intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:93

38
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về nội dung, vai trò, đồng thời đánh giá thực trạng của các quy định pháp luật về thuế giá trị gia tăng và thực tiễn thực hiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất cập từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ MINH TÂM THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, 2020
  2. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của nghiên cứu đề tài Thuế GTGT là loại thuế ra đời nhằm khắc phục việc đánh thuế trùng lắp của thuế doanh thu, nó chỉ đánh vào giá trị tăng thêm được thể hiện bằng tiền lương, tiền công, lợi nhuận, lợi tức và các khoản chi phí tài chính khác của các sản phẩm, dịch vụ tại mỗi công đoạn sản xuất và lưu thông, làm sao để đến cuối chu kỳ sản xuất, kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ thì tổng số thuế thu được ở các công đoạn sẽ khớp với số thuế tính theo giá bán cho người cuối cùng. Việc xác định nội dung của pháp luật thuế GTGT để thay thuế pháp luật thuế doanh thu phải giải quyết được tình trạng thuế trùng thuế qua các khâu của quá trình lưu thông hàng hóa, góp phần tạo ra sự dong bằng giữa các chủ thể trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, kích thích lưu thông hàng hóa từ sản xuất đến tiêu dùng. Đồng thời, việc xác định căn cứ tính thuế không chỉ để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước, đảm bảo bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế mà còn là biện pháp chống gian lận, trốn lậu thuế ở các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa. “Để hiện thực hóa chủ trương “phải tranh thủ các nguồn vốn bên ngoài với mức cao nhất” của Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội VI, Chính phủ, Quốc hội đã xây dựng và thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Theo đó, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 29/12/1987. Luật này đã tạo khung pháp lý cơ bản để nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam như: Bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài; quy định về các hình thức đầu tư, thủ tục đầu tư, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài… Chính sách thuế thu hút doanh nghiệp FDI đầu tư tại Việt Nam nói riêng và thu hút đầu tư nói chung không nên quá tập trung vào chính sách ưu đãi thuế mà cần hướng đến một hệ thống thuế tốt với chi phí tuân thủ thấp cho người nộp thuế (kể cả chi phí chính thức và chi phí phi chính thức), tức là một hệ thống thuế: Minh bạch, công bằng, hiệu quả, phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế....Do đó, theo đánh giá của Chính phủ, trong những năm qua, do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta và cộng đồng doanh nghiệp phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, trải qua nhiều chuyển biến” [2;tr.5]. Trước sự biến động của nền kinh tế, sự thay đổi phương thức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xu hướng phát triển của kinh tế - xã hội thế giới, thông lệ quốc tế đã cam kết, Thuế GTGT thời 2
  3. gian qua đã mang lại những kết quả tích cực, góp phần ổn định, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, tăng tổng cầu nền kinh tế, đồng thời thực hiện đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh những kết quả đạt được, qua quá trình thực hiện quy định pháp luật về thuế GTGT vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần phải khắc phục để tiếp tục phục hồi đà tăng trưởng trong thời gian tới, tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý thuế. Các vụ gian lận thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài GTGT đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ĐVNĐTNN ngày càng nhiều, các hình thức ngày càng tinh vi hơn cho thấy vấn đề gian lận thuế GTGT đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ĐVNĐTNN đã trở nên vô cùng nguy hiểm và đáng báo động bởi nó tạo ra sự bất công bằng cho các đối tượng nộp thuế. “Chỉ riêng trong hoàn thuế thì năm 2017 phát hiện 521 vụ gian lận thuế GTGT, năm 2018 phát hiện 219 vụ, năm 2019 phát hiện 178 vụ nâng tổng số tiền hoàn thuế GTGT đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ĐVNĐTNN bị chiếm đoạt lên hàng ngàn tỷ đồng từ năm 1999 các vụ về mua bán hoá đơn hay làm sai lệch giá trên hoá đơn không hề có xu hướng giảm sút. Tình trạng này làm đau đầu các nhà quản lý nói riêng và xã hội nói chung, có những kẻ đã lợi dụng những kẽ hở trong luật và trong quản lý của nhà nước ta để bòn rút tiền từ ngân sách nhà nước và đút túi cá nhân mình. Để góp phần đảm bảo công bằng giữa các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế thì việc nghiên cứu cơ chế thi hành Luật thuế GTGT đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá thực trạng và những giải pháp để hoàn thiện pháp Luật thuế GTGT” [3,tr.5]. Do đó, học viên lựa chọn đề tài "Thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội" để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian vừa qua, lĩnh vực thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo pháp luật Việt Nam, qua thực tiễn các tổ chức, cá nhân được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu. Đã có một số công trình nghiên cứu với những cách tiếp cận khác nhau, ở phạm vi lớn trên quy mô cả nước cho đến những phạm vi nhỏ hơn như địa bàn tỉnh. Có một số đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ và nhiều luận văn Tiến sĩ, Thạc sĩ với chủ đề liên quan, tiêu biểu có thể kể một số nghiên cứu sau: 3
  4. - Nguyễn Thị Thương Huyền (2003), luận án tiến sĩ luật học với nội dung Một số vấn đề pháp lý về thuế giá trị gia tăng và việc áp dụng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam. Đề tài nêu rõ những ưu điểm, thành tựu đạt được cũng như những vướng mắc trên thực tế và chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc đó. Để từ đó xác định phương hướng và giải pháp hoàn thiện luật nhắm nâng cao hiệu quả quản lý thuế GTGT ở Việt Nam. - Trần Văn Xuân (2018), Quy định pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học tại Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, đề tài đã triển khai nghiên cứu gồm 3 phần; (i) là Khái quát chung về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; khái niệm chung, mục đích và nguyên tắc, pháp luật áp dụng giải quyết quan hệ; (ii) những quy định cụ thể của pháp luật điều chỉnh vấn đề thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; trình tự thủ tục giả quyết, hậu quả pháp lý của việc thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; (iii) thực trạng và giải pháp của quan hệ thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, tình hình chung về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; môt số vướng mắc của pháp luật, một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài . - Trần Minh Anh (2017), Thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học tại Đại học Luật Huế. Luận văn đã xây dựng các khái niệm cơ bản như khái niệm thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chế định pháp lý về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; các hình thức thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời làm rõ bản chất và hệ quả pháp lý của mỗi hình thức thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong thực tiễn áp dụng và từ đó kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này mà các quy định trước đây chưa hề được đề cập đế - Nguyễn Bảo Anh (2016), Thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Quản lý công tại Học viện Hành chính Quốc gia. Luận văn đã đi sâu nghiên cứu một số vấn đề lí luận và thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về thuế giá trị gia tăng đối 4
  5. với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Phân tích thực tiễn thực hiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại thành phố Hà Nội; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề này. - Vũ Kỳ (2019), Thực hiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và thực tiễn thi hành, luận văn thạc sĩ Luật học tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lí luận và qui định của pháp luật hiện hành về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; từ đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước về vấn đề này. - Trần Thị Hạnh (2007), Cơ sở lý luận và thực tiễn về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Luận văn đã xây dựng các khái niệm cơ bản như khái niệm thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; chế định pháp lý về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các hình thức thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời làm rõ bản cơ sở xã hội - lịch sử của việc thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và chỉ ra những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới việc thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. - Nguyễn Thị Lệ Thúy (2009) đề tài Luận án Tiến sĩ của Trường Đại học kinh tế quốc dân, “Hoàn thiện quản lý thu thuế của Nhà nước nhằm tăng cường sự tuân thủ thuế của doanh nghiệp”. Đóng góp chủ yếu của đề tài là đã hệ thống những công trình nghiên cứu về sự tuân thủ thuế và Quản lý thuế của Nhà nước đối với doanh nghiệp của các tác giả nước ngoài và trong nước. Đề tài đã làm rõ bản chất mới của quản lý thuế cần được thể hiện đầy đủ trong các chiến lược quản lý sự nộp thuế của từng nhóm người nộp thuế ở từng cấp độ tuân thủ thuế khác nhau. - Trần Đình Thạch (2019), Luận Vưn thạc sĩ luật học tại Học viện KHXH với đề tài “Thuế Giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay, từ thực tiễn thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh ”. Mục đích nghiên cứu của đề tài là đưa ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật thuế GTGT góp phần tăng cường quản 5
  6. lý thuế GTGT đối với doanh nghiệp trên địa bàn thị xã Quảng Yên và tỉnh Quảng Ninh nhằm chống thất thu thuế GTGT. - Lê Thị Hồng Lũy (2012) đề tài Luận văn thạc sỹ, “Tăng cường kiểm soát thuế giá trị gia tăng tại cục thuế tỉnh Bình Định”. Luận văn đã làm rõ việc kiểm soát thuế giá trị gia tăng ở các khâu trong quá trình thu thuế giá trị gia tăng nhưng các giải pháp đưa ra chủ yếu bám theo các quy trình quản lý thuế, chưa có những giải pháp mang tính thực tế. Đối với nhóm giải pháp hoàn thiện công tác bộ máy, đẩy mạnh công tác tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế, công tác thanh tra, kiểm tra và phân tích các chỉ tiêu đánh giá, mặc dù tác giả đã có ý tưởng hoàn thiện về trình độ cán bộ công chức thuế và công tác phân tích đánh giá các chỉ tiêu kê khai, tuy nhiên tác giả chưa đề xuất được các giải pháp về bố trí sắp xếp lại các Phòng, Đội cho phù hợp với thực tế hiện nay và các chỉ tiêu phân tích chỉ mang nặng tính lý thuyết. - Nguyễn Thành Công (2014) đề tài Luận văn thạc sỹ “Nâng cao chất lượng quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”. Tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về công tác quản lý thuế đối với thuế giá trị gia tăng. Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế giá trị gia tăng tại Quảng Ninh giai đoạn 2011-2013, chỉ ra được những tồn tại trong công tác quản lý thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Từ đó tác giả đã đề xuất các giải pháp khả thi, nhằm tăng cường quản lý thuế giá trị gia tăng góp phần tăng nguồn thu ngân sách của tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới. - Trương Thị Tiểu Quỳnh (2018), đề tài luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận về thuế GTGT và pháp luật thuế GTGT. Phân tích, đánh giá thực trạng thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn TP, Hồ Chí Minh, chỉ ra được những tồn tại trong công tác quản lý thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp trên địa bàn TP, Hồ Chí Minh. Từ đó tác giả đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế GTGT và các giải pháp tăng cường quản lý thuế giá trị gia đối với các doanh nghiệp vùa và nhỏ trên địa bàn TP, Hồ Chí Minh trong thời gian tới. Luận văn đã chỉ ra những điểm bất cập của pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện hành, hệ quả pháp lý của việc thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa được quy định đầy đủ và 6
  7. chưa tương đồng với pháp luật quốc tế, các thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa chặt chẽ, chưa phản ánh và phù hợp với bản chất của quan hệ thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài . Luận văn đã đề xuất ba nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật. Bên cạnh đó, nội dung nghiên cứu về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm công bố trên tạp chí khoa học có uy tín như: + Trần Thị Thi (2018), Những bất cập về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, Số 9/2018, tr. 14 - 18, bài nghiên cứu phân tích những điểm bất cập và hướng hoàn thiện các quy định về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo hiệu quả của việc thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Trần An Khánh (2017), Bàn về điều kiện thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp,Số 7/2017, tr. 11 - 16, bài viết nêu những bất cập trong thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về điều kiện trong thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và kiến nghị hoàn thiện về vấn đề này. + Đinh Thị Mai (2018), Một số vấn đề về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , Tạp chí Công Thương , số 7/2018, tr. 42 - 49; bài viết phân tích một số vấn đề về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , một số vấn đề còn tồn tại trong việc áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , qua đó, nhằm đảm bảo hiệu quả của việc thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Những luận văn, luận án và công trình nghiên cứu trên đã tiếp tục nêu lên tầm quan trọng của việc nghiên cứu và hoàn thiện các quy định về pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài . Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc áp dụng thực tiễn vẫn thực sự cần thiết. Việc nghiên cứu sẽ chỉ ra những mặt tích cực, mặt hạn chế khi áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào thực tế, vừa đề ra được những giải pháp hoàn thiện pháp luật về các thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi của nhân dân, cũng như 7
  8. mục đích, ý nghĩa của việc thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài . 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về nội dung, vai trò, đồng thời đánh giá thực trạng của các quy định pháp luật về thuế giá trị gia tăng và thực tiễn thực hiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất cập từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài đặt ra, tác giả thực hiện những nhiệm vụ sau: - Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của quy định pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Đánh giá thực trạng pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam và hệ thống pháp luật có liên quan hiện nay. - Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật. - Đưa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn đi sâu nghiên cứu các quan điểm, các quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các quy định pháp luật có liên quan. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn - Phạm vi về nội dung: Những quy định của pháp luật hiện hành về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (gồm pháp luật nội dung và pháp luật thủ tục); thực tiễn thực hiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp 8
  9. có vốn đầu tư nước ngoài và thực tiễn thực hiện quản lý thuế giá trị gia tăng của cơ quan thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Phạm vi nghiên cứu về không gian: Những nội dung trên được nghiên cứu tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội và thực tiễn thực hiện quản lý thuế giá trị gia tăng của Cục thuế Hà Nội đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Phạm vi nghiên cứu về thời gian: từ năm 2015 đến năm 2020. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu. Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận, quan điểm của Đảng và Nhà nước về Nhà nước và Pháp luật, về phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung của luận văn được nêu và phân tích dựa trên cơ sở các văn bản pháp luật của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật và các tài liệu pháp lý. Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau bao gồm: - Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các chương của luận văn để phân tích các khái niệm, phân tích quy định của pháp luật, các số liệu,... - Phương pháp so sánh: Được sử dụng trong luận văn để so sánh một số quy định của pháp luật trong các văn bản khác nhau, tập chung chủ yếu ở chương 2 của luận văn. - Phương pháp diễn giải quy nạp: Được sử dụng trong luận văn để diễn giải các số liệu, các nội dung trích dẫn liên quan và được sử dụng tất cả các chương của luận văn. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu khác: phương pháp thống kê,... 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn 6.1. Ý nghĩa khoa học của luận văn Kết quả nghiên cứu của đề tài Luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo pháp luật Việt Nam, qua thực tiễn áp dụng trong điều kiện hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn 9
  10. Các giải pháp và kiến nghị của đề tài luận văn có giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội trong điều kiện hiện nay. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn cũng có ý nghĩa tham khảo đối với các cơ quan quản lý quản lý thuế trong việc quản lý thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 7. Cơ cấu của luận văn. Ngoài các phần: Mục lục, danh mục các từ viết tắt, lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn được chia làm ba chương như sau: Chương 1: Lý luận chung về thuế giá trị gia tăng và pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ thực tiễn thành phố Hà Nội. PHẦN NỘI DUNG Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 1.1. Tổng quan về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.1.1.1. Khái niệm thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Khi áp dụng pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo cho doanh nghiệp cơ chế tự kiểm tra, hạn chế việc kinh doanh trốn thuế. “Pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần vào việc hoàn thiện 10
  11. hệ thống chính sách thuế ở nước ta phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với kinh tế thị trường, tạo điều kiện để tham gia mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, nhanh chóng hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tầm quan trọng như vậy nên việc pháp điển hóa thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài càng có ý nghĩa sâu sắc. Hệ thống thuế của một quốc gia có nhiều sắc thuế khác nhau mà thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một trong số đó. Phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội ở mỗi nước và trình độ lập pháp, sự lựa chọn của các nhà làm luật khác nhau mà việc xây dựng pháp luật thuế lại khác nhau. Có nước quy định tất cả các sắc thuế trong một Bộ luật, trong đó vừa có quy định về nội dung điều chỉnh đối với các đối tượng chịu thuế vừa quy định về trình tự, thủ tục thực hiện và cơ chế quản lý, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp đối với sắc thuế đó” [31,tr.25]. Có nước lại có một đạo luật riêng về nội dung từng sắc thuế và đạo luật riêng về quản lý thuế. Tuy nhiên nhìn vào bản chất khi doanh nghiệp thực thi một sắc thuế cụ thể thì doanh nghiệp cần thực hiện theo nội dung các quy định của sắc thuế cũng như các quy định về trình tự để thực hiện sắc thuế đó. Vì vậy, dù pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dù được xây dựng theo hình thức nào thì pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng gồm hai bộ phận: luật nội dung là luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và luật hình thức là luật quản lý thuế. Pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tác động trực tiếp đến doanh nghiệp và được xem như là một trong những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, kích thích nền kinh. góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá và đẩy mạnh xuất khẩu. Quá trình triển khai thực hiện Pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế - xã hội của đất nước và đã đạt được những Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng (dưới đây viết tắt là VAT - Value Added Tax). VAT là loại thuế gián thu, đã được nhiều nước áp dụng để thay cho thuế doanh thu. Được gọi là thuế VAT vì thuế chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm qua mỗi khâu của quá trình sản xuất - kinh doanh, và tổng số thuế thu được ở mỗi khâu bằng chính số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Về bản chất, thuế VAT do các nhà sản xuất kinh doanh nộp hộ người tiêu dùng thông qua việc tính gộp thuế 11
  12. này vào giá bán mà người tiêu dùng phải thanh toán bằng chính số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Theo Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 và Luật thuế giá trị gia tăng sửa đổi năm 2013, thuế GTGT được định nghĩa như sau: “Thuế giá trị gia tăng là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình tư sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng". Thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi đối tượng tồn tại trong xã hội cho dù là tổ chức hay cá nhân, là người nghèo hay người có thu nhập cao đều phải chi trả thu nhập của mình để thụ hưởng kết quả sản xuất kinh doanh tạo ra cho nền kinh tế - xã hội. Điều này có nghĩa, mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế, chủ thể thực tế phải tới sự tác động của pháp luật thuế GTGT, đối với đời sống kinh tế, xã hội. Việc đánh thuế đối với mọi đối tượng trên phạm vi lãnh thổ thể hiện rõ nét sự công bằng của thuế đồng thời thể hiện thái độ của nhà nước đối với các loại tiêu dùng trong xã hội. Như vậy, thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình tư sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng được áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.1.1.2. Đặc điểm thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài “Thuế GTGT tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ. Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế GTGT áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu dùng. Đặc điểm này của thuế GTGT còn yêu cầu pháp luật điều chỉnh phải tìm ra cách thức, phương thức phù hợp, có tính khả thi để xác định chính xác phần giá trị tăng thêm làm căn cứ tính thuế. Nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế GTGT phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau. Đánh thuế ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa ở trong nước, khâu nhập khẩu và lưu thông hàng nhập khẩu nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp chỉ là phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với khâu trước nên nếu coi giá thanh toán tính đến khi người tiêu dùng thụ hưởng hàng hóa dịch vụ đã xác định trước và không thay đổi các phần giá trị hàng hóa dịch vụ có bị chia nhỏ và đánh thuế, tổng số thuế GTGT phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tổng giá trị hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng phải chịu. Đây vừa là đặc 12
  13. điểm vừa là ưu việt của thuế GTGT so với thuế hàng hóa dịch vụ thông thường mà Việt Nam và nhiều quốc giá khác đã áp dụng trong giai đoạn trước đây” [9,tr.18]. Doanh nghiệp nước ngoài đầu tư sẽ phải chịu các loại thuế Việt Nam, Bất cứ Doanh nghiệp nào cần thuê xưởng sản xuất đều phải đóng thuế giá trị gia tăng. Đây là loại thuế đánh vào giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ trong suốt quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối. Có hai phương pháp tính thuế: phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp. Phương pháp khấu trừ: Thuế giá trị gia tăng phải nộp = Thuế giá trị gia tăng đầu vào – Thuế giá trị gia tăng đầu ra được khấu trừ. Còn phương pháp trực tiếp: Thuế giá trị gia tăng phải nộp = Giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ bán ra × Thuế suất thuế giá trị gia tăng. Thuế suất thuế giá trị gia tăng có ba mức: 0%, 5% và 10%. Mức thuế được áp dụng tùy theo nhóm hàng hóa, dịch vụ. Theo quy định, Nghị định 209/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật thuế giá trị gia tăng và Nghị định 92/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết một số Điều có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 của Luật sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật sửa đổi Luật thuế giá trị gia tăng theo đó, thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình tư sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng được áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.1.2. Sự điều chỉnh của pháp luật thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Thứ nhất, khắc phục được nhược điểm trùng lắp "Thuế thu trên thuế" nên góp phần khuyến khích chuyên môn hóa, hợp tác hóa để nâng cao năng suất chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, phù hợp với nền kinh tế sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường. Pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được áp dụng rộng rãi với mọi tổ chức và cá nhân có tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa hoặc được cung ứng dịch vụ, thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngooài chỉ tính vào phần giá trị tăng thêm, không tính vào vốn nên pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không những đảm bảo được nguồn thu cho NSNN tương ứng với số thuế doanh thu trước đây mà còn góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó để tăng thu cho NSNN. Pháp luật Thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hàng năm ở các nước thuộc OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế) chiếm 18,7%. Ở Việt Nam, thuế đóng góp vào NSNN liên tục tăng). Có thể thấy, pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 13
  14. đóng góp phần quan trọng với tỷ lệ lớn nguồn thuế nộp vào NSNN hàng năm. Đối với nhận thức của người nộp sắc thuế này thì đây là một sắc thuế hấp dẫn hơn các sắc thuế khác vì bản chất của nó: NNT biết những gì họ phải trả và nếu họ không mua hàng hóa thì họ không phải trả tiền thuế. Do có ít tác động tiêu cực đối với tâm lý của NNT nên số pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu được cũng chiếm tỷ lệ cao và tốt cho tăng trưởng kinh tế hơn so với thuế khác (điển hình như thuế thu nhập). Thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu cả đối với hàng hóa nhập khẩu tạo sự bình đẳng trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp nhập khẩu và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước. Thứ hai, khi áp dụng pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo cho doanh nghiệp cơ chế tự kiểm tra, hạn chế việc kinh doanh trốn thuế. “Pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống chính sách thuế ở nước ta phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với kinh tế thị trường, tạo điều kiện để tham gia mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, nhanh chóng hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tầm quan trọng như vậy nên việc pháp điển hóa thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài càng có ý nghĩa sâu sắc. Hệ thống thuế của một quốc gia có nhiều sắc thuế khác nhau mà thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một trong số đó. Phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội ở mỗi nước và trình độ lập pháp, sự lựa chọn của các nhà làm luật khác nhau mà việc xây dựng pháp luật thuế lại khác nhau. Có nước quy định tất cả các sắc thuế trong một Bộ luật, trong đó vừa có quy định về nội dung điều chỉnh đối với các đối tượng chịu thuế vừa quy định về trình tự, thủ tục thực hiện và cơ chế quản lý, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp đối với sắc thuế đó” [31,tr.25]. Có nước lại có một đạo luật riêng về nội dung từng sắc thuế và đạo luật riêng về quản lý thuế. Tuy nhiên nhìn vào bản chất khi doanh nghiệp thực thi một sắc thuế cụ thể thì doanh nghiệp cần thực hiện theo nội dung các quy định của sắc thuế cũng như các quy định về trình tự để thực hiện sắc thuế đó. Vì vậy, dù pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dù được xây dựng theo hình thức nào thì pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng gồm hai bộ phận: luật nội dung là luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và luật hình thức là luật quản lý thuế. 14
  15. Thứ ba, pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khuyến khích việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu và xuất khẩu thay vì luật thuế cũ khuyến khích sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, đặc biệt pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã khuyến khích sản xuất, kinh doanh những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh: nông sản, lâm sản, hải sản, thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt Luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài góp phần đến công tác quản lý của doanh nghiệp tạo điều kiện cho cơ quan Nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường công tác hạch toán, kế toán và thúc đẩy việc mua bán hoá đơn VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các doanh nghiệp. Do yêu cầu của việc kê khai thuế GTGT, khấu trừ thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu vào, tính đúng thu nhập của doanh nghiệp nên những người làm công tác quản lý kinh doanh đã bắt đầu trú trọng đến công tác mở sổ kế toán, ghi chép, quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. Thông qua việc chấp hành công tác kế toán, hoá đơn chứng từ của các doanh nghiệp, qua việc kê khai thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế đã giúp cơ quan chức năng và cơ quan thuế từng bước nắm được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp. Pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tác động trực tiếp đến doanh nghiệp và được xem như là một trong những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, kích thích nền kinh. góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá và đẩy mạnh xuất khẩu. Quá trình triển khai thực hiện Pháp luật thuế VAT của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế - xã hội của đất nước và đã đạt được những mục tiêu đề ra khi ban hành luật là góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, bảo đảm nguồn thu cho NSNN. 1.1.3. Cơ chế quản lý thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Thuế giá trị gia tăng (GTGT) tác động đến hầu hết các đối tượng trong xã hội. Luật Thuế giá trị gia tăng 2008, được sửa đổi, bổ sung 2016 điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực này. Đối với cơ chế quản lý thuế khác nhau mà pháp luật có những điều chỉnh khác nhau. Trên thế giới có hai loại cơ chế quản lý thuế: Một là cơ chế cơ quan quản lý thuế tính thuế; hai là cơ chế NNT tự khai, tự tính, tự nộp thuế. Đối với Cơ chế cơ quan quản lý thuế tính thuế: Theo cơ chế này đòi hỏi cán bộ thuế phải kiểm tra các tờ khai thuế, các khoản thu dựa trên những số liệu mà cơ quan 15
  16. thuế có được để xác định số thuế chính thức phải nộp và ra thông báo thuế cho doanh nghiệp nộp thuế thực hiện. Cơ chế này không khuyến khích NNT tự giác tuân thủ mà đặt nặng trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế. Vì vậy, hệ thống quản lý thuế sẽ trở nên cồng kềnh hơn do số lượng cán bộ thuế gia tăng để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế, số lượng các doanh nghiệp đóng thuế ngày càng nhiều. Cơ chế tính thuế này mang tính chất truyền thống khi doanh nghiệp nộp thuế không được đặt ở vị trí trung tâm, mọi cải cách đều hướng đến nhằm tăng cường hoạt động của cơ quan quản lý thuế trong việc thu thuế cho NSNN, doanh nghiệp có vị trí là đối tượng bị quản lý, bị cai trị. Đối với cơ chế tự tính: “Khi nền kinh tế thị trường phát triển và lan rộng ở khắp các quốc gia trên thế giới đồng thời nền dân chủ cũng được mở rộng, nâng cao và tác động đến nhận thức của doanh nghiệp và cơ quan thuế. Việc đăng ký, kê khai, nộp thuế không chỉ đơn thuần là nghĩa vụ của đối tượng là doanh nghiệp nộp thuế mà xét ở góc độ nào đó còn là quyền của đối tượng nộp thuế: quyền được đăng ký nộp thuế, quyền được kê khai thuế, quyền được tính thuế, quyền được chủ động nộp thuế vào NSNN. Ngày nay, doanh nghiệp ngày càng có ý thức nghĩa vụ thuế của mình, vai trò ý nghĩa của việc nộp thuế đối với NSNN, cơ quan thuế ý thức được chức năng, nhiệm vụ của mình trong hoạt động quản lý thuế, hệ thống thuế. Do đó, nhiều quốc gia đã thay đổi cơ chế quản lý thuế của mình, chuyển sang áp dụng quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp. Việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế đã là vấn đề nổi bật trong quản lý thuế vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20. Một số nước như: Anh, Pháp thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế từng bước, trước tiên là áp dụng đối với thuế GTGT, sau đó được đưa vào áp dụng cho các sắc thuế khác. Tại một số nước như: Mỹ, Nhật Bản, Đan Mạch, Thụy Điển, cơ chế tự khai, tự nộp thuế đã được áp dụng từ nhiều thập kỷ trước, nhằm mục tiêu thực hiện dân chủ hóa hệ thống quản lý thuế. Tại các nước có nền kinh tế mới nổi, các nước ASEAN như: Philipin, Inđônêxia, Thái Lan, Malaixia, Việt Nam…, việc áp dụng cơ chế tự khai tự nộp thuế được coi là trọng tâm của cải cách pháp luật về quản lý thuế” [26,tr.17]. Theo cơ chế này, việc kê khai, tính thuế, nộp thuế được thực hiện trên nền tảng sự tuân thủ tự giác về nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp nộp thuế. NNT căn cứ các quy định của pháp luật thuế để xác định các loại thuế phải nộp, tự kê khai, tự tính thuế, tự nộp số thuế đã tính vào NSNN. Đặc điểm cốt lõi của cơ chế tự khai - tự nộp là xác định trách nhiệm của doanh nghiệp nộp thuế tự xác định doanh thu, chi phí và từ đó lập tờ 16
  17. khai thuế đúng kỳ hạn và nộp thuế. Tờ khai được gửi đến cơ quan thuế trực tiếp quản lý và sẽ được cơ quan thuế chuyển thông tin sang hệ thống Kho bạc, ngân hàng để thực hiện thủ tục nộp thuế. NNT có trách nhiệm lưu giữ chứng từ, sổ sách kế toán để chứng minh các số liệu đã kê khai còn cơ quan thuế có nhiệm vụ hướng dẫn để doanh nghiệp nộp thuế hiểu rõ chính sách thuế, các thủ tục về thuế và giám sát, quản lý việc tuân thủ nghĩa vụ thuế thông qua công tác, kiểm tra, thanh tra để phát hiện, xử lý kịp thời, đúng đắn những hành vi gian lận, trốn thuế của doanh nghiệp. Cơ chế tự khai tự nộp thuế có nhiều ưu điểm: đảm bảo cân bằng quyền lợi giữa cơ quan quản lý thuế và doanh nghiệp bởi cơ chế tự khai, tự nộp thuế giảm bớt sức ép về thuế lên doanh nghiệp, cơ quan quản lý thuế không khoán thuế, ép thuế đối với doanh nghiệp mà để doanh nghiệp tự tính và tự nộp thuế đồng thời tự chịu trách nhiệm với hành vi của mình. Theo cơ chế này, doanh nghiệp được đặt ở vị trí trung tâm, cơ quan quản lý thuế hỗ trợ, hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ đối với nhà nước, đề cao quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện Luật Thuế GTGT. Doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động kê khai và nộp thuế đồng thời chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình trong từng khâu của việc thực hiện thuế GTGT. Cơ quan quản lý thuế thực hiện cân bằng giữa hai chức năng: chức năng phục vụ, cung cấp dịch vụ thuế cho doanh nghiệp và chức năng giám sát, chức năng quản lý nhà nước, kiểm tra hoạt động tuân thủ pháp luật thuế đối với doanh nghiệp nộp thuế. Cơ quan thuế không can thiệp vào quá trình kê khai, nộp thuế của doanh nghiệp nhưng cơ quan thuế sẽ tiến hành thanh tra, kiểm tra và áp dụng các biện pháp xử phạt, cưỡng chế theo luật định đối với những trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật về thuế như không nộp thuế, trốn thuế, gian lận thuế… Áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế này, cơ quan thuế còn tiết kiệm được chi phí hành chính về thuế, công sức, nguồn nhân lực khi mà cơ quan thuế không phải gửi hàng triệu thông báo thuế hàng tháng. Cơ quan quản lý thuế có điều kiện để đầu tư vào chức năng như: hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp, thanh tra, kiểm tra, cưỡng chế về thuế. Tuy nhiên, áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào các điều kiện sau: + Nhà nước phải có hệ thống thuế thực sự minh bạch, doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu chính sách thuế. Đặc biệt các thủ tục như đăng ký thuế, kê khai, 17
  18. nộp thuế, hoàn thuế … phải đơn giản để doanh nghiệp hoàn thành nghĩa vụ thuế một cách thuận tiện. + Cơ quan thuế phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và giải đáp các vướng mắc về chính sách, chế độ thủ tục về thuế mà các tổ chức, cá nhân thường gặp trong quá trình kê khai, nộp thuế để doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình đối với Nhà nước. + Chế tài đủ sức răn đe đối với các hành vi vi phạm để đảm bảo hiệu quả của hoạt động quản lý thuế, tính thực tiễn của luật thuế GTGT, luậtquản lý thuế và đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Thanh tra thuế phải kịp thời phát hiện, ngăn chặn đối với các hành vi vi phạm, trốn thuế, gian lận thuế, … tránh tình trạng thất thoát đi NSNN. 1.2. Pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.2.1. Sự cần thiết khách quan của pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Thuế giá trị gia tăng có nguồn gốc từ thuế doanh thu theo quy định của Luật thuế giá trị gia tăng thì thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu đánh trên khoản giá trị tăng thêm cuả hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào ngân sách Nhà nước theo mức độ tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Ðây là một loại thuế doanh thu đánh vào mỗi giai đoạn sản xuất, lưu thông sản phẩm hàng hoá, từ khi còn là nguyên liệu thô sơ cho đến sản phẩm hoàn thành, và cuối cùng là giai đoạn tiêu dùng. Chính vì vậy mà chúng ta còn gọi là thuế doanh thu có khấu trừ số thuế đã nộp ở giai đoạn trước. Thuế giá trị gia tăng được cộng vào giá bán hàng hoá, dịch vụ, và do người tiêu dùng chịu khi mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ. Nếu như không có các sự kiện biến động về tài chính, tiền tệ, sản xuất và lưu thông giảm suất, yếu kém, kinh tế suy thoái và các nguyên nhân khác tác động thì việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu sẽ không ảnh hưởng gì đến giá cả các sản phẩm tiêu dùng, mà trái lại giá cả càng hợp lý hơn, chính xác hơn vì tránh được thuế chồng lên thuế. Hệ thống này chỉ áp dụng trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị hàng hóa, dịch vụ, hệ thống chính sách pháp luật là một loại thuế gián thu, được cộng vào giá bán hàng hóa, dịch vụ và do người tiêu dùng trả khi sử dụng sản phẩm đó. Mặc dù người tiêu dùng mới chính là người chi trả thuế GTGT, 18
  19. nhưng người trực tiếp thực hiện nghĩa vụ đóng thuế với Nhà nước lại là đơn vị sản xuất, kinh doanh. Như vậy, khái niệm pháp luật thuế giá trị gia tăng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT của chủ thể. Hay nói cụ thể hơn là tập hợp tất cả các quy phạm, văn bản pháp luật về thuế VAT tạo thành một cấu trúc tổng thể, được phân chia thành các bộ phận có sự thống nhất nội tại theo những tiêu chí nhất định như bản chất, nội dung, mục đích.điều chỉnh thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. 1.2.2. Nội dung điều chỉnh chủ yếu của pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài “Pháp luật thuế GTGT gồm các quy định xác định nghĩa vụ thuế GTGT và các quy định về tổ chức thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT. 1.2.2.1. Xác định nghĩa vụ thuế GTGT * Đối tượng chịu thuế GTGT Đối tượng chịu thuế bao gồm hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng trong nước. Điều đó có nghĩa là đối tượng chịu thuế GTGT thỏa mãn điều kiện: - Là hàng hóa dịch vụ, được tạo ra từ một cơ sở, một chủ thể sản xuất kinh doanh hoặc được tạo ra nhằm mục đích kinh doanh và hành vi tiêu dùng hàng hóa. - Là hàng hóa dịch vụ, được tiêu dùng trên phạm vi lãnh thổ quốc gia đó (trong đó có hàng nhập khẩu). Cụ thể, khi một loại HHDV được nhập khẩu để tiêu dùng thì hàng hóa dịch vụ này chịu thuế GTGT bất kể chủ thể nhập khẩu là chủ thể kinh doanh hay không kinh doanh và hành vi nhập khẩu nhằm mục đích kinh doanh hay tiêu dùng. * Đối tượng không chịu thuế GTGT Đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT là trường hợp HHDV không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, thuế GTGT không áp dụng cho một số loại hàng hóa dịch vụ nhất định. Những hàng hóa dịch vụ không chịu thuế GTGT có thể là hàng hóa dịch vụ trong nước hoặc hàng hóa dịch vụ nhập khẩu từ nước ngoài để tiêu thụ nội địa. Tuy nhiên, số lượng hàng hóa dịch vụ không chịu thuế GTGT ít hơn rất nhiều so với hàng hóa dịch vụ là đối tượng chịu thuế. Những lí do đặc biệt để hàng hóa dịch vụ trở thành đối tượng không chịu thuế GTGT: 19
  20. - Hàng hóa thuộc nhóm các sản phẩm trồng trọt sản phẩm giống vật nuôi cây trồng, sản phẩm muối được sản xuất từ biển… - HHDV không tiêu dùng trong nước (chỉ nhằm mục đích xuất khẩu) - Hàng hóa thuộc loại nội địa chưa sản xuất được cần nhập khẩu. - Hàng hóa nhập khẩu và HHDV bán cho các tổ chức, cá nhân với mục đích nhân đạo… Cơ sở kinh doanh HHDV thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT thì không phải thực hiện nộp thuế GTGT. Do đó họ không được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào của HHDV sử dụng cho việc sản xuất kinh doanh thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT theo quy định mà phải tính vào nguyên giá tài sản cố định, giá trị nguyên vật liệu hoặc chi phí kinh doanh. * Đối tượng được miễn thuế GTGT Miễn thuế là trường hợp hàng hóa hay dịch vụ nằm trong đối tượng chịu thuế ở một mức thuế suất nhất định, có các căn cứ tính thuế rõ ràng và phải kê khai thuế đối với cơ quan thuế. Tuy nhiên HHDV này được hưởng những ưu đãi từ nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định như đầu tư vào những vùng xa xôi, các ngành nghề đặc biệt... nên được miễn thuế để khuyến khích cho nhà đầu tư và tạo điều kiện để sản phẩm hàng hóa dễ dàng tiếp cận thị trường trong nước hoặc xuất khẩu. Do đó, miễn thuế mang tính chất ưu tiên, ưu đãi hay được khuyến khích do có phần thuế được miễn giảm hoàn toàn hay một phần, được khấu trừ thuế đầu vào. * Người nộp thuế Người nộp thuế giá trị gia tăng bao gồm: Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh HHDV chịu thuế (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hóa chịu thuế (gọi chung là người nhập khẩu) là người nộp thuế giá trị gia tăng. Có nghĩa là, những cá nhân tổ chức có hành vi sau đây thì trở thành người nộp thuế GTGT: hành vi nhập khẩu hàng hóa dịch vụ, hành vi sản xuất hàng hóa dịch vụ, hành vi kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Bên cạnh đó, thì người nộp thuế GTGT còn có người nộp thuế thay như đại lý thuế, cơ quan hải quan… * Căn cứ tính thuế Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng là giá tính thuế và thuế suất. - Giá tính thuế 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2