intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo giải pháp công tác quản lý Tiểu học: Một số biện pháp hướng dẫn giáo viên trang trí và sử dụng công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN

Chia sẻ: Dung Hoang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

28
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo báo cáo để nắm chi tiết một số biện pháp hướng dẫn giáo viên trang trí và sử dụng công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo giải pháp công tác quản lý Tiểu học: Một số biện pháp hướng dẫn giáo viên trang trí và sử dụng công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc    BÁO CÁO GIẢI PHÁP CÔNG TÁC QUẢN LÝ I. SƠ LƯỢC BẢN THÂN ­ Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Tâm.              Năm sinh: 1977 ­ Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: ĐHSP ­ Chức năng, nhiệm vụ được phân công: PHT ­ Đơn vị công tác: Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai II. NỘI DUNG 1. Tên giải pháp: Một số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng  Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN. 2. Nêu thực trạng tình hình của tập thể  trước khi chưa thực hiện giải   pháp quản lý.    Trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai (mặc dù đã là trường chuẩn   quốc gia) nhưng vẫn còn rất nhiều khó khăn về  cơ  sở  vật chất không thể  “một sớm, một chiều” mà khắc phục được ngay. Trước hết, diện tích lớp   học nhỏ, sĩ số học sinh lại đông nên việc trang trí các góc học tập chưa được  như mong muốn. Một vài giáo viên chưa biết cách phối hợp hài hòa giữa các công cụ  trong lớp, còn trang trí  lòe loẹt, rối mắt.  Một số  giáo viên tuổi cao  và một số  giáo viên nữ  đang  trong độ  tuổi   sinh đẻ nên có tác động không nhỏ đến việc thực hiện triển khai mô hình mới  trong nhà trường.  Một số  giáo viên chưa hiểu hết tác dụng của các Công cụ  lớp học nên  việc sử dụng chưa đạt hiệu quả cao.  Việc chuyển đổi từ  phương pháp truyền thống qua phương pháp dạy  học tích cực còn mới mẻ nên không khỏi gây cho GV, HS và phụ huynh sự bỡ  ngỡ. Học sinh vùng nông thôn một số  kĩ năng còn nhiều hạn chế  như: giao  tiếp, hợp tác, lãnh đạo,… 1
  2. Chuyển đổi từ  phương pháp truyền thống qua phương pháp học tích  cực một cách đột ngột nên không khỏi gây cho GV, HS và phụ  huynh tâm lý  hoang mang, sợ  học sinh không tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối  tượng học sinh còn hạn chế về năng lực. Một số PHHS chưa quan tâm tới việc học của con em, còn phó mặc cho  giáo viên. Một số giáo viên còn lúng túng khi tổ chức hướng dẫn học sinh sủ dụng   công cụ và sử dụng công cụ chưa đúng mục đích, chưa phù hợp với thời điểm   nên công cụ  chưa được phát huy tác dụng.  Một vài giáo viên còn thụ  động  trong việc trang trí và sử dụng các Công cụ lớp học. Chưa có sự sáng tạo, linh  hoạt để phát huy hết tác dụng của các Góc học tập. 3. Những yếu tố khách quan, chủ quan trong việc đưa ra giải pháp. Thứ nhất, cơ sở vật chất phải đảm bảo chuẩn theo yêu cầu của mô hình   Vnen. Thứ  hai, nhận thức và sự  cầu tiến của giáo viên rất quan trọng. Họ  là  nhân vật chính để thay đổi phương pháp dạy học. Thứ  ba, sự  tiếp thu và tiến bộ  của học sinh, đây chính là  ”sản phẩm”  của quá trình dạy học. Chất lượng học sinh quyết định kết quả của việc đổi  mới giáo dục. Thứ  tư, sự  nhiệt tình tham gia của cộng đồng, họ  phải đồng thuận với   chúng ta trên con đường giáo dục hiện nay. Một yếu tố tác động mà bất cứ trường tiểu học nào cũng sẽ  gặp phải   khi triển khai thực nghiệm mô hình VNEN, đó là học sinh từ lớp 1 lên lớp 2  khả năng điều hành của nhóm trưởng chưa tốt, chưa quen với việc tương tác  với các công cụ lớp học nên phải mất nhiều thời gian để giáo viên hướng dẫn  học sinh  ở  những  tháng đầu năm học mới,  cần có thời gian để  các em làm   quen. Bởi vậy, dù các học sinh trong lớp đã tự bầu ra được hội đồng học tập,   các nhóm học tập nhưng cũng phải mất một vài tháng đầu năm học, các em  học sinh trong  mới có thể luân phiên đảm nhận trách nhiệm làm nhóm trưởng  để giúp các em có được sự tự tin, hoạt bát như mục tiêu của mô hình VNEN  đề ra. Thực tế  giáo dục nói chung và dạy học nói riêng của nước ta hiện nay  còn nhiều biểu hiện hạn chế, thậm chí còn lạc hậu trước những yêu cầu của   2
  3. nền kinh tế xã hội đang đổi mới và yêu cầu phát triển của đất nước. Vì vậy   việc quản lý hoạt động dạy học là nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học  để thực hiện chiến lược con người ­ nhân tố  quyết định sự  phát triển xã hội   là bức thiết, là quan trọng. Trước đây, vì chưa có kinh nghiệm nên việc trang trí còn mang nặng tính  hình thức,  màu mè, rườm rà và dẫn đến phản tác dụng cho việc tích hợp giữa   mục tiêu học tập, rèn luyện các kỹ  năng của học sinh. Thông thường công  việc này chỉ được khởi xướng rầm rộ vào đầu năm học. Nhưng sau đó không  được cập nhật nên dần dần bộc lộ những hạn chế. Năm nay, chúng tôi định  hướng   cho giáo viên để  việc trang trí lớp học có những nét chung mà vẫn  đảm bảo đặc thù riêng của từng lớp. Mỗi giáo viên phải  hiểu rõ ý nghĩa của   việc trang trí. Phải thuyết phục được học sinh, phụ huynh cùng tham gia. Phải  có kế hoạch sử dụng các Công cụ như thế nào cho đạt hiệu quả. Không được  để các Công cụ chỉ là “cho đẹp, cho đúng với hình thức lớp VNEN” mà phải  là một phần trong các tiết học nếu có nội dung phù hợp. Đó mới là cải đích  mà VNEN momg muốn. Phải khẳng định rằng, công cụ để tổ chức hoạt động dạy học trong nhà   trường VNEN là rất quan trọng, thông qua các công cụ  này, giáo viên có thể  phát hiện và nuôi dưỡng các tiềm năng; giải đáp những băn khoăn, lo lắng;   giúp các em phát triển sự  đam mê, sự  sáng tạo và hình thành nhân cách cùng  các kỹ năng hợp tác trong học tập. Học sinh sử dụng các công cụ để tham gia   hoạt động dựa trên vốn từ  vựng và năng lực của mình. Giáo viên có thể  hỗ  trợ  để  giúp các công cụ  này phát huy được tác dụng trong quá trình học tập  của học sinh. Vì vậy, giáo viên cần tận dụng tối đa những công cụ mà lớp lựa  chọn để phục vụ cho học tập và các hoạt động của lớp. Các công cụ đã được   chứng minh là hữu ích cho công tác quản lý các hoạt động ở lớp học, trường  học. 4. Các Giải pháp quản lý. Biện pháp 1:  Công tác tuyên truyền Biện pháp 2:  Công tác chỉ đạo Biện pháp 3: Đổi mới sinh hoạt chuyên môn Biện pháp 4: Làm tốt công tác thi đua khen thưởng  5. Minh chứng kèm theo giải pháp. 3
  4. Biện pháp 1:  Công tác tuyên truyền Để  thực hiện tốt chương trình VNEN, khâu đầu tiên là công tác tuyên  truyền. Đặc biệt, người quản lí phải thực sự  thấm nhuần bản chất của mô  hình VNEN. Từ đó truyên truyền sâu rộng trong  nhân dân, các ban ngành đoàn  thể, đặc biệt là trong Hội đồng sư  phạm. Tôi luôn xác định: mỗi giáo viên là  một “tuyên truyền viên”  xuất sắc  để giúp phụ huynh  và học sinh hiểu rõ về  VNEN. Có như  vậy mới tìm được sự  đồng thuận của cả  xã hội. Vì thế, khi  được Phòng giáo dục phân công chọn trường dạy thí điểm của dự  án, tôi đã   không khỏi băn khoăn lo lắng. Chúng tôi tham gia các cuộc họp dân của cả ba  thôn, giải thích cụ  thể  về  cách dạy, cách học và đặc biệt là sự  hợp tác của   cha mẹ  học sinh. Mới đầu thật là khó khăn vất vả, nhưng dần dần họ  cũng   hiểu và ủng hộ nhà trường. Về phía giáo viên và học sinh, sau khi được đi tập huấn tại Sở giáo dục,  phòng giáo dục, tôi đã tổ chức chuyên đề cấp trường để tất cả giáo viên thấm  nhuần việc dạy học theo mô hình Vnen. Đặc biệt, với công tác trang trí lớp,   tôi luôn tìm hiểu, sưu tầm qua các tài liệu để  định hướng cho giáo viên cách  thực hiện tốt nhất. Những năm  trước, chúng ta  đã thực hiện trang trí  “Trường học thân  thiện­ học sinh tích cực” nhưng mới đạt  ở  mức độ  hình thức. Với VNEN,  việc trang phải xác định rõ: Trang trí cho ai ? Trang trí để  làm gì ? Trang trí  như thế nào? Bộ phận nào thực hiện ? Vì vậy, cần thông tin, tuyên truyền sâu   rộng trong phụ huynh học sinh, chia sẻ với phụ huynh những điều họ còn băn   khoăn trong việc giảng dạy theo mô hình trường học mới (VNEN)   nhất là   vào buổi họp phụ  huynh đầu năm học để  từ  đó họ  hiểu   và  ủng hộ    nhà   trường, đăc biệt là trong công tác trang trí lớp học. Đồng thời, v iệc tạo ra một  môi trường học tập tốt, để các em coi lớp học như gia đình của mình là trách   nhiệm của mỗi thầy cô giáo. Từ đó các em sẽ thấy mỗi ngày đến trường thực   sự là một ngày vui.  Biện pháp 2:  Công tác chỉ đạo Triển khai đầy đủ, kịp thời các văn bản chỉ  đạo, hướng dẫn của các  cấp; chủ  động xây dựng và tổ  chức thực hiện kế  hoạch hoạt động của nhà  trường. Ngay từ  đầu năm học, tôi đã xây dựng kế  hoạch và đề  ra những giải   pháp cụ thể trong công tác quản lý nhằm khắc phục những khó khăn khi thực  4
  5. hiện việc dạy học theo mô hình trường học mới. Cử  giáo viên tham gia tập   huấn các chuyên đề  do Sở  giáo dục tổ  chức. Phân công giáo viên theo tình  hình thực tế của trường và chú ý đến việc phân công giáo viên giảng dạy theo   mô hình trường học mới (VNEN). Tham khảo ý kiến trong Hội đồng trường,  tổ  chuyên môn và thống nhất trong Ban giám hiệu phân công giáo viên theo  đúng trình độ  chuyên môn, sở  trường sở  đoản của giáo viên nhằm tạo điều  kiện cho họ phát huy hết khả năng của mình trong công tác giảng dạy. Lên kế  hoạch thực hiện cụ  thể theo từng khối lớp. Phân công thực hiện các chuyên   đề,   thường xuyên thăm lớp dự  giờ  để  giúp đỡ  kịp thời những khó khăn  vướng mắc của giáo viên. Chỉ đạo cán bộ thư viện  trang bị đầy đủ sách giáo   khoa, sách tham khảo và những tài liệu chuyên môn cần thiết cho công tác   giảng dạy.  * Về công tác chủ nhiệm lớp:    Tôi thấy rằng để xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực” là  phải bắt đầu từ  việc “xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Mỗi  lớp học thân thiện, mỗi học sinh tích cực là một viên gạch nền móng vững  chắc cho một ngôi trường thân thiện. Vì thế, vai trò của giáo viên chủ nhiệm   rất quan trọng. Họ là người quyết định sự thành công và chất lượng của từng   lớp. Nhiều lớp tốt sẽ có trường tốt. Họ  là nhịp cầu nối giữa gia đình và nhà  trường, là một “tuyên truyền viên” để  cộng đồng ủng hộ  chúng ta trong lĩnh  vực giáo dục hiện nay.   Yêu cầu giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Họp cha mẹ học sinh  đầu năm để triển khai kế hoạch của nhà trường. Cùng cha mẹ học sinh thực  hiện kế hoạch trang trí lớp học. Vận động họ phối hợp nhịp nhàng trong việc  giáo dục các em. Đưa hoạt động trang trí lớp vào tiêu chuẩn thi đua và xếp loại GVCN.  Đưa việc sử  dụng các Công cụ  vào tiêu chí đánh giá giờ  dạy của mỗi giáo  viên. * Về công tác trang trí lớp học:  Môi trường học tập xanh, sạch, đẹp, an toàn, thân thiện là yếu tố  rất  quan trọng góp phần thu hút trẻ đến trường, đến lớp, góp thêm cho lớp học  một luồng không khí thân thiện, thoải mái, sinh động.  Vì vậy, tôi đã hướng dẫn, tư  vấn cho  giáo viên cách trang trí để  mỗi   lớp mang một sắc màu riêng. Tổ chức chuyên đề  cách sử  dụng để  tăng hiệu  5
  6. quả  tiết dạy, phát huy tối đa hiệu quả  của từng Công cụ. Từ  đó, giúp giáo   viên hiểu rõ về các Công cụ và tác dụng của nó. Không những thế, giáo viên  phải hướng dẫn cho học sinh biết tương tác với các Công cụ, biết phối hợp  với học sinh qua từng hoạt động. Quan trọng nhất, giáo viên phải hiểu được  Công cụ  lớp học là gì? Ai làm? Trang trí  ở  đâu? Sử  dụng như  thế  nào? Vì   vậy, ngay đầu năm học, tôi đã thực hiện chuyên đề về trang trí lớp và cách sử  dụng các Công cụ  lớp học. Chúng ta cần biết lựa chọn những Công cụ  nào   phù hợp với học sinh lớp mình, không nên lạm dụng vì sẽ  gây tốn kém và  lãng phí. Quan trọng nhất là bản thân mỗi giáo viên phải hiểu rõ tác dụng và   mục đích của từng loại Công cụ.     Nói chung, Hộp thư Bè bạn hay Hòm thư cá nhân đều là con đường dẫn   dắt giáo dục học sinh hoàn thiện dần cái hay cái đẹp, giúp tình cảm bạn bè  6
  7. của học sinh ngày càng thắm  thiết qua những lời tâm sự mộc mạc, ngây thơ  của tuổi học trò; từ  đó khơi dậy, thôi thúc các em thêm yêu trường, yêu lớp,   yêu bạn bè… qua những lời tâm tư tình cảm, còn là chiếc cầu nối của các em  với phụ  huynh và thầy cô giáo trong những trường hợp cần thiết mà các em  không thể nói trực tiếp. Nh ư   v ậ y,   n ế u   chúng   ta   bi ế t   cách   khai   thác   dù   là   nh ữ ng   chuy ệ n  nh ỏ  nh ư ng hi ệ u qu ả  giáo d ụ c đem l ạ i r ấ t l ớ n. *V ề  Góc sinh nh ậ t: * Góc cộng đồng 7
  8. Mục đích: Bản đồ  cộng đồng giúp HS biết được khoảng cách các em đi  học từ  nhà đến trường. Xác định được những thuận lợi khó khăn gặp trên  đường đi. Biết những chỗ nguy hiểm để tránh rủi ro. Biết địa chỉ  nhà bạn để  đến thăm. Nhà gần, nhà xa, nhà to, nhà nhỏ, chợ  Hòa Đông, chùa Thiện Hòa xuất  hiện đầy đủ  trong sơ  đồ. Nếu không có sự  hợp tác của cha  mẹ  các em thì   không thể tái hiện Góc cộng đồng một cách đầy đủ, chi tiết như vậy. Đây là   điều mới mẻ  mà công tác chủ  nhiệm trước kia chúng chưa làm được. Nếu   muốn đến nhà em A, chỉ  cần nhìn vào sơ  đồ  là ta sẽ  biết nhà  ở  vị  trí nào.   Không những thế, Góc Cộng đồng còn giúp giáo dục các em ý thức về “cộng  đồng”, khiến các thêm yêu mến quê hương mình hơn. Qua đó, nhịp cầu nối  giữa gia đình và nhà trường càng xích lại gần nhau hơn. Một Phụ huynh lớp 3B   chia sẻ: “Tôi tất vui khi được tham gia học cùng con. Có như vậy tôi mới biết   con mình đang học cái gì, học như thế nào?” Trong Góc học tập có Góc Tiếng Việt:  Các sản phẩm do HS, GV làm ra: các tác phẩm, truyện, bài văn, hình vẽ  các sản phẩm cắt dán hay sản phẩm thực hành. Ví dụ: thẻ từ, thẻ câu, thẻ dấu   thanh, mẫu chữ viết hoa, ca dao tục ngữ… 8
  9.   Nét chữ nết người Có Góc Toán:   GV và HS chuẩn bị đồ dùng trong góc môn Toán, các em có thể tự  làm  các phép cộng, phép trừ, bảng cộng, bảng trừ, bảng nhân chia... Ngoài ra còn có  thêm những tài liệu giới thiệu cách học toán, cách tính, trưng bày một số phép  tính do HS thực hiện đúng, trình bày đẹp ở góc toán. Để Góc được phong phú  hơn, tôi lưu ý giáo viên nên trưng bày theo mạch kiến thức của chương trình.   Các em học tới đâu, sưu tầm tài liệu tới đấy. Ví dụ  các dạng toán, các công  thức… và kết quả là những bài kiểm tra, những kết luận của nhóm … Tôi thích nhất là Góc Tự nhiên. Nếu trong lớp học chỉ có bảng đen, phấn   trắng, thiếu  bóng dáng cây xanh thì thật là đơn điệu. Bây giờ thì khác rồi, nào   hoa, nào lá, nào cây, cứ thân thiện mơn mởn tỏa không khí trong lành khắp lớp  học. Nhìn vào Góc Thiên nhiên học sinh thấy đỡ mệt mỏi căng thẳng và thêm  yêu cuộc sống xung quanh. Đồng thời, qua đó giáo viên giáo dục học sinh biết  yêu quý bảo vệ cây cối vì nó rất có ích cho chúng ta. Thật đúng như câu khẩu  hiệu: “ Trường em xanh ­ sạch ­ đẹp”. 9
  10. Góc tự nhiên lớp 3A Biện pháp 3: Đổi mới sinh hoạt chuyên môn Ngoài việc triển khai và chỉ đạo công tác trang trí lớp học, cách sử dụng  các Công cụ hỗ trợ học tập, tôi luôn xác định rõ vai trò chỉ đạo các hoạt động  chuyên môn. Từ   khi   trường   tham   gia   vào   môi   trường   mô   hình   trường   học   mới   (VNEN). Tôi thấy rằng trường sẽ  được đổi mới, sẽ  tạo ra những hình thức   và phương pháp hoạt động đem lại một chất lượng dạy học mới. Cung cấp   các điều kiện, những yếu tố kỹ thuật mới cho giáo viên phát triển hoạt động  nghề  nghiệp của mình. Trong môi trường mới, năng lực của GV sẽ  được  nhân lên nhiều lần, song trong môi trường đó cũng đòi hỏi GV phải cố gắng  cao, phải có những kiến thức và kỹ  năng mới. Tất cả  những giáo viên được   chọn dạy mô hình VNEN đều phải được tập huấn ít nhất là  ở  cấp trường.  Phải thấm nhuần tinh thần VNEN, sẵn sàng cho một cuộc đổi mới trong dạy  học.    Ban giám hiệu không khoanh tay đứng nhìn mà vào cuộc cùng với giáo  viên, chia sẻ  những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện. Các cuộc họp khối  chúng tôi đều tham gia với giáo viên. Định hướng cho họ  trong việc lập kế  hoạch dạy học cũng như kế hoạch đánh giá học sinh.    Tổ  chức sinh hoạt chuyên môn theo hướng “Lấy học sinh làm trung  tâm”, dự giờ theo kiểu “cắt lát”. Đánh giá theo chiều phát triển của giáo viên  và học sinh. Sau mỗi đợt, họp tổng kết rút kinh nghiệm. Phân công chuyên đề  các môn, thao giảng dự giờ để giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.  10
  11. Biện pháp 4: Làm tốt công tác thi đua khen thưởng  Thi đua là một hình thức “cạnh tranh lành mạnh” trong môi trường giáo  dục. Thúc đẩy sự  phấn đấu và khai thác tiềm năng sẵn có của mỗi cá nhân.  Sinh thời Bác Hồ  thường kêu gọi cả  nước “ngành thi đua – người người thi   đua”, “thi đua là yêu nước”. Đúng vậy, ở đâu có thi đua, ở đó có sáng tạo, có   sự thành công vượt bậc. Với nghề dạy học của chúng ta rất cần có sự thi đua   giữa các lớp, giữa giáo viên và học sinh. Trong một năm học có rất nhiều  phong trào được phát động như  phong tào thi đua   “Hai tốt”, Vở  sạch chữ  đẹp, Trường học than thiện – học sinh tích cực, GV chủ  nhiệm giỏi… Và  trang trí lớp học là một trong các tiêu chí để xếp loại GV chủ nhiệm giỏi cấp   trường; Sử dụng các công cụ lớp học là một trong những tiêu chí để đánh giá   xếp loại giờ dạy của mỗi giáo viên.  Ngoài việc thường xuyên kiểm tra cách làm việc của cô – trò  từng lớp.   Tôi tiến hành   đánh giá thành hai đợt: Cuối kì I và cuối năm. Họp rút kinh   nghiệm sau mỗi đợt kiểm tra. Vận dụng hình thức “nêu gương” để kích thích   giáo viên và học sinh phát huy hết năng lực của mình. Như vậy, có phát động  thì phải có tổng kết. trước khi tổng kết, tôi cho giáo viên tự  bình chon trong   khối những cá nhân tiêu biểu để nhà trường khen thưởng. Qua đó, nhân rộng  điển hình những cá nhân, tập thể lớp làm tốt để nhiều người học tập. * Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu  Qua 5 năm triển khai Dự  án dạy theo mô hình VNEN, giáo viên và học   sinh đã thích nghi với môi trường học tập mới. Bởi đây là phương pháp dạy   học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập mang tính tương tác  và phù hợp với từng cá nhân học sinh; chuyển việc truyền thụ của giáo viên   thành việc hướng dẫn học sinh tự  học. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để  các em phát huy tính độc lập, chủ động tiếp thu kiến thức và hiểu sâu sắc các   kiến thức trong bài học; rèn luyện cho các em được nhiều kỹ  năng sống, kỹ  năng tập thể trong cách hoạt động học theo nhóm. Môi trường học thoải mái,  thân thiện.   Đội ngũ giáo viên đã có sự  chuyển đổi về  nhận thức, hứng thú, yêu  thích việc tổ chức cho học sinh sử dụng và khai thác công cụ, chủ động, sáng  tạo khi tổ chức lớp học. Học sinh mạnh dạn, tự tin, hứng thú khi được tham  gia, được ứng dụng thực tiễn, có nhiều kĩ năng sống, các năng lực cơ bản, có   ý thức trách nhiệm trong học tập và quản lí lớp học tốt.  11
  12. Đa số phụ huynh ủng hộ nhiệt tình phong trào trang trí lớp học. Họ đóng   góp tiền bạc, vật liệu và công sức rất nhiều nhưng điều quý nhất là họ  đã  biết chia sẻ việc học với con em mình. Đã biết quan tâm đến môi trường giáo   dục và chất lượng của con. Từ  đó tạo được sự  đồng thuận sâu rộng trong   nhân dân. 6. Định hướng phát triển giải pháp cho các năm học tiếp theo. Để việc trang trí lớp học có tác dụng, phần lớn phụ thuộc vào giáo viên  chủ  nhiệm. Họ  là người  lên kế  hoạch, là người  tuyên truyền, hợp tác với  phụ huynh, học sinh trong lớp. Là người vận dụng từng loại Công cụ sao cho   phù hợp với từng nội dung bài học, giúp học sinh hứng thú và tiếp thu bài   hiệu quả  hơn. Họ  phải rèn cho HS kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng học  tập hợp tác. kĩ năng điều hành, ghép nối, giao tiếp. Vì đây là kĩ năng cần thiết   để hình thành kĩ năng tự học.  Như vậy để thực hiện tốt các biện pháp trên cần có sự thống nhất quan   điểm từ lãnh đạo đến giáo viên. Có như  vậy mới đạt được mục tiêu mà nhà  trường đã đề ra.  Bản thân người cán bộ  quản lí  không được nôn nóng, luôn kịp thời tư  vấn để đội ngũ “vui vẻ”, “ thuận hòa” thực hiện và thực hiện có sáng tạo, có  “cái tâm”. Triển khai kế  hoạch và giao trách nhiệm cho từng cá nhân để  họ  thực sự  góp sức vào công cuộc đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình   VNEN. Chỉ đạo thành lập tổ tư vấn chuyên môn theo kế hoạch, kiểm tra, giám  sát các giai đoạn thực hiện. Sau mỗi đợt giám sát đều có kết luận, hướng dẫn   rút kinh nghiệm, đề xuất gợi ý các giải pháp thực hiện. 7. Đề xuất, kiến nghị Đối với Ban giám hiệu: Làm tốt công tác tham mưu, tuyên truyền, xã hội hóa về mô hình VNEN  tại địa phương, cộng đồng và CMHS, đặc biệt là sự  tham gia của CMHS và  cộng đồng trong việc trang trí lớp học. Đối với giáo viên: Chú trọng công tác trang trí lớp học, tăng cường sử  dụng các công cụ  một cách linh hoạt, sáng tạo và có hiệu quả.  12
  13. Đầu tư  các giờ  dạy tập trung phát huy tối đa các công cụ  có trong lớp   học và hội  đồng tự  quản; đổi mới cách dự  giờ, thao giảng, sinh hoạt tổ  chuyên môn. XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ NGƯỜI LÀM BÁO CÁO (Ký, đóng dấu)   Nguyễn Thị Thanh Tâm XÁC NHẬN UBND HUYỆN XÁC NHẬN PHÒNG GIÁO DỤC  VÀ ĐÀO TẠO 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2