cần thiết. Đối với các đại biểu Quốc hội, năng lực lập luận là tối quan trọng. Có một quan điểm lập trường, định hướng tốt nhưng nếu không được trình bày logic, hợp lí để thuyết phục thì sẽ không tạo ra tính hiệu quả đối với đích lập luận. Nhận thấy, trong nhiều kì họp, phiên họp Quốc hội Việt Nam; bên cạnh những lập luận sắc sảo, vẫn tồn tại những lập luận chưa thuyết phục. Luận án đi sâu tìm hiểu đặc điểm lập luận với tư cách cấu trúc nội tại trong từng lượt lời (đặc điểm của LC, KL, CDLL, lí lẽ) và lập luận với tư cách là hành vi ngôn ngữ trong hội thoại tranh luận (đặc điểm lập luận/ tranh luận trong sự vận động, tương tác hội thoại: lập luận/ tranh luận chưa thuyết phục; nghệ thuật hỏi, chất vấn, trả lời). Qua đó, phân tích được một số đặc điểm trong lập luận, tranh luận; lí giải và nhận xét một số vấn đề sử dụng lập luận trong phiên chất vấn tại diễn đàn Quốc hội Việt Nam. Luận án hướng đến quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tại kì họp thứ 3- Quốc hội khóa XIV: “Chuyển từ Quốc hội tham luận sang Quốc hội tranh luận” [111]. Vậy, tranh luận tại Nghị trường Quốc hội tại sao cần được quan tâm hơn nữa? Làm thế nào để có những tranh luận hợp lí? Đây là một vấn đề quan trọng nhưng chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào được đặt ra theo định hướng nghiên cứu từ bản chất lí thuyết lập luận. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận án là làm rõ đặc điểm của lập luận nhìn từ cấu trúc nội tại của từng lượt lời và đặc điểm lập luận đặt trong sự vận động, tương tác tranh luận, nhận xét một số vấn đề sử dụng lập luận trong các lượt lời hỏi/ chất vấn, trả lời, điều hành, mô hình tranh luận trên diễn đàn Quốc hội Việt Nam (đặc biệt chú ý hướng đến lập luận hiệu quả trong bối cảnh chất vấn và ngữ cảnh tranh luận). 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu trên, luận án xác định các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Thu thập, tổng thuật các tài liệu liên quan: các công trình nghiên cứu về lập luận trên thế giới và Việt Nam, văn bản ghi chép, băng truyền hình trực tiếp nội dung các phiên hỏi/ chất vấn tại Nghị trường Quốc hội Việt Nam. - Thống kê, phân loại các thành phần trong cấu trúc lập luận qua phiên chất vấn: các thành phần luận cứ, kết luận, lí lẽ; một số yếu tố ngôn ngữ (kết tử lập luận, tác tử lập luận); các kiểu mô hình lập luận thường gặp trong các lượt lời lập luận; các lập luận yếu/ sai (/chưa thuyết phục); các hành vi hỏi và trả lời; phương pháp hỏi, trả lời, điều hành trong hội thoại tranh luận; các mô hình tương tác hội thoại của các đại biểu Quốc hội. 2
  12. - Phân tích, đánh giá, lí giải lập luận dựa trên sự miêu tả, sơ đồ hóa các lập luận (cấu trúc, thành tố, mối quan hệ giữa các thành tố), và lược đồ hóa các hội thoại tranh biện đặt trong mối quan hệ vận động tương tác (các tham thoại, hành vi hỏi/ chất vấn và trả lời). - Nhận xét về cách thức sử dụng lập luận từ kết quả phân tích thực trạng. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là lập luận qua những phiên chất vấn trên diễn đàn Quốc hội Việt Nam (xét trong các vai trò: 1, sản phẩm của quá trình nói năng xuất phát từ tiền đề để đi đến kết luận (lập luận trong cấu trúc nội tại của từng lượt lời- chương 2); 2, hành vi ngôn ngữ phức hợp1 trong hội thoại tranh luận- chương 3). 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án này nghiên cứu LL (hình thức, nội dung) xét trong các nhiệm vụ xác định, phân tích, đánh giá, tạo lập lập luận qua những phiên chất vấn trực tiếp (kể cả những phiên chất vấn kết hợp khi thảo luận báo cáo tổng kết tình hình phát triển kinh tế- xã hội) từ kì họp Quốc hội khóa XI- XIV. Trong đó, luận án sử dụng 206 LL (83 ĐLL) tại hai phiên họp liền nhau tại khóa XIII là trường hợp mẫu. Các nhận định rút ra còn được kiểm chứng, khái quát bởi những phiên họp, kì họp khác từ các khóa XI- XIV (các phiên họp này được chọn đa dạng ở các kì họp, khóa họp). Nguồn tư liệu được lấy từ cổng thông tin điện tử chính thức của Quốc hội Việt Nam (http://quochoi.vn). 4. Hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Hướng tiếp cận Đối tượng nghiên cứu của luận án là lập luận. Vì thế, quá trình phân tích, đánh giá lập luận luôn đặt trong sự tích hợp của các ngành: logic học, ngữ dụng học và một phần tu từ học. Luận án chủ yếu vận dụng phương pháp và kết quả nghiên cứu về lập luận của trường phái logic (theo quan điểm của S. Toulmin, D. Walton) kết hợp với quan điểm lập luận triệt để, miêu tả (của O. Ducrot), và quan điểm dụng học biện chứng (của D. Walton và F.H. van Eemeren) khi xem xét lập luận trong sự vận động hội thoại tranh biện2. 1 Luận án có quan điểm lập luận là hành vi ngôn ngữ phức hợp theo quan điểm của tác giả F.H van. Eemeren [48, tr.43-53]. Khi đó, hành vi lập luận bao gồm chuỗi các hành vi phức hợp trong nó. Ví dụ: hành vi lập luận với mục đích thuyết phục người nghe mua hàng, người nói xây dựng trong lập luận của mình chuỗi hành vi gồm: hành vi trần thuật (Sản phẩm này có mẫu mã đẹp, hình dáng nhỏ gọn), hành vi khuyên (Hãy mua sản phẩm này!), hành vi cam kết (Chúng tôi cam kết về chất lượng sản phẩm. Sản phẩm sẽ được bảo hành trong thời gian 24 tháng)… 2 Lí do lựa chọn phương pháp tiếp cận này được trình bày cụ thể trong chương 1. 3
  13. 4.2. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu Để thực hiện được mục đích nghiên cứu đặt ra, luận án vận dụng nghiên cứu định tính dựa trên trường hợp (case study). Nghiên cứu này được thể hiện cụ thể qua các nhiệm vụ: - Xác định tiêu chí đánh giá lập luận gắn liền với bối cảnh phiên chất vấn tại diễn đàn Quốc hội. - Miêu tả những biểu hiện cụ thể của lập luận trong các lượt lời với tư cách là kết quả của quá trình lập luận và lập luận với vai trò là hành vi ngôn ngữ (miêu tả các thành tố trong cấu trúc lập luận, sơ đồ lập luận, lược đồ tranh luận, đánh giá chất lượng lập luận và tranh luận). - Phân tích, đánh giá lập luận trong cấu trúc nội tại và hành vi lập luận trong ngữ cảnh hội thoại tranh luận để thấy được xu hướng sử dụng các thành phần lập luận, các kiểu hành vi lập luận, các mô hình tương tác hội thoại tranh luận… qua những phiên chất vấn cụ thể. - Nhận định xu hướng và định hướng các phương pháp sử dụng lập luận phù hợp, gắn liền với bối cảnh chất vấn trên diễn đàn Quốc hội. 4.2.1. Phương pháp nghiên cứu 4.2.1.1. Phương pháp miêu tả Đây là phương pháp có vai trò quan trọng trong luận án. Phương pháp này được sử dụng phổ khắp từ miêu tả đặc điểm lập luận trong cấu trúc nội tại của diễn ngôn, các kiểu lập luận chưa thuyết phục, sự tương tác trong hội thoại tranh luận. 4.2.1.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn Phương pháp phân tích diễn ngôn được sử dụng xuyên suốt trong luận án. Sử dụng phương pháp này, luận án đi vào phân tích, phân loại một số phương diện của lập luận: thành phần trong cấu trúc lập luận, tranh luận (sự vận động tương tác, nghệ thuật hỏi- trả lời, mô hình tranh luận, ngôn ngữ của người điều hành) để từ đó đánh giá khái quát đặc điểm lập luận trên diễn đàn Quốc hội Việt Nam qua những phiên chất vấn. 4.2.2. Các thủ pháp nghiên cứu 4.2.2.1. Thủ pháp so sánh, đối chiếu Thủ pháp so sánh- đối chiếu được dùng trong việc so sánh, đối chiếu các trường hợp để đưa ra đánh giá, nhận định khái quát xu hướng sử dụng các phương diện của lập luận. Bên cạnh đó, thủ pháp này còn được sử dụng trong việc đối chiếu, nhận diện mức độ thuyết phục của các lập luận tốt và lập luận yếu/ sai. 4
  14. 4.2.2.2. Thủ pháp thống kê, phân loại Thủ pháp thống kê, phân loại được dùng trong việc khảo sát số lượng các yếu tố ngôn ngữ sử dụng trong lập luận, các lí lẽ, những lập luận yếu/ sai, phương pháp hỏi, trả lời; mô hình lập luận đặt trong các mối quan hệ với kết quả tranh luận. 5. Đóng góp của luận án 5.1. Đóng góp trên phương diện lí luận Luận án khẳng định những giá trị nghiên cứu về lập luận trên thế giới, làm sáng tỏ những lí thuyết này qua một nghiên cứu cụ thể tại Việt Nam. Đó là lí thuyết về lập luận sai, lí thuyết về hội thoại tranh biện (hành vi chất vấn, trả lời chất vấn; nghệ thuật hỏi, trả lời trong tranh biện; vận động, tương tác trong hội thoại tranh luận), lí thuyết về các lí lẽ trong lập luận, lí thuyết mô hình lập luận của S. Toulmin, lí thuyết miêu tả lập luận và đa thanh trong phân tích diễn ngôn của O. Ducrot. 5.2. Đóng góp trên phương diện thực tiễn Luận án đã đặt ra vấn đề cần xem xét lập luận với vai trò là một hành vi ngôn ngữ phức hợp đặt trong hội thoại tranh biện tại Việt Nam. Luận án cung cấp phương pháp phân tích, đánh giá lập luận, phản biện, xây dựng lập luận đặt trong bối cảnh chất vấn tại diễn đàn Quốc hội Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được ứng dụng trực tiếp trong phạm vi Quốc hội. Ngoài ra các kiểu sơ đồ lí lẽ, sơ đồ lập luận chưa thuyết phục, sơ đồ phản biện trong luận án có thể được vận dụng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Luận án có thể được dùng là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu, giảng dạy về ngữ dụng học, logic học, phân tích diễn ngôn và tư duy phản biện. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận; Nội dung của luận án được xây dựng trong 3 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lí luận và thực tiễn. Chương 2. Cấu trúc nội tại của lập luận trong các lượt lời trên diễn đàn Quốc hội (qua phiên chất vấn). Chương 3. Lập luận trong hội thoại tranh luận trên diễn đàn Quốc hội (qua phiên chất vấn). 5
  15. Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về lập luận ở nước ngoài Lập luận (argument/ argumentation)- được định nghĩa trong từ điển Oxford learners dictionaries, là sự tranh luận hợp lí được dùng để hỗ trợ cho một lí thuyết, một hành động hoặc một ý kiến (logical arguments used to support a theory, an action or an idea). Trong công trình nghiên cứu Groundwork in the theory of argumentation (Cơ sở lí thuyết về lập luận), tác giả J. Blair đã xem xét khái niệm lập luận trong phần “A standard concept of Argument and Why it is mistaken” (Một khái niệm chuẩn về lập luận và nguyên nhân nó bị lỗi) [66]. Trước hết, J. Blair đã khái quát ý kiến của các nhà logic học về lập luận. Theo đó, khái niệm “lập luận” được nhìn nhận ở cả phương diện cách thức thực hiện và chức năng. Scriven cho rằng chức năng của một lập luận là để thuyết phục; tiền đề đúng thì kết luận sẽ được chấp nhận. Freeman coi lập luận là một thông điệp người ta cố gắng thiết lập một tuyên bố/ phát biểu là đúng hoặc tin cậy dựa vào những tuyên bố khác. Hitcock đã cho rằng: “Lập luận là một dãy các tuyên bố mà trong đó một kết luận được đưa ra từ những tuyên bố còn lại”… J. Blair đã khẳng định thêm dựa trên sự đồng tình với D. Walton: “Mục đích của lập luận không chỉ là để thuyết phục mà còn là để yêu cầu, tìm kiếm thông tin, điều đình…”. Dù phạm vi cách hiểu lập luận có khác nhau, nhưng không thể phủ nhận rằng lập luận là nhân tố không thể thiếu trong “nghệ thuật lời nói”, lập luận đã được đề cập đến từ thời Cổ đại. Năm 1947, lập luận được nhắc đến nhiều trong tác phẩm “Tu từ học” của Aristotle. Từ đó về sau, lập luận được nghiên cứu dưới góc nhìn của logic (xem thêm [27, tr.24-26]). Sau đó, đến thế kỉ XX, nhiều quan điểm nghiên cứu mới về lí thuyết lập luận ra đời nhằm gia tăng hiệu quả của hoạt động lập luận trong thực tế. Nhìn chung, những nghiên cứu này được tổng thuật bởi các công trình của F.H. van Eemeren [chủ tịch hiệp hội nghiên cứu về LL (ISSA), tổng biên tập tạp chí LL (Argumentation Journal)], Rob Grootendorst [50, tr.43-57], và của một số tác giả khác [49], [56], [66], [90], [91]… Theo đó, tình hình nghiên cứu về LL có thể được khái quát như sau: 6
  16. 1.1.1.1. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm của S. Toulmin và C. Perelman Nghiên cứu về lập luận trong một thời gian dài được chi phối bởi những đóng góp có ảnh hưởng của S. Toulmin và Perelman. Cách tiếp cận hai tác giả có đặc điểm đặc trưng là đều nỗ lực cung cấp một sự thay thế phù hợp hơn cho logic hình thức để xem xét các lập luận đời thường. Mô hình lập luận truyền thống đã được S. Toulmin [76, tr.91- 92] mở rộng thành mô hình lập luận 6 thành tố (dữ kiện, biện minh, hỗ trợ biện minh, phản bác, hạn định, tuyên bố). Perelman và Olbrechts-Tyteca (1958, 1969) cung cấp dãy các kĩ thuật lập luận hiệu quả (“lập luận dựa trên cấu trúc thực tế”, “lập luận thiết lập cấu trúc của thực tế”, v.v...). Trong mô hình của S. Toulmin cũng như trong tu từ học mới của Perelman, những thủ tục hợp lí của lí lẽ phê phán được lấy làm điểm khởi đầu. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, mục đích mà các tác giả đặt ra chưa được giải quyết triệt để. Sự phát triển của những lí thuyết lập luận hiện đại phần lớn bị bỏ qua, hoặc chưa được tính đến đầy đủ (ví dụ, trường hợp logic đối thoại). Một bất cập khác là không có sự thừa nhận thực tế rằng lập luận trước hết là hiện tượng diễn ngôn, cái mà luôn luôn được đặt trong một môi trường theo ngữ cảnh, bối cảnh xác định. Để nghiên cứu lập luận một cách thỏa đáng, nó phải được xem như một dạng hành động ngôn ngữ được tiếp cận trong thực tế sử dụng. Việc bỏ qua những hiểu biết về đối thoại và thực dụng đã cản trở sự phát triển một lí thuyết chắc chắn về lập luận. 1.1.1.2. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm logic phi hình thức Logic phi hình thức là một phong trào, có nguồn gốc ở Bắc Mĩ vào đầu những năm bảy mươi, khởi nguồn từ sự không thỏa mãn với cách xử lí thông thường về lập luận trong phần mở đầu các sách giáo khoa logic. Kể từ năm 1978, phong trào này chính thức thể hiện tiếng nói của mình trong tạp chí “Informal Logic” (Logic phi hình thức), do Blair và Johnson biên soạn. Mặc dù với tên gọi khác, logic phi hình thức không phải là một ngành logic mới. Đó là một cách tiếp cận thông thường để tranh luận trong ngôn ngữ hàng ngày. Như vậy, logic phi hình thức có phạm vi rộng hơn logic hình thức. Theo các nhà logic phi hình thức, tính hợp lệ và sự hợp nhất của lập luận không giống với tính hợp lệ hình thức trong logic suy luận. Blair và Johnson (1987) lập luận rằng các tiền đề cho một kết luận phải thỏa mãn ba tiêu chí: (1) “sự xác đáng”, (2) “sự đầy đủ”, và (3) “khả năng được chấp nhận”. Với sự xác đáng, câu hỏi đặt ra là có hay không: sự liên quan thích đáng và đầy đủ về nội dung giữa các tiền đề và kết luận, hoặc, sự cung cấp đủ bằng chứng cho kết luận của các tiền đề; với khả năng được chấp nhận, có thể xảy ra, đáng tin cậy hoặc đúng của các tiền đề. Mục tiêu của các nhà logic phi hình thức là phát triển những tiêu chuẩn, tiêu chí và phương pháp cho việc giải thích, đánh giá và xây dựng lập luận. Các giải pháp được tìm kiếm cho 7
  17. vấn đề phần lớn là: phân tích các cấu trúc lập luận, lập các sơ đồ lập luận, đánh giá lập luận, nhận diện các lỗi, cách tiến hành một cuộc thảo luận, v.v. Trước tình hình đó, logic phi hình thức là một hướng nghiên cứu toàn diện, trong đó lí thuyết lập luận đóng vai trò trung tâm, được nghiên cứu một cách kĩ lưỡng. Có một sự chồng chéo nổi bật giữa các mục tiêu và phạm vi của logic phi hình thức và biện chứng dụng học. Một sự khác biệt quan trọng là logic phi hình thức tập trung chủ yếu vào mối quan hệ giữa các tiền đề và kết luận, trong khi biện chứng dụng học bao quát tất cả các khía cạnh và giai đoạn của một cuộc TL quan trọng. Ngoài ra, các nghiên cứu logic phi hình thức sử dụng nhiều lí lẽ khác nhau trong khi biện chứng dụng học lại tập trung vào lí lẽ trực tiếp giải quyết sự bất đồng ý kiến. Sự khác biệt thứ ba bắt nguồn từ các cơ sở lí thuyết: trong phân tích lập luận, logic phi hình thức được thiết kế để khám phá các phẩm chất logic của diễn ngôn lập luận; biện chứng dụng học là để kiểm tra các đặc tính ngôn ngữ thực dụng được xem xét trong quá trình tái cấu trúc. 1.1.1.3. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm lập luận sai Tập trung vào các lập luận sai là một đóng góp đáng kể trong nghiên cứu lập luận. Hướng nghiên cứu về lập luận sai (fallacies) có từ thời Aristotle, nhưng mãi tới năm 1970, công trình nổi tiếng Fallacies của C.L. Hamblin mới đặt ra những cách tiếp cận mới. Sau đó, được thực hiện bởi các nhà logic ở Canada: Woods và D. Walton (1989). Cách tiếp cận hình thức của Woods và D. Walton được thể hiện trong một loạt các bài báo và sách được viết chung hoặc độc lập. Các nguyên tắc cơ bản trong phương pháp tiếp cận của họ về các lập luận sai được giải thích trong công trình Lập luận: logic của những lập luận sai (Argument: Logic of the fallacies) (1982). Cách tiếp cận của Woods, D. Walton đối với các lập luận sai là “đa nguyên”. Theo ý kiến của họ, các lập luận sai phải được phân tích theo những cách khác nhau. Quan điểm về phương pháp luận chung là các lập luận sai được phân tích một cách có ý nghĩa từ cấu trúc và lí thuyết về ngôn từ gắn với các hệ thống logic khác nhau, trong đó có hệ thống logic biện chứng. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng sẽ được giải thích theo những kiểu logic nhất định. Theo quan điểm của Woods và D. Walton, chúng sẽ là khác nhau tùy thuộc vào sai lầm trong câu hỏi phản biện. Chính họ đã tuyên bố rằng ít nhất một số ngộ biện/ ngụy biện nên được phân tích bằng một cách nào đó theo tiêu chuẩn hình thức. Khi phân tích lập luận sai, Woods và D. Walton dùng khái niệm biện chứng của Hamblin “bộ cam kết” và “rút lại” là công cụ phương pháp luận. Vì vậy, phân tích của họ về các lập luận sai là theo định hướng hình thức, nhưng cũng biện chứng. Họ có xu hướng xếp những điều mà họ đã nhận ra thành ba mức độ “hình thức”. Đầu tiên, có những lập luận sai (chẳng hạn như lập luận sai 4 cơ sở) mà hình thức đặt theo cách thức nghiêm ngặt. Cấp độ 8
  18. hình thức tiếp theo là những lập luận sai phi hình thức (chẳng hạn như những lập luận sai bởi sự mơ hồ) nếu xét một cách kĩ lưỡng, nhưng vai trò của chúng có thể được giải thích bằng cách tham chiếu đến các hình thức hợp lí. Nhiều công trình nổi bật hơn của Woods và D. Walton nói về mức độ hình thức thứ ba được áp dụng cho các lí thuyết có khái niệm chính được phân tích bằng cách sử dụng ngôn ngữ và khái niệm của một hệ thống logic hoặc một số hệ thống hình thức khác. Woods và D. Walton (1982) nhấn mạnh tầm quan trọng về mặt lí thuyết của các lập luận sai điển hình như là những đặc điểm của các lập luận trong việc sử dụng ở thực tế. Một tính năng thực dụng của phương pháp tiếp cận này là thừa nhận nhiều ngữ cảnh, bối cảnh trong đó lập luận có thể được sử dụng. Về mặt lí thuyết, tất cả các ngữ cảnh, bối cảnh này nên được xác định theo sự đánh giá chung của một cấu trúc đối thoại, nơi những người tham gia, các lượt lời, sự định vị, sự quan yếu, các yếu tố khác được xác định rõ ràng và chính xác trong sự trao đổi hội thoại. Danh sách các loại lập luận sai được đề cập đến trước hết là bởi các nhà logic học. Dựa trên những quy tắc suy luận, các nhà nghiên cứu nhận thấy thực tế sử dụng lập luận đã có nhiều trường hợp các cá nhân vi phạm quy tắc lập luận. Theo [127], danh sách các lập luận sai, đầu tiên, được đưa ra bởi Aristotle (13 loại). Chúng được chia thành hai loại chính: lập luận sai ngôn ngữ (linguistic fallacies) và lập luận sai không phụ thuộc vào ngôn ngữ (non-linguistic fallacies). Chúng còn được gọi là lập luận sai ngôn từ (verbal fallacies) và lập luận sai nội dung (material fallacies). Richard Whately lại phân chia lập luận sai thành hai nhóm: thuộc về logic và về nội dung. Theo ông, tiêu chí để phân chia hai loại này là có hay không có sự hợp lệ suy luận kết luận từ các tiền đề. Các lập luận sai logic không đảm bảo các quy tắc suy luận logic. Trong khi đó các lập luận sai nội dung vẫn đảm bảo sự hợp lí trong phép suy luận từ tiền đề đến kết đề. D. Walton (1989) đã liệt kê ra các loại chính trong công trình: Informal logic [83, tr.19- tr.23]. Từ đó về sau đã có rất nhiều sự bổ sung khác nhau làm đầy cho danh sách các loại lập luận sai này (trên 200 loại tại [102]). 1.1.1.4. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm biện chứng hình thức Biện chứng hình thức đã được đưa ra bởi Barth và Krabbe trong From axiom to dialogue (1982), xây dựng dựa trên logic đối thoại của Lorenzen. Họ mô tả một quy trình hình thức để kiểm tra xem một luận điểm đã cho có thể được duy trì một cách hợp lí dưới ánh sáng của các giả định nào đó hay không. Sự giải thích biện chứng của logic này được gọi là “biện chứng hình thức”. Trong lí luận, lập luận biện chứng hình thức được xem như là một cuộc đối thoại giữa người đề xuất và đối phương theo một chủ đề. Cả người đề xuất cùng đối thủ đều cố gắng tìm hiểu luận điểm có thể được bảo vệ thành công khỏi sự tấn công phê phán. Trong sự tự vệ, người đề xuất có thể sử dụng 9
  19. “sự nhượng bộ” của đối thủ (những phát biểu mà đối thủ sẵn sàng chịu trách nhiệm). Người đề xuất phải ngăn chặn bất kì cuộc tấn công nào đối với tuyên bố của chính mình. Anh ta có thể đưa ra một sự tự vệ trực tiếp hoặc thực hiện một cuộc phản công dựa trên “sự nhượng bộ” của đối thủ. Đối thủ có nghĩa vụ bảo vệ mọi “nhượng bộ” bị tấn công. Nếu điều này dẫn đến việc anh ta không thể làm gì khác ngoài việc khẳng định điều mà đã tấn công sớm hơn trong cuộc đối thoại, khi đó, người đề xuất sẽ có lợi. Do đó, người đề xuất cố gắng điều chuyển đối thủ theo quan điểm này bằng cách khéo léo sử dụng các “nhượng bộ” của đối thủ. Nếu làm được như vậy, người đề xuất đã bảo vệ thành công quan điểm của mình nhờ vào các “nhượng bộ” của đối thủ. Các cuộc thảo luận được hình dung trong biện chứng hình thức về cơ bản khác với tranh luận thực tế thông thường. Điểm bắt đầu giả định chỉ có thể xảy ra sau khi một bên trong cuộc thảo luận đã trình bày luận cứ để bảo vệ quan điểm. Nó phát sinh nếu hai bên quyết định khám phá xem quan điểm này có thể được duy trì trong ánh sáng của lập luận hay không. Các bên sau đó bắt đầu các thủ tục để kiểm tra xem quan điểm có thể được kết luận hợp lí từ các tiền đề đã trình bày trong lập luận hay không. Nếu thực sự tham gia với vai trò là đối thủ thì cần phải coi lập luận của người đề xuất là một tập hợp các “nhượng bộ” để làm cơ sở cho các “cam kết” của chính mình. 1.1.1.5. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm biện chứng dụng học Có một số mối quan hệ trực tiếp giữa biện chứng hình thức và biện chứng dụng học [lí thuyết lập luận được phát triển bởi F.H. van Eemeren và Rob Grootendorst (1984, 1992)]. Việc sử dụng thuật ngữ chung “dialectic” (biện chứng), nên chúng có mục tiêu chung. Tuy nhiên, định hướng lí thuyết biện chứng dụng học khác với biện chứng hình thức. Sự khác biệt này được thể hiện rõ ràng trong việc lựa chọn tiền tố pragma (tic) (thực dụng) thay vì formal (hình thức). Biện chứng dụng học (Pragma- dialectics) chủ yếu là một lí thuyết về diễn ngôn tranh luận, không phải là một lí thuyết logic. Không giống như các quy tắc biện chứng hình thức nhằm tạo ra các lập luận hợp lí, các quy tắc biện chứng dụng học nhằm giải quyết một sự khác biệt của ý kiến được dự tính như đại diện cho các điều kiện cần thiết để thực hiện một cuộc thảo luận quan trọng trong bài diễn ngôn tranh luận. Khái niệm, sự phân loại, quy tắc tranh luận, sự vận động của hội thoại tranh luận được chú ý nghiên cứu. Hội thoại tranh luận là một chuỗi của sự thay đổi thông điệp hoặc hành vi ngôn ngữ giữa hai hoặc nhiều người nói. Điển hình vẫn là hội thoại diễn ra sự trao đổi những câu hỏi và trả lời giữa hai bên. Mọi hội thoại hướng đến yêu cầu về sự hợp tác giữa các bên để đạt được mục đích. Điều đó có nghĩa rằng, trong hội thoại, mỗi bên đều có trách nhiệm làm thế nào để đạt được mục đích của mình và có trách nhiệm hợp tác với đối phương để đối phương cũng đạt được mục đích. Bất cứ lập luận sai/ tồi nào cũng sẽ vi phạm tính trách nhiệm này [83, tr.3]. 10
  20. Trong hội thoại tranh luận, các quy tắc tương tác có thể được thương lượng bởi các bên tham gia đối thoại. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các quy tắc đã được quyết định sẵn bởi thông lệ xã hội. Trường hợp lí tưởng nhất, hội thoại tranh luận là một quá trình phát hiện nhiều hơn các lí lẽ, sự biện minh hỗ trợ cho kết luận, mục đích của hội thoại tranh luận là đi đến một kết luận chung bởi các suy luận cùng được chấp nhận. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tính hiệu lực của các kết luận chỉ là thứ cấp. Chẳng hạn, thay vì đi đến một kết luận chung, mục đích thực sự của một cuộc đối thoại lại là sự giải phóng cảm xúc, ghi điểm trước người nghe, làm bẽ mặt đối thủ… F.H. van Eemeren và Rob Grootendorst còn đưa ra một danh sách chi tiết về các quy tắc phải được áp dụng tại mỗi giai đoạn tương tác. Trong công trình Argumentation, communication, and fallacies (Lập luận, thông tin, ngộ biện/ ngụy biện), F.H. van Eemeren và Rob Grootendorst đã vận dụng tích hợp lí thuyết phương châm hội thoại của Grice và lí thuyết hành động ngôn ngữ của J. Searle, xây dựng 10 quy tắc của một tranh luận tốt (dẫn theo [42] và [48, tr.51]). Hơn nữa, tranh luận theo quan điểm của các tác giả này có vai trò cụ thể của người ủng hộ và người phản đối trong lượt lời. Bài báo “Tìm hiểu về nghĩa vụ chứng minh trong các tài liệu lập luận trí tuệ nhân tạo” [93] đã khái quát lại 7 dạng hội thoại. Trong đó, có sáu loại đối thoại cơ bản: điều tra, đối thoại đàm phán, đối thoại tìm kiếm thông tin, cân nhắc và đối thoại tranh cãi cá nhân [đã được đề cập trong tài liệu tranh luận bởi D. Walton và Krabbe (1995)] và kiểu đối thoại khám phá [đã được bổ sung bởi McBurney và Parsons (2001)]. Trong hội thoại có thể có những bước chuyển biện chứng hợp lí, bước chuyển từ dạng hội thoại này sang dạng hội thoại khác [78]. Quá trình thảo luận phản biện có 4 giai đoạn: xác định sự khác biệt của ý kiến (giai đoạn “đối đầu'”- “confrontation” stage), thiết lập điểm bắt đầu của cuộc thảo luận (giai đoạn “mở”- “opening” stage), trao đổi tranh luận và phản ứng phản biện để giải quyết sự khác biệt (“argumentation” stage- giai đoạn “lập luận”), xác định kết quả của tranh luận (“concluding” stage) [48, tr.55], [56, tr.530- 531]. Tất cả các giai đoạn của một diễn ngôn đều nhằm mục đích hướng đến cuộc thảo luận phản biện. Những “trở ngại” cụ thể có thể nảy sinh, cản trở sự phân giải sự khác biệt của ý kiến. 1.1.1.6. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm chủ nghĩa lập luận triệt để Trong những năm bảy mươi của thế kỷ XX, các nhà ngôn ngữ học người Pháp O. Ducrot và J.C. Anscombre bắt đầu phát triển cách tiếp cận theo định hướng ngôn ngữ đối với diễn ngôn lập luận. Họ đặt tên cách tiếp cận này là "Chủ nghĩa lập luận triệt để”. Khái niệm lập luận triệt để được cô đọng lại trong tư tưởng sau: L'idée 11
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2