intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN:Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối

Chia sẻ: Nguyenn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

283
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn hai mươi năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng trên mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Trong đó, chủ trương phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội, giảm chênh lệch giàu, nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, làm cơ sở hình thành tương đối đồng bộ các chính sách xã hội với mục tiêu vì người nghèo đã trở thành...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN:Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối

  1. LUẬN VĂN: Thực hiện phỏp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn hai mươi năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng trên mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Trong đó, chủ trương phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội, giảm chênh lệch giàu, nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, làm cơ sở hình thành tương đối đồng bộ các chính sách xã hội với mục tiêu vì người nghèo đã trở thành hiện thực. Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội là biện pháp pháp lý trong việc thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của dân, do dân, vì dân, đòi hỏi tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật; theo nguyên tắc Hiến định: "Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật". Dịch vụ tư vấn pháp luật là một loại dịch vụ phát sinh và trở thành khá phổ biến trong nhà nước pháp quyền tư sản và xã hội công dân. Dịch vụ này tạo điều kiện cho mọi tổ chức và công dân tham gia các quan hệ pháp luật được đúng đắn và hiệu quả nhất. Tư vấn pháp luật có các dạng hoạt động cơ bản: Một là, đưa ra lời khuyên để "khách hàng" lựa chọn pháp luật, làm theo pháp luật một cách đúng đắn nhất, có lợi nhất; hai là, đưa ra lời khuyến cáo để "khách hàng" không làm những gì mà pháp luật cấm; ba là, hướng dẫn hoặc làm thay "khách hàng" trong việc soạn thảo các loại văn bản pháp lý, trong đó chủ yếu là văn bản hợp đồng; bốn là, tham gia các quá trình tố tụng với tư cách là luật sư, bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của "khách hàng". Các hoạt động trên thực hiện theo hợp đồng và có thu tiền công tư vấn. ở nước ta, người nghèo và đối tượng chính sách xã hội cần được hưởng các dịch vụ tư vấn pháp luật, song họ ít hoặc không có tiền nên phải được ưu tiên bằng việc được trợ giúp pháp lý miễn phí, không phải trả tiền công. Vì vậy, Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VIII đã chỉ đạo: "Mở rộng loại hình tư vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật và ứng xử pháp luật của công dân trong quan hệ đời sống hàng ngày... cần nghiên cứu hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật" [56]. Nghị quyết
  3. Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII tiếp tục khẳng định cần: "tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí... ". Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đặc biệt là, ngày 29/6/2006, Luật Trợ giúp pháp lý đã được kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá XI thông qua, theo đó ngày 12/01/2007 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 07/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật trợ giúp pháp lý. Như vậy, ở Việt Nam pháp luật về trợ giúp pháp lý đã được xây dựng và có thể coi là khá hoàn chỉnh. Vấn đề còn lại là tổ chức thực hiện pháp luật ấy trong đời sống xã hội. Thực hiện pháp luật nói chung là một trong những phạm trù pháp lý được coi là thành tựu của khoa học về lý luận chung về nhà nước pháp luật. Song, thành tựu này chưa phải là đích cuối cùng bởi những yêu cầu từ thực tế của đời sống xã hội. Nói một cách khác, phạm trù "thực hiện pháp luật" cần được cụ thể hoá trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách là một lĩnh vực thực hiện pháp luật cụ thể. Do đó, coi đây là một đối tượng nghiên cứu cần thiết. Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý đã hỗ trợ một bộ phận không nhỏ dân cư như là người nghèo, các đối tượng chính sách được trợ giúp pháp lý. Hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội thời gian qua đã có những đóng góp quan trọng vào việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật miễn phí cho hàng triệu người. Trợ giúp pháp lý tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực pháp luật như: Dân sự, hôn nhân - gia đình, đất đai, việc làm và các chế độ chính sách... Nhiều vụ việc phức tạp, vượt cấp, kéo dài nhiều năm, đã được các tổ chức trợ giúp pháp lý hướng dẫn, giải quyết dứt điểm; trật tự an toàn xã hội, an ninh được giữ vững; thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Vì thế, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa được khẳng định trong thực tế cuộc sống; niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước không ngừng được củng cố và nâng cao. Tuy nhiên, thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách là một lĩnh vực mới mẻ còn nhiều hạn chế, bất cập do nhiều nguyên nhân cả về khách quan và chủ quan. Nên việc thực hiện pháp luật chưa đi vào nề nếp, quy củ, các đối tượng người nghèo ở nước ta khó xác định về định lượng và định tính. Việc thành lập và
  4. quản lý các tổ chức trợ giúp pháp lý còn lỏng lẻo, thủ tục, trình tự được thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý còn bất cập, nhận thức về pháp luật của người dân còn thấp và không đồng đều. Thanh Hoá là một tỉnh đông dân, theo số liệu thống kê năm 2006, dân số trên 3,7 triệu người. Trong đó, người nghèo và đối tượng chính sách xã hội chiếm tỷ lệ đáng kể khoảng 33%. Vì vậy, vấn đề trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách được đặt ra cả về mặt lý luận và tổng kết thực tiễn cũng như việc đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật trên lĩnh vực này. Với những lý do phân tích trên, tôi chọn đề tài: " Thực hiện phỏp luật về trợ giỳp phỏp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp " làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thực hiện pháp luật là một trong các lĩnh vực pháp lý cụ thể nói chung và thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý đã và đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học pháp lý. Qua tìm hiểu các công trình khoa học đã được công bố trong nước và nước ngoài về thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý, trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội; có các công trình sau đây: Nhóm thứ nhất: Các công trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật nói chung. ở nhóm này, các tài liệu và giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật đều thống nhất về khái niệm, các hình thức thực hiện pháp luật. Đặc biệt là hình thức áp dụng pháp luật, cụ thể là khái niệm, căn cứ, các bước, trình tự, thủ tục áp dụng pháp luật. Tiêu biểu là: - Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002. - Tài liệu học tập và nghiên cứu môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Nhà nước và pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004. - Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Học viện Hành chính quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
  5. - Tài liệu phục vụ học tập và nghiên cứu môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 2005. Nhóm thứ hai: Bao gồm các công trình nghiên cứu về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý. Tiêu biểu là: "Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Văn Tùng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2007... Nhóm thứ ba: Bao gồm các công trình nghiên cứu thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý. Tiêu biểu cho nhóm này là công trình sau đây: - "Phương hướng xây dựng luật trợ giúp pháp lý" của TS. Đinh Trung Tụng, Tạp san Trợ giúp pháp lý, 2006. - "Khái niệm trợ giúp pháp lý một số vấn đề cần bàn thêm" của Tạ Minh Lý, Đặc san Trợ giúp pháp lý, 2006. - "Một số vấn đề về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách" của TS. Trần Huy Liệu, Thông tin Khoa học pháp lý, 2005. - "Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huỳnh Huyện, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006. - "Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Việt Nam ", Luận văn thạc sĩ Luật học của Vũ Hồng Tuyến, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004. - "Báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện Quyết định số 734 /TTg ngày 6/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách", Bộ Tư pháp, 11/2005. - "Báo cáo tổng kết 10 năm công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách" Bộ Tư pháp, năm 2007, Báo cáo ngày 20/11/2007. - "Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Thanh Hóa", Sở Tư pháp Thanh Hoá, 2007.
  6. Các công trình trên đã nghiên cứu quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý; thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý; trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội ở tầm vĩ mô, tức là ở phạm vi toàn quốc. Chưa có công trình nào nghiên cứu về thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội ở tỉnh Thanh Hóa. Vì vậy, đây có thể được coi là công trình mới, nghiên cứu về lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội ở Thanh Hoá. Tuy nhiên, để nghiên cứu, thực hiện đề tài này, cần phải kế thừa, vận dụng những kết quả nghiên cứu của các công trình nêu trên. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Luận văn góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội trong tình hình mới. Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội ở tỉnh Thanh Hoá từ khi thành lập Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Thanh Hoá năm 1999 đến nay; để xác định quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật trên lĩnh vực này ở tỉnh Thanh Hoá. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây: - Xác định khái niệm, nội dung pháp luật trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội. - Xác định khái niệm và các hình thức thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội. - Làm rõ vai trò của thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội. - Khái quát tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Thanh Hoá. - Đánh giá đúng thực trạng các cơ quan, tổ chức với tư cách là chủ thể trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội; kết quả và những tồn tại yếu kém trong thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội.
  7. - Làm rõ nguyên nhân của những kết quả và những tồn tại, yếu kém trong thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội. - Đưa ra các quan điểm chỉ đạo thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội ở tỉnh Thanh Hoá. - Chỉ rõ những yêu cầu khách quan đòi hỏi thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội ở tỉnh Thanh Hoá. - Đề xuất những giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội ở tỉnh Thanh Hoá. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Nghiên cứu đối tượng cần được trợ giúp pháp lý là người nghèo và đối tượng chính sách xã hội. - Nghiên cứu các dạng thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý có tính chất lý thuyết và vai trò của nó trong thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý. - Tổng kết thực tiễn trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội ở tỉnh Thanh Hoá, nguyên nhân của kết quả và nguyên nhân của hạn chế, yếu kém. Để có giải pháp bảo đảm khắc phục sự yếu kém đó và có các giải pháp bảo đảm toàn diện, vững chắc hơn cho việc thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Vận dụng lý luận chung về thực hiện pháp luật vào lĩnh vực thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội. Vì vậy, luận văn không nghiên cứu nhiều đến những vấn đề thực hiện pháp luật nói chung. Chỉ đi sâu vào các dạng thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý và luận chứng vai trò của nó trong thực tiễn thực hiện chính sách xã hội ở Thanh Hoá. Luận văn sẽ cụ thể hoá hơn về định lượng cũng như định tính và việc đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý đối với người nghèo và đối tượng chính sách xã hội được giới hạn về không gian là ở tỉnh Thanh Hoá, về thời gian đánh giá thực trạng từ khi Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Thanh Hoá được thành lập tháng 3/1999 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
  8. 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và chính sách xã hội của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Đề tài này được thực hiện trên nền tảng lý luận về Nhà nước và pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý nói riêng. Đồng thời căn cứ vào việc tổng kết có tính khoa học về thực tiễn thực hiện chính sách xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp luận của triết học mác xít cả về chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đồng thời, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của các ngành khoa học đó là các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp lịch sử cụ thể, phân tích tổng hợp, điều tra xã hội học... 6. Những đóng góp mới của luận văn - Luận văn góp phần đánh giá, phân tích làm rõ hơn cơ sở lý luận về khái niệm, nội dung pháp luật về trợ giúp pháp lý; hình thức thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý và vai trò của thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội. - Luận văn tập trung phân tích đánh giá khách quan, khoa học về thực trạng thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội ở tỉnh Thanh Hoá từ tháng 3 năm 1999 Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Thanh Hoá được thành lập đến nay. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra quan điểm và giải pháp để bảo đảm thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội ở tỉnh Thanh Hoá. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung gồm 3 chương, 8 tiết.
  9. Chương 1 Cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách 1.1. Khái niệm nội dung pháp luật về Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội 1.1.1. Khái niệm nội dung trợ giúp pháp lý Khái niệm nội dung trợ giúp pháp lý là vấn đề rất quan trọng trong thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý. Chính vì vậy, từ khái niệm nội dung trợ giúp pháp lý cho ta cơ sở để nghiên cứu những vấn đề về lý luận cũng như về thực tiễn thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý. Khái niệm trợ giúp pháp lý, diễn đạt và vận dụng vào từng lĩnh vực khác nhau, có cách giải thích khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 2001, thì khái niệm "trợ giúp" được hiểu là "giúp đỡ" [57, tr.767], pháp lý tức là "nguyên lý về pháp luật " [57, tr.1045]. Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Lân, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2005 thì "trợ giúp " là giúp đỡ" như nông dân bị mất mùa do lũ lụt, Nhà nước cấp lúa giống, con giống cho nông dân để tiếp tục sản xuất không thu tiền [35, tr.1923], còn về "pháp lý" là "nguyên lý của pháp luật" [35, tr.1431]. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như ý, Nxb Văn hoá - Thông tin, 1999, thì "trợ giúp" hiểu là "sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem lại cho ai cái gì, đang lúc khó khăn, đang lúc cần đến", thuật ngữ "pháp lý " được hiểu là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, nói một cách khái quát pháp lý là lí luận [58]; theo Từ điển luật học, Nxb Tư pháp - Nxb Từ điển Bách khoa, 2006, thì pháp lý: những khía cạnh, phương diện khác nhau của đời sống pháp luật của một quốc gia, "pháp lý" chỉ những lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, giá trị pháp lý bắt buộc từ một sự việc, hiện tượng xã hội, những nguyên lý, phạm trù, khái niệm lý luận về pháp luật [53, tr.606]. Do vậy, dù là "giúp đỡ", "bảo trợ" hay là hỗ trợ cũng có thể được hiểu là "trợ giúp". ở đây trợ giúp được hiểu là sự giúp đỡ cho ai đó đang gặp khó khăn, nhằm làm giảm bớt khó khăn về một vấn đề mà họ đang cần, cái họ đang cần ở đây là "pháp lý".
  10. Nghiên cứu một số nước trên thế giới về khái niệm trợ giúp pháp lý như: Vương quốc Anh, Hà Lan, Thụy Điển, Trung Quốc... xét thấy, các nhà khoa học pháp lý đều lấy lí luận về dân chủ, nhân quyền làm nền tảng, họ đánh giá trợ giúp pháp lý là một đảm bảo cho công dân có hoàn cảnh khó khăn, không có điều kiện tiếp cận và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của mình theo quy định của pháp luật. Mặc dù hình thức diễn đạt khác nhau về khái niệm trợ giúp pháp lý, nhưng các khái niệm này đều thể hiện rõ 4 nội dung trợ giúp cơ bản, đó là: pháp lý, kinh tế, xã hội và nhân đạo. Về kinh tế, giúp đỡ tất cả hoặc một phần tài chính chi trả cho công dân có hoàn cảnh khó khăn khi tiếp cận với pháp luật và dịch vụ pháp lý thu phí của Luật sư; về pháp lý giúp đỡ công dân giải quyết các vụ liên quan đến pháp luật đụng chạm đến quyền, lợi ích thiết thực của họ; tạo ra sự công bằng khi công dân có hoàn cảnh khó khăn tiếp cận với pháp luật; về xã hội hoạt động trợ giúp pháp lý mang tính xã hội rộng rãi, thể hiện cụ thể là luôn có sự tham gia đông đảo của các lực luợng trong xã hội trong việc phổ biến pháp luật, tạo điều kiện cho người nghèo không ngừng nâng cao nhận thức về pháp luật; về nhân đạo trợ giúp pháp lý đã thể hiện đậm nét tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc. ở Việt Nam, thuật ngữ "Trợ giúp pháp lý" chính thức được quy định trong trong Quyết định 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Theo đó thuật ngữ "Trợ giúp pháp lý" xuất hiện phổ biến trên các văn bản pháp luật, sách báo và tạp chí. Trong quá trình xây dựng "Luật trợ giúp pháp lý" các nhà khoa học nghiên cứu về trợ giúp pháp lý trên cơ sở tham khảo khái niệm "trợ giúp pháp lý" của một số nước trên thế giới và các quan niệm về "trợ giúp pháp lý" ở Việt Nam để đưa ra một số khái niệm về "trợ giúp pháp lý". Theo đó khái niệm "trợ giúp pháp lý" được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, trợ giúp pháp lý được hiểu là việc thực hiện các dịch vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước và xã hội cho người nghèo, người được hưởng chính sách ưu đãi và một số đối tượng khác do pháp luật quy định. Bằng các hoạt động tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa, kiến nghị giải quyết vụ việc và tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trong tiếp cận pháp luật, góp phần thực hiện công bằng xã hội.
  11. Theo nghĩa hẹp, trợ giúp pháp lý được hiểu là việc thực hiện các dịch vụ pháp lý miễn phí của các tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước cho người nghèo và người được hưởng chính sách ưu đãi thông qua hình thức tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa, kiến nghị giải quyết vụ việc và tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trong tiếp cận pháp luật, góp phần thực hiện công bằng xã hội. Khái niệm "trợ giúp pháp lý" nêu trên đã chỉ rõ mục đích của hoạt động trợ giúp pháp lý là nhằm hướng tới bảo đảm thực hiện công bằng xã hội, phù hợp với điều kiện ngân sách Nhà nước phải chi trả cho hoạt động trợ giúp pháp lý. Tại điều 3 - Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006 quy định: Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Từ phân tích trên, xác định nội dung trợ giúp pháp lý bao gồm: Thứ nhất, thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý của Trung trâm Trợ giúp pháp lý nhà nước; tổ chức hành nghề luật sư; tổ chức tư vấn pháp luật và cá nhân. Thứ hai, thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý miễn phí, tức là không thu tiền với các hình thức trợ giúp pháp lý như: Tư vấn pháp lý; làm văn bản như làm đơn khiếu nại, tố cáo, các văn bản p háp lý khác cho đối tượng được trợ giúp pháp lý; bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của đối tượng được trợ giúp pháp lý... Thứ ba, đối tượng được trợ giúp pháp lý là người nghèo và đối tượng chính sách xã hội. 1.1.1.2. Khái niệm người nghèo và đối tượng chính sách xã hội - Người nghèo trong xã hội là một hiện t ượng xã hội: Có hai loại nghèo, nghèo về vật chất và nghèo về tinh thần (về tri thức), nghèo thường thiếu ăn, thiếu các điều kiện vật chất phục vụ cho cuộc sống hàng ngày. Cho nên các mục tiêu ăn, ở, mặc, đi lại, học hành là không được bảo đảm. Nghèo về tinh thần, nó hạn chế về nhận thức, hạn chế về thông
  12. tin. Trong điều kiện đổi mới ở nước ta, đặc biệt là vận dụng cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến việc phân hoá giàu nghèo. Nguyên nhân dẫn đến nghèo thì có những nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến nghèo. Về nguyên nhân khách quan: Do môi trường kinh tế, môi trường xã hội, môi trường địa lý; thất nghiệp dẫn đến nghèo là vấn đề tất yếu trong xã hội. Về nguyên nhân chủ quan: Do năng lực tự thân, nhận thức, kiến thức, kỹ năng lao động của con người hạn chế. Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bản chất của Nhà nước ta là nhằm vào con người, xây dựng con người phát triển toàn diện và đó cũng là động lực để phát triển xã hội; mục tiêu cơ bản là xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do đó, Đảng và Nhà nước ta có chính sách giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn. Trong điều kiện quốc tế, vấn đề xoá đói giảm nghèo trở thành vấn đề toàn cầu. Người nghèo ở nước ta được xác định theo các tiêu chí như: mức thu nhập, điều kiện sinh hoạt... Mục đích chính sách của Nhà nước là trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách miễn phí nhằm giúp cho các đối tượng trên tham gia các quan hệ pháp luật, thực hiện nghĩa vụ công dân nh ư mọi người khác. Để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho họ, bảo đảm bình đẳng trước pháp luật của mọi người, bảo đảm trật tự pháp luật. - Đối tượng chính sách xã hội: chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta đối với người nghèo nêu ở trên, mà còn đối với những người cô đơn, không nơi nương tựa... Đây là những người không có điều kiện, họ gặp khó khăn nếu không có sự trợ giúp thì họ không tiếp cận với pháp luật được, không hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia các hoạt động pháp luật. Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Lân, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2005 thì: "Đối tượng" là sự việc nhằm vào để nghiên cứu hoặc hoạt động [35, tr.665], còn "chính sách" thì: Chính: việc nước, sách: kế hoạch, tức là đường lối, chủ trương của một Chính phủ hay một chính Đảng [35, tr.336]. Như vậy, đối tượng chính sách chúng ta có thể hiểu là: Một bộ phận dân cư gặp khó khăn nhất định, được Nhà nước trợ giúp bằng một hoặc một số chủ trương, chính sách cụ thể, để họ giảm bớt khó khăn, góp phần thực hiện công bằng xã hội. Còn người nghèo là người thuộc hộ nghèo, được xác
  13. định theo chuẩn nghèo, do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng giai đoạn. Từ đó, chúng ta có thể khái niệm đối tượng người nghèo và đối tượng chính sách như sau: Đối tượng người nghèo và đối tượng chính sách là những người thuộc hộ nghèo được xác định theo chuẩn nghèo do Chính phủ quy định trong từng giai đoạn; những người có công với cách mạng, người già cô đơn không nơi nương tựa, người tàn tật không nơi nương tựa, trẻ em không nơi nương tựa, người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng mà điều kiện kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, được hưởng các chính sách, chủ trương của Nhà nước, trong đó họ được quyền hưởng trợ cấp pháp lý miễn phí của Nhà nước và các tổ chức xã hội. Luật Trợ giúp pháp lý quy định cụ thể người nghèo và đối tượng chính sách như sau: Người nghèo: là người thuộc hộ nghèo, được xác định theo chuẩn nghèo do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng giai đoạn. Theo điều 1 Quyết định số 170/2005/QĐ- TTg ngày 08/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người từ 200.000đ/người/tháng (2.400.000 đ/năm) trở xuống đối với khu vực nông thôn và từ 260.000đ/người/tháng (3.120.000đ/năm) trở xuống đối với khu vực thành thị. Hộ nghèo được cơ quan nhà nước có thẩm cấp giấy chứng nhận hộ nghèo, tức là sổ hộ nghèo, để họ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước nói chung và hưởng chính sách trợ giúp pháp lý nói riêng. Đối tượng chính sách: Theo quy định tại điều 10 - Luật Trợ giúp pháp lý, đối tượng chính sách gồm: người có công với cách mạng, người già cô đơn không nơi nương tựa, người tàn tật không nơi nương tựa, trẻ em không nơi nương tựa, người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng mà điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ phù hợp với từng giai đoạn. 1.1.2. Khái niệm, nội dung pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội 1.1.2.1. Khái niệm pháp luật xã hội chủ nghĩa Để tiếp cận pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội, chúng ta tìm hiểu khái niệm pháp luật XHCN nói chung để từ đó nhận diện nó trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý.
  14. Pháp luật XHCN là hệ thống quy phạm pháp luật thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân lao động, được Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN. 1.1.2.2. Khái niệm về pháp luật trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội Để đi đến xây dựng khái niệm về pháp luật trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội, cần tiếp cận các quan điểm sau đây: Một là, theo quan điểm truyền thống một ngành luật phải có đối tượng điều chỉnh riêng và có phương pháp điều chỉnh đặc trưng. Pháp luật trợ giúp pháp lý là toàn bộ các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động trợ giúp pháp lý. Như vậy, có thể xác định đối tượng điều chỉnh của pháp luật này là các quan hệ xã hội sau đây: Thứ nhất, mối quan hệ giữa người tổ chức hoặc cá nhân trợ giúp pháp lý với đối tượng được trợ giúp pháp lý nhằm giúp đỡ các đối tượng này hiểu rõ nội dung bản chất các quy phạm pháp luật để họ lựa chọn phương pháp xử sự đúng theo pháp luật và có lợi. Thứ hai, mối quan hệ xã hội giữa người trợ giúp pháp lý với đối tượng được trợ giúp pháp lý nhằm cảnh báo họ để họ hiểu biết pháp luật mà không thực hiện các hành vi trái pháp luật, tránh được các vi phạm pháp luật và các trách nhiệm pháp lý dẫn đến hậu quả bất lợi cho họ. Thứ ba, mối quan hệ xã hội giữa người trợ giúp pháp lý với đối tượng được trợ giúp pháp lý nhằm giúp họ trực tiếp hoặc hướng dẫn họ lập di chúc, hợp đồng dân sự, lao động và các loại đơn từ, văn bản pháp lý khác. Thứ tư, mối quan hệ trợ giúp pháp lý của luật sư theo yêu cầu của người nghèo và đối tượng chính sách xã hội trong quan hệ tố tụng dân sự, lao động, hôn nhân gia đình, tố tụng hành chính và tố tụng hình sự. Phương pháp điều chỉnh bốn loại quan hệ trên là phương pháp điều hành của luật hành chính và phương pháp điều chỉnh của luật dân sự.
  15. - Phương pháp hành chính thể hiện trong trách nhiệm của các công ty t ư vấn, trung tâm tư vấn pháp lý phải thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý mà không được lấy tiền công. Tiền công này do Nhà nước chi trả và làm theo sự uỷ thác của Nhà nước. - Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự là phương pháp thoả thuận, bình đẳng. Trong mối quan hệ trợ giúp pháp lý thực hiện theo hợp đồng dân sự giữa người và đối tượng chính sách xã hội với người trợ giúp pháp lý... Như vậy, có thể coi pháp luật trợ giúp pháp lý cho Nhà nước và đối tượng chính sách xã hội là một ngành luật. Hai là, theo khái niệm Luật Dân sự: thì các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động trợ giúp pháp lý nêu ở trên đều là đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự. Có thể coi các quan hệ xã hội phát sinh trong trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội là quan hệ hợp đồng dân sự. Nội dung của hợp đồng loại này là cung ứng các dịch vụ pháp lý. Ba là, theo quan điểm tổng hợp hai quan điểm trên, nghĩa là tổng hợp những căn c ứ hợp lý của quan điểm một và quan điểm hai. Đồng thời có tính đến hoạt động trợ giúp pháp lý với tư cách là giúp đỡ người nghèo trong các quan hệ tố tụng đặc biệt là quan hệ tố tụng dân sự và quan hệ tố tụng hình sự. Theo đó có thể xác định pháp luật trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội là một lĩnh vực pháp luật độc lập tương đối, tuy nhiên có sự đan xen ít nhiều với các ngành và lĩnh vực pháp luật khác. Căn cứ vào thành tựu lập pháp, các văn bản pháp luật hiện hành về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay; chủ yếu là Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 có thể đưa ra khái niệm pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách như sau: pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách là tổng thể các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, đó là việc cung cấp các dịch vụ pháp lý và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo và đối tượng chính sách. 1.1.3. Nội dung pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội
  16. Nghiên cứu pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách cho thấy, Luật Trợ giúp pháp lý đã thể hiện rõ nội dung, quan điểm cơ bản của pháp luật về trợ giúp pháp lý trong điều kiện đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền. Tại Điều 3 Luật Trợ giúp pháp lý đã xác định trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo các hình thức, thủ tục quy định cụ thể trong luật. Như vậy, nội hàm của khái niệm trợ giúp pháp lý gồm ba nội dung chủ yếu, thứ nhất là dịch vụ pháp lý miễn phí, thứ hai là giành cho người được trợ giúp pháp lý và thứ ba là có hình thức, thủ tục phù hợp với quy định của Luật Trợ giúp pháp lý. Từ ba đặc trưng cơ bản trên luật đã thể hiện được bản chất của trợ giúp pháp lý. Theo đó, trợ giúp pháp lý được xác định là một loại hình dịch vụ pháp lý dành cho những đối tượng nhất định thuộc diện Nhà nước và xã hội phải quan tâm, giúp đỡ. Xuất phát từ nền tảng đó dịch vụ pháp lý ở đây được thực hiện miễn phí và người được trợ giúp pháp lý không phải chi trả bất cứ một khoản chi phí nào. Điều quan trọng là cung ứng các dịch vụ pháp lý phải tuân theo các quy định chặt chẽ trong luật, như các vấn đề liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý, hình thức trợ giúp pháp lý, phạm vi, thủ tục trợ giúp pháp lý. Luật trợ giúp pháp lý, phạm vi điều chỉnh bao gồm các vấn đề như: người được trợ giúp pháp lý, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý, hoạt động trợ giúp pháp lý, quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý. Luật Trợ giúp pháp lý đã xác định phạm vi các đối tượng thuộc diện được hưởng lợi ích từ chính sách trợ giúp pháp lý. So với các quy định của pháp luật hiện hành, Luật Trợ giúp pháp lý đã có những thay đổi phạm vi diện người được trợ giúp pháp lý. Nếu như trước đây chỉ người nghèo, đối tượng chính sách và một số đối tượng khác mới được trợ giúp pháp lý thì Luật Trợ giúp pháp lý đã bổ sung thêm đối tượng là người già cô đơn, người tàn tật và một số đối tượng thuộc diện có công với cách mạng. Quy định mới này, một mặt là cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về bảo đảm quyền cho một số đối tượng cần được Nhà nước và xã hội quan tâm, giúp đỡ, mặt khác khẳng định sự nhất quán trong các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là chính sách xoá đói, giảm nghèo, chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, chính sách dân tộc, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN ở Việt Nam. Luật Trợ giúp pháp lý xác định tương đối rõ các vấn đề về tổ chức thực hiện trợ
  17. giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý, Điều 13 Luật quy định các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý là Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý. Trong đó các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý gồm có: Tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật, thuộc tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức chính trị, xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp thực hiện đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý. Tại Điều 20 Luật quy định người thực hiện trợ giúp pháp lý là trợ giúp viên pháp lý và người tham gia trợ giúp pháp lý là cộng tác viên của Trung tâm; Luật sư, tư vấn viên pháp luật làm việc trong các tổ chức tư vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức chính trị, xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp. Để phù hợp với bản chất của trợ giúp pháp lý, Luật Trợ giúp pháp lý đã xác định phạm vi cần điều chỉnh là các vấn đề mang tính nền tảng của hoạt động trợ giúp pháp lý như các nguyên tắc hoạt động, vụ việc trợ giúp pháp lý, phạm vi thực hiện trợ giúp pháp lý, các hình thức trợ giúp pháp lý và quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý. Điều 4 Luật Trợ giúp pháp lý quy định các nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý như: không thu phí, lệ phí, thù lao từ người được trợ giúp pháp lý; Trung thực, tôn trọng sự thật khách quan; Sử dụng các biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý; tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý; nguyên tắc chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trợ giúp pháp lý. Đây là những quan điểm chỉ đạo mang tính xuyên suốt hoạt động trợ giúp pháp lý, buộc các chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý đều có trách nhiệm tuân thủ và trở thành kim chỉ nam cho hoạt động trợ giúp pháp lý. Điều 5 Luật Trợ giúp pháp lý xác định những vụ việc liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý mà không thuộc lĩnh vực kinh doanh, thương mại thì mới được trợ giúp pháp lý để đảm bảo nguồn lực và giải quyết có chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý. Điều 27 Luật trợ giúp pháp lý quy định rõ hình thức trợ giúp pháp lý, bao gồm: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và các hình thức trợ giúp pháp lý khác. Trong đó, hình thức tư vấn pháp luật được xác định là hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp luật, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý. Còn hình thức tham gia tố tụng được xác định là việc trợ giúp viên pháp lý, luật sư tham gia tố tụng hình sự để bào chữa cho người được trợ giúp pháp lý là người bị tạm giữ, bị can, bị
  18. cáo hoặc để bảo vệ quyền lợi của người được trợ giúp pháp lý là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự hoặc tham gia tố tụng dân sự, tố tụng hình sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính. Các hình thức trợ giúp pháp lý khác bao gồm giúp đỡ người được trợ giúp pháp lý hoà giải, thực hiện những công việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật. Luật Trợ giúp pháp lý còn làm rõ những yêu cầu trong hoạt động quản lý đối với lĩnh vực đặc thù này thông qua các quy định liên quan đến nội dung quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý và thiết lập hệ thống trách nhiệm của cơ quan chức năng thực hiện quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý. Về chính sách trợ giúp pháp lý: cùng với việc xác định phạm vi điều chỉnh, Điều 6 - Luật Trợ giúp pháp lý đã thiết lập nội dung chính sách trợ giúp pháp lý của Việt Nam trong từng giai đoạn hiện nay. Theo đó, trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý; đồng thời Nhà nước có nhiệm vụ khuyến khích tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sư và luật sư, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia thực hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt động trợ giúp pháp lý. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam, Nhà nước ta đã công khai tuyên bố trước toàn thể nhân dân và quốc tế về trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận và sử dụng pháp luật của công dân, nhất là khi họ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt cần có sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội, đồng thời xác định rõ trợ giúp pháp lý không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Nhằm bảo đảm thực thi vai trò nòng cốt của Nhà nước trong việc thực hiện và tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, Luật đã kiện toàn, củng cố và tăng cường vai trò của các Trung tâm Trợ giúp pháp lý thuộc Sở Tư pháp, kiện toàn và chuẩn hoá đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý làm việc tại các Trung tâm Trợ giúp pháp lý. Trong Điều 14 và Điều 16 Luật quy định Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập, Trung tâm trợ giúp pháp lý là một đơn vị trực thuộc Sở Tư pháp, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng. Giám đốc Trung tâm trợ giúp
  19. pháp lý do Chủ tịch UBND cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Trung tâm trợ giúp pháp lý có thể có chi nhánh, chi nhánh là đơn vị phụ thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý. Việc thành lập chi nhánh do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định. Quán triệt quan điểm xã hội hoá hoạt động trợ giúp pháp lý, Luật Trợ giúp pháp lý đã thiết lập cơ chế tham gia trợ giúp pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư và tổ chức tư vấn pháp luật. Như vậy, cùng với việc mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý. Luật Trợ giúp pháp lý đã mở rộng hơn diện tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, cho phép tổ chức hành nghề luật sư và Luật sư, Trung tâm tư vấn pháp luật tham gia trợ giúp pháp lý. Trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự trang trải và từng bước xã hội hoá trợ giúp pháp lý, giảm gánh nặng cho Nhà nước về đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý. Luật trợ giúp pháp lý đã xác định người thực hiện trợ giúp pháp lý phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện, tiêu chuẩn nhất định; trong đó chú trọng xây dựng đội ngũ trợ giúp viên pháp lý và đội ngũ cộng tác viên, đồng thời huy động các luật sư, tư vấn viên pháp luật tham gia trợ giúp pháp lý. Đa dạng hoá người thực hiện trợ giúp pháp lý và phù hợp với nguồn lực hiện có của Việt Nam. Luật Trợ giúp pháp lý đã pháp điển hoá các quy định pháp luật hiện hành về chế độ cộng tác viên theo hướng mở rộng thêm những người có bằng đại học khác. Điều 22 Luật Trợ giúp pháp lý đã quy định: công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, có đủ sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, tự nguyện tham gia trợ giúp pháp lý mà không thuộc các trường hợp cấm theo quy định tại Điều 20 Luật Trợ giúp pháp lý thì được Giám đốc Sở Tư pháp xem xét, công nhận và cấp thẻ cộng tác viên. Để phù hợp với trình độ chuyên môn, thực hiện việc phân công chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý căn cứ vào tính chất phức tạp của từng vụ việc, Luật Trợ giúp pháp lý quy định cộng tác viên không phải là luật sư chỉ tham gia trợ giúp pháp lý bằng hình thức tư vấn pháp luật. Về các đảm bảo để công tác trợ giúp pháp lý phát triển ổn định và vững chắc: Về nội dung này, ngoài vấn đề bảo đảm về tổ chức, cán bộ, Luật Trợ giúp pháp lý đã xác định một cơ chế đồng bộ về chỉ đạo điều hành để Luật Trợ giúp pháp lý đi vào cuộc sống. Luật đã xác định trách nhiệm và nội dung quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, trách nhiệm của Chính phủ, trách nhiệm của Bộ Tư pháp, các bộ và cơ quan ngang bộ trong phối hợp thực
  20. hiện quản lý Nhà nước về trợ giúp pháp lý. Xác định trách nhiệm của UBND cấp tỉnh trong việc quản lý nhà nước, bảo đảm biên chế, kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ở địa phương có khó khăn về kinh tế. Nguồn tài chính của quỹ gồm các đóng góp tự nguyện, tài trợ của cơ quan, tổ chức, cá nhân, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và các nguồn hợp pháp khác. Quỹ hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, được miễn thuế. Việc thành lập, quản lý, sử dụng quỹ do Chính phủ quy định cụ thể. 1.2. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức thực hiện pháp Luật trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội 1.2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội Theo quan điểm của Trường Đại học Luật Hà Nội thì "thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hoá các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật "[28, tr.463]. Hay diễn đạt một cách khác: "thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật" [31]. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, trách nhiệm thực hiện pháp luật mang tính nguyên tắc do Hiến pháp quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN". Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật [43]. Quản lý nhà nước bằng pháp luật đòi hỏi Nhà nước phải ban hành pháp luật. Nếu pháp luật ban hành nhiều nhưng ít đi vào cuộc sống, hiệu quả điều chỉnh của các quy phạm pháp luật không cao, chứng tỏ quản lý nhà nước kém hiệu quả. Do đó, xây dựng pháp luật
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
16=>1